Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Luận văn một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty tnhh sao việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.89 KB, 45 trang )

Luận văn
Một số giải pháp nâng cao chất
lượng sản phẩm ở công ty
TNHH Sao Việt

1


LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay, thông tin kinh doanh
đang được lợi dụng để làm giàu, nhiều nhà sản xuất, các đại lý đã có lúc xem
nhẹ những lợi ích đích thực của người mua hàng, khi cung ứng cho họ những
sản phẩm không đạt chất lượng. Đặc biệt khi lý thuyết marketing đã thực sự
gia nhập vào đời sống, đã trở thành cứu cánh cho các nhà sản xuất đang cạnh
tranh với nhau quyết liệt, để hòng chia sẽ thị trường, chiếm đoạt mức lợi
nhuận mỗi ngày một khan hiếm hơn, thì chất lượng sản phẩm từ những người
sản xuất, có lúc đã buộc cơ quan pháp luật phải can thiệp. Vì vậy cạnh tranh
càng quyết liệt, yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm, để thoả mãn các nhu
cầu tiêu dùng, càng phải tăng lên. Sự đỗ vỡ sự nghiệp kinh doanh của nhiều
hãng sản xuất, kể cả những hãng lớn trên thế giới, cũng bắt đầu từ sự đổ vỡ
uy tín về chất lượng sản phẩm, từ sự xa lãnh của những người tiêu dùng, khi
nhu cầu của họ không được thoả mãn. Chất lượng sản phẩm là chất keo gắn
kết người tiêu dùng với các nhà sản xuất, là uy tín và sự sống còn của các
công ty. Người bán không vì cái mà họ đang sản xuất, mà vì cái mà thị trường
đang cần, trong đó trước hết là giá trị sử dụng và chất lượng của hàng hoá
dịch vụ. Trong phương châm kinh doanh đó, hành vi bán của người sản xuất
đã không chỉ vì lợi ích của người mua mà trước hết vì lợi ích sống còn của
chính họ.
Như vậy chất lượng sản phẩm không chỉ là yêu cầu của tập hợp người
tiêu dùng, không chỉ là sự ngang giá cho đồng tiền mà họ đã quyết định bỏ ra


để mua hàng, mà hơn hết vì chính sự tồn tại để phát triển hay phá sản của
doanh nghiệp. Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề trên, trong thời gian hoàn
thành báo cáo thực tập tốt nghiệp, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Một số giải
pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty TNHH Sao Việt".

2


Báo cáo tốt nghiệp ngoài lời mở đầu và kết luận được chia thành 3 phần:
- Phần I: Một số khái niệm về sản phẩm, chất lượng sản phẩm và
yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm trong kinh doanh.
- Phần II: Tình hình tổ chức - quản lý và sản xuất kinh doanh ở
Công ty TNHH Sao Việt và những nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm
in trong những năm gần đây.
- Phần III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công
ty TNHH Sao Việt.

3


PHẦN I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ SẢN PHẨM, CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM

Tất cả các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh trên thị trường đều có
mục đích duy nhất là thoả mán các nhu cầu của người tiêu dùng từ đó tìm
kiếm lợi nhuận. Có nghĩa là các sản phẩm làm ra của doanh nghiệp đều được
đem bán, trao đổi trên thị trường. Đây là đặc điểm khác biệt giữa nền kinh tế
hàng hoá (kinh tế thị trường) với nền kinh tế thời kỳ bao cấp trước đây. Thời
kỳ bao cấp sản phẩm làm ra chỉ thoả mãn nhu cầu nội bộ hoặc đem phân phối

theo yêu cầu Nhà nước, các sản phẩm đó chưa phải là hàng hoá. Trong nền
kinh tế hàng hoá, sản phẩm làm ra của các doanh nghiệp phải được đem ra thị
trường "cân, đo" giá trị của nó, thông qua trao đổi với các đơn vị giá trị khác,
nếu không sản phẩm đó chưa được gọi là hàng hoá. "Sản phẩm được hiểu là
tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ có thể đem chào bán , có khả năng thoả mãn
một nhu cầu hay mong muốn của con người, gây sự chú ý, kích thích sự mua
sắm và tiêu dùng của họ". Với cách khái niệm đó, sản phẩm không có sự phân
biệt với hàng hoá, vì quan niệm rằng, trong nền kinh tế thị trường, mọi sản
phẩm là kết quả của khâu sản xuất, trước khi đi vào tiêu dùng, đều được trao
đổi qua thị trường. Hay nói cách khác thị trường đã là hàng hoá mọi sản phẩm
dịch vụ, đặt các nhu cầu mua, cũng như những hành vi sản xuất để bán, dưới
sự điều tiết khắc nghiệt của các quy luật kinh tế khách quan của thị trường.
Cũng trong khái niệm đó, sản phẩm hàng hoá gồm 2 loại: hàng hoá hữu hình
và hàng hoá vô hình.
Hàng hoá vô hình là những lợi ích mà người tiêu dùng có thể nhận được
khi tiêu dùng chúng, nhưng không thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể. Người
ta gọi chúng là các dịch vụ.

4


Hàng hoá hữu hình là những hàng hoá tồn tại dưới hình thái vật chất cụ
thể mang ra trao đổi mua bán trên thị trường. Nhưng ngay trong một hàng hoá
hữu hình cũng bao hàm cả yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình. Dù là hàng hoá
hay dịch vụ, nhu cầu tiêu dùng (tức là nhu cầu mua và có khả năng thanh
toán) chỉ xuất hiện khi hàng hoá dịch vụ đó đem lại cho người mua một hay
nhiều lợi ích nào đó. Như vậy những hàng hoá hay dịch vụ mà người kinh
doanh đem bán chỉ là phương tiện truyền tải những lợi ích mà người tiêu dùng
chờ đợi. Những lợi ích đó lại phụ thuộc vào nhu cầu và ước muốn của người
tiêu dùng. Do vậy nhiệm vụ đặt ra cho các nhà kinh doanh là phải xác định

chính xác nhu cầu, mong muốn và do đó, lợi ích mà người tiêu dùng cần được
thoả mãn, để từ đó sản xuất và cung cấp những hàng hoá và dịch vụ có thể
đảm bảo tốt nhất những lợi ích cho người tiêu dùng.
Hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp cho người tiêu dùng được xác định
bằng các đơn vị hàng hoá. Đơn vị hàng hoá là một chỉnh thể riêng biệt được
đặc trưng bằng các thước đo khác nhau, có giá cả, hình thức bên ngoài và các
đặc tính khác nữa về một sản phẩm hàng hoá. Những yếu tố, đặc tính và
thông tin đó được sắp xếp theo 3 cấp độ tương xứng với tầm quan trọng của
các cấp độ đó:
+ Cấp độ cơ bản nhất là sản phẩm - hàng hoá theo ý tưởng. Cấp sản
phẩm hàng hoá theo ý tưởng có chức năng cơ bản là trả lời câu hỏi: Về thực
chất, sản phẩm và hàng hoá này thoả mãn những đặc điểm lợi ích cốt yếu
nhất mà khách hàng sẽ theo đuôỉ là gì? Và chính đó là những giá trị mà nhà
kinh doanh sẽ bán cho khách hàng. Những lợi ích cơ bản tiềm ẩn đó có thể
thay đổi tuỳ những yếu tố hoàn cảnh của môi trường và mục tiêu cá nhân của
các khách hàng, nhóm khách hàng trong bối cảnh nhất định. Điều quan trọng
đối với các doanh nghiệp là phải nghiên cứu tìm hiểu khách hàng để phát hiện
ra những đòi hỏi về các khía cạnh lợi ích khác nhau tiềm ẩn trong nhu cầu

5


của họ. Chỉ có như vậy họ mới tạo ra những hàng hoá có khả năng thoả mãn
đúng và tốt những lợi ích mà khách hàng mong đợi.
+ Cấp độ thứ hai cấu thành một sản phẩm - hàng hoá là hàng hoá hiện
thực. Đó là những yếu tố phản ánh sự có mặt trên thực tế của sản phẩm hàng
hoá. Những yếu tố đó bao gồm: Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các đặc
tính, bố cục bề ngoài, đặc thù, tên nhãn hiệu cụ thể và đặc trưng của bao gói.
Trong thực tế, khi tìm mua những lợi ích cơ bản, khách hàng dựa vào những
yếu tố này. Và cũng nhờ hàng loạt các yếu tố này nhà sản xuất khẳng định sự

hiện diện của mình trên thị trường, để người mua tìm đến doanh nghiệp, họ
phân biệt hàng hoá của hãng này so với hãng khác.
+ Cuối cùng là hàng hoá bổ sung. Đó là những yếu tố như: tính tiện lợi
cho việc lắp đặt, những dịch vụ bổ sung sau khi bán, những điều kiện bảo
hành... Nhờ các yếu tố này đã tạo ra sự định giá mức độ hoàn chỉnh khác
nhau, trong nhận thức của người tiêu dùng, về mặt hàng hay nhãn hiệu cụ thể.
Nó góp phần tăng cường sức cạnh tranh của các nhãn hiệu hàng hoá.
Trước một quyết định tiêu dùng của người mua, lợi ích của hàng hoá và
dịch vụ mang lại biểu hiện dưới nhiều tiêu thức khác nhau. Song chung qui
lại, có thể lượng hoá lợi ích của hàng hoá và dịch vụ trên 2 mặt chủ yếu: số
lượng và chất lượng. Số lượng là khái niệm của chỉ lượng của sản phẩm mà
người tiêu dùng nhận được khi họ trao đổi mua bán trên thị trường. Số lượng
là hình thái hữu hình, là những hiện vật cụ thể mà con người có thể quan sát
trực tiếp. Số lượng cũng là một nhu cầu cơ bản của loài người vì "con người
thích nhiều hơn ít". Nhưng nhu cầu về số lượng thường nhanh đạt được sự
thoả mãn, đặc biệt khi đời sống kinh tế - xã hội phong phú, thu nhập ngày một
tăng cao. Khi nền kinh tế càng phát triển thì con người có xu hướng chuyển từ
yếu tố số lượng sang yếu tố chất lượng. Với càng nhiều loại sản phẩm như
nhau người ta tìm đến yếu tố chất lượng nhiều hơn và cao hơn. Chất lượng
sản phẩm là khái niệm chỉ khả năng thích ứng cao của hàng hoá, nhằm thoả

6


mãn tốt nhất một hay nhiều mong muốn của người mua chúng. Đây là yếu tố
định tính, thường chỉ thông qua sự tiêu dùng hàng hoá mới nhận thức được
một cách toàn diện và đầy đủ. Hay nói cách khác, chất lượng sản phẩm là
cách hiểu, cách đánh giá của con người bằng kinh nghiệm, bằng nhận thức,
băng ước đoán và mang nhiều đặc tính chủ quan hơn là cách đánh giá và hiểu
về số lượng.

Cái còn lại, lưu giữ mãi, những ấn tượng sâu sắc tốt đẹp với người tiêu
dùng về một sản phẩm của doanh nghiệp nào đó là chất lượng sản phẩm.
Người tiêu dùng họ có thể quên kiểu dáng, kích cỡ... của hàng hoá, nhưng
nhắc đến tên các hãng sản xuất hay các doanh nghiệp kinh doanh là họ nhớ
ngay đến sản phẩm làm ra với những lời nhận xét mà chỉ chất lượng sản phẩm
mới phản ánh được. Làm tan vỡ trong họ lòng tin về chất lượng một sản phẩm
nào đó, cũng tức là loại bỏ hàng hoá đó khỏi các nhu cầu tiêu dùng, cũng
đồng nghĩa với việc đóng cửa sản xuất. Chất lượng sản phẩm đã là thước đo
năng lực cạnh tranh, uy tín và khả năng tồn tại của một doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế thị trường hiện nay, rất nhiều các doanh
nghiệp mới ra đời, rất nhiều các sản phẩm mới đượ làm ra đa dạng phong
phú, sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt khốc liệt. Đặc biệt khi có sự trợ giúp
của khoa học kỹ thuật công nghệ, một mặt giúp cho các doanh nghiệp có cơ
hội thuận lợi hơn để phát triển, một mặt với sự phát triển như vũ bão nó lại
đặt các doanh nghiệp trong những tình thế cạnh tranh mới. Các doanh nghiệp
luôn luôn phải đổi mới mọi mặt, thích nghi trong mọi hoàn cảnh mà thị
trường đặt ra cho nó. Trên thị trường không chỉ có một người sản xuất với
một mặt hàng duy nhất của anh ta. Những người cùng sản xuất loại hàng hoá
đó, cũng ngấm ngầm tìm giải pháp tranh giành khách hàng với đối thủ của
mình. Họ cũng thay đổi mẫu mã, hạ giá bán, mời chào người mua, hứa hẹn
những dịch vụ tốt nhất với khách hàng "thị trường giống như cái sân chơi trên
đó các nhà kinh doanh tha hồ thi thố tài lực của mình. Ai chiếm được nhiều

7


phần sân chơi nhất, sẽ hành động thuận lợi, kinh doanh phát triển, ngược lại,
ai đuối sức hơn, sẽ bị đối thủ cùng chơi lấn át, và kết cục, anh ta sẽ nhận lấy
phần thất bại" (Paul Sammelson - Kinh tế học tập I - Viện quan hệ quốc tế
xuất bản - 1989).

Do đó, để tránh phá sản, để chiếm lĩnh lòng tin của khách hàng để mở
rộng thị trường tiêu thụ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp
chạy đua với nhau, cạnh tranh với nhau. "Nâng cao chất lượng sản phẩm" là
một biện pháp hữu hiệu nhất mà các doanh nghiệp sử dụng để tăng thêm uy
tín, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Nó không chỉ giúp cho doanh nghiệp
tồn tại, đứng vững và vươn lên ở hiện tại mà còn giúp cho doanh nghiệp có
điều kiện phát triển mở rộng trong tương lai. Nâng cao chất lượng sản phẩm
cũng là phương châm để duy trì "sự sống" của sản phẩm, cũng là cách duy trì
sự sống của doanh nghiệp. Bởi vì nói như Kono Suke Matsuhita - Chủ tịch
tập đoàn điện tử hàng đầu Nhật Bản :"Nếu cho rằng mọi hàng hoá có linh
hồn, thì chất lượng chính là linh hồn của nó" (Bản lĩnh trong kinh doanh và
cuộc sống - NXB chính trị quốc gia 1994). Nâng cao chất lượng sản phẩm cần
đến nhiều nỗ lực và thái độ của các nhà sản xuất. Chỉ khi các nhà sản xuất
thấy yêu cầu về chất lượng sản phẩm không phải từ phía người mua, mà từ
chính sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, lúc đó chất lượng sản phẩm sẽ
là một mục tiêu quan trọng không kém mục tiêu lợi nhuận. Nâng cao chất
lượng sản phẩm có thể thực hiện thông qua hàng loạt các giải pháp, từ khâu
định chiến lược kinh doanh, đến việc thuê mua các yếu tố đầu vào, tổ chức
công nghệ sản xuất và cung ứng sản phẩm đến đối tượng tiêu dùng. Nó đặt ra
không chỉ đối với những người trực tiếp sản xuất sản phẩm, mà còn là yêu cầu
với những nhân viên bán hàng, những người làm dịch vụ phân phối... Về mặt
lý thuyết, chất lượng sản phẩm liên quan đến các yếu tố sau:
+ Công nghệ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp trong việc sản xuất sản
phẩm.

8


+ Tay nghề bậc thợ của lao động trực tiếp sản xuất, trình độ chuyên môn
của các nhà quản lý trong việc tổ chức sản xuất.

+ Các quyết định về bao bì, mẫu mã sản phẩm, đóng gói, nhãn hiệu...
+ Các quyết định trong việc ưu đãi và quan tâm đến người lao động.
+ Các dịch vụ khác đi kèm để thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của người
tiêu dùng.
Chất lượng sản phẩm bao trùm trên mọi khâu, mọi giai đoạn của quá
trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, chất lượng sản phẩm, từ muôn
thủa luôn là lợi ích của người tiêu dùng. Nhưng chính nhu cầu tiêu dùng và
khả năng thanh toán của họ lại trở thành mệnh lệnh và sự quyết định thành bại
của các hãng kinh doanh. Do đó, phương châm "nâng cao chất lượng sản
phẩm" là đặt ra với bất cứ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào trên thị
trường. Nó giúp cho các doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh, đánh bại
các đối thủ cùng kinh doanh mặt hàng đó và nâng cao uy tín của doanh
nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm, có thể tập trung vào các vấn đề sau:
(+) Thứ nhất, tăng cường thiết bị công nghệ kỹ thuật hiện đại. Khoa học
kỹ thuật công nghệ, với sự phát triển như vũ bão đã thổi vào các doanh nghiệp
những luồng sinh khí mới. Nó giúp cho năng suất lao động tăng lên không
ngừng, sản phẩm làm ra ngày một nhiều. Đặc biệt những công nghệ hiện đại
đã tạo ra sản phẩm rất đa dạng phong phú, thoả mãn những nhu cầu ngày
càng tăng và khắt khe của người tiêu dùng. Đầu tư vào việc mua sắm các thiết
bị công nghệ hiện đại cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tăng cường
năng lực sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường. Sản phẩm làm
ra đảm bảo độ chính xác cao hơn, có nhiều tính năng hơn, thu hút khách hàng
nhiều hơn, và do đó tạo chỗ đứng vững chắc trong cơ chế cạnh tranh khốc
liệt. Tuy nhiên khi đầu tư mua sắm các thiết bị công nghệ mới hiện đại phải
chú ý một số điểm sau:

9


- Các thiết bị mua sắm phải phù hợp với tình hình sản xuất chung của

doanh nghiệp. Có nghĩa là các thiết bị lắp đặt phải hài hoà với đầu vào, đầu ra
của doanh nghiệp. Nguyên nhiên vật liệu phải đảm bảo tối ưu sao cho công
suất hoạt động của máy móc đạt tối đa. Mặt khác, việc tiêu thụ các sản phẩm
sản xuất của doanh nghiệp phải là tốt nhất để thu hồi vốn nhanh, vòng sản
xuất của doanh nghiệp không bị gián đoạn.
- Thiết bị công nghệ được mua phải tương xứng với trình độ hiểu biết và
chuyên môn của người lao động trong doanh nghiệp. Có như vậy họ mới vận
hành máy móc được chính xác, sản phẩm làm ra đảm bảo yêu cầu chất lượng.
Đáp ứng hai yêu cầu trên thì việc đầu tư công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp sẽ cho kết quả tốt, tránh sự lãng phí vốn sản xuất mà tình hình sản xuất
không được cải thiện.
(+)Thứ hai, nâng cao tay nghề, bậc thợ cho người lao động trong doanh
nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi
lẽ máy móc thiết bị dù hiện đại đến đâu cũng do con người làm ra. Người lao
động vận hành máy móc chính xác mới tạo ra các sản phẩm hoàn thiện, đa
tính năng. Bên cạnh đó năng suất lao động của công nhân phản ánh năng suất
lao động của toàn doanh nghiệp trình độ tay nghề chuyên môn, bậc thợ tay
nghề của người lao động quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Với cùng
các yếu tố đầu vào các các yếu tố môi trường như nhau thì người lao động nào
có trình độ hơn sẽ tạo ra được số sản phẩm nhiều hơn và đẹp bền hơn. Mà
trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, với các sản phẩm cùng loại, sản
phẩm nào có sự cải tiến độc đáo, có giá trị sử dụng cao, tức là có các đặc tính
thoả mãn những nhu cầu của người tiêu dùng, thì sản phẩm đó sẽ được người
tiêu dùng ưa chuộng, tín dùng. Và vì vậy, sản phẩm đó sẽ tìm được một chỗ
đứng trên thị trường, ngược lại các sản phẩm bị đào thải dần dần. Do đó yêu
cầu nâng cao tay nghề, bậc thợ cho người lao động là một yêu cầu cấp bách
của các doanh nghiệp. Nâng cao tay nghề bậc thợ cho người lao động cũng là

10



cách nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra cuả doanh nghiệp, cũng là cách để
duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao tay nghề, bậc thợ
cho người lao động có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:
- Doanh nghiệp có thể cử một bộ phận lao động của mình đi học, bồi
dưỡng thêm kiến thức chuyên môn đang công tác, hoặc đào tạo cho họ một
lĩnh vực mới, một chuyên môn mới phù hợp.
- Có thể đào tạo, nâng cao tay nghề tại chỗ: các công nhân có tay nghề
bậc thợ cao trực tiếp hướng dẫn, truyền kinh nghiệm cho những người lao
động có trình độ thấp.
- Tổ chức sắp xếp lại bộ máy làm việc cho phù hợp, gọn nhẹ, tận dụng
tối đa năng suất lao động của từng người trong doanh nghiệp. Phân các công
việc hợp với khả năng và trình độ của họ...
Tuỳ từng điều kiện cụ thể mà các doanh nghiệp có thể sử dụng biện
pháp đào tạo tại chỗ hay nhờ đào tạo, hay phối kết hợp nhiều biện pháp sao
cho hiệu quả đào tạo là tốt nhất.
(+) Thứ ba, nâng cao chất lượng sản phẩm còn liên quan đến bao bì,
mẫu mã, đóng gói và nhãn hiệu sản phẩm. Sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã
cũng là một biện pháp lôi kéo các khách hàng tiêu dùng. Mẫu mã, bao gói,
nhãn hiệu phải thay đổi thường xuyên liên tục đáp ứng thị hiếu của người tiêu
dùng. Người tiêu dùng ưa chuộng sản phẩm đẹp về thẩm mỹ, gọn nhẹ về kiểu
dáng. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp có những bí quyết hữu hiệu trong việc
thường xuyên cải tiến mẫu mã, nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ, không chỉ thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng tức thời, mà còn kích thích những nhu cầu mới ở
dạng tiềm năng khuyếch đại thị trường, kể cả những thị trường "khó tính" mà
đối thủ của nó phải bó tay. Thành công trong cạnh tranh là "Doanh nghiệp
biết làm những việc mà doanh nghiệp không thể làm được".
(+) Thứ tư, mọi cán bộ, nhân viên doanh nghiệp như gia đình của mình,
họ nỗ lực vì sự thịnh vượng của doanh nghiệp, đồng thời sự phát triển của


11


doanh nghiệp lại là tiền đề để tăng thu nhập và những phúc lợi giành cho họ.
Bí quyết quản lý và cách sử dụng con người để phát huy hiệu quả các hoạt
động kinh doanh hiện được xem là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của các
doanh nghiệp. Suy cho cùng, chiến lược, sáng tạo những phương thức kinh
doanh độc đáo đều được thực hiện bởi con người và vì mục tiêu do con người
vạch ra. Các doanh nghiệp phải có các chính sách ưu đãi, khuyến khích người
lao động, tạo cho họ niềm say mê gắn bó hơn với công việc sản xuất. Có như
vậy toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp mới là một khối đoàn kết
thống nhất, cùng cố gắng nỗ lực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
(+) Thứ năm, để nâng cao chất lượng sản phẩm còn kết hợp nhiều yếu
tố khác nữa. Đó là đẩy mạnh hoạt động của hệ thống dịch vụ Marketing của
doanh nghiệp, nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp nắm vững thị trường mà nó
đang phục vụ, hiểu về đối thủ, cung cấp cho người quản lý những thông tin
nhanh, chuẩn xác về mọi khâu của quá trình tái sản xuất, về nhu cầu của
người tiêu dùng, giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện hơn các sản phẩm nó đang
cung ứng. Đó là việc doanh nghiệp tổ chức các dịch vụ đi kèm bổ trợ cho sản
phẩm như dịch vụ hướng dẫn, tư vấn, dịch vụ lắp đặt... Nó làm tăng thêm tính
hoàn chỉnh của sản phẩm tới tay người tiêu dùng, cũng từ đó nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Nói tóm lại, chất lượng sản phẩm là 1 chỉ tiêu khái quát. Trong thực tế
nó thường được phản ánh qua những tham số và đặc tính khác nhau tuỳ thuộc
từng loại hàng và nhất thiết phải do quan niệm của người tiêu dùng quyết
định. Nâng cao chất lượng sản phẩm vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện, vừa
đặt ra yêu cầu, vừa tạo động lực giúp các doanh nghiệp đứng vững trong cạnh
tranh. Nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp phối kết hợp
nhiều yếu tố, tạo ra các sản phẩm có nhiều tính năng đáp ứng được nhu cầu
ngày càng đa dạng


của người tiêu dùng.

12


PHẦN II: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC, QUẢN LÝ VÀ SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA CÔNG TY IN HÀNG KHÔNG VÀ NHỮNG NỖ LỰC NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM IN TRONG MỘT SỐ NĂM GẦN ĐÂY.

1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty in hàng không
In là một hoạt động sản xuất dịch vụ chuyên ngành. Sản phẩm của công
nghiệp in vừa có tính sản xuất vật chất vừa là một dịch vụ văn hoá. Trong cơ
chế kế hoạch hoá tập trung nhiều cơ sở in thường thực hiện các chức năng
phục vụ, khép kín, sản xuất nhỏ lẻ hỗ trợ ngành kinh doanh chính. Công ty in
hàng không cũng có một thời kỳ như vậy.
Tiền thân của công ty in hàng không là xưởng in hàng không dân dụng,
thành lập ngày 1 - 4 - 1985 theo quyết định số 250/TCHK của Tổng cục
trưởng Tổng cục hàng không dân dụng Việt nam. Trước đó, xưởng in hàng
không cũng là một cơ sở in Typo của binh đoàn 678 - Bộ Quốc phòng. Chức
năng nhiệm vụ chủ yếu của xưởng in hàng không là in ấn các tài liệu, mẫu
biểu, chứng từ, vé, một số nhãn mác của ngành. Xưởng in là một đơn vị phục
vụ, hạch toán phụ thuộc, đáp ứng một số yêu cầu nhỏ thường nhật với chất
lượng không cao của Tổng cục hàng không dân dụng. Lúc mới thành lập
xưởng có 34 cán bộ CNV (chuyển từ Bộ Quốc phòng sang) với lực lượng
thiết bị chính gồm: 3 máy in Typo loại 4 trang, 6 trang và 8 trang của Trung
Quốc, một số máy chữ, hệ thống tạo màu, chế bản nửa cơ khí. Những thiết bị
của xưởng in là loại có công suất thấp, đã qua sử dụng nhiều năm, công nghệ
lạc hậu. Mặc dù là một xưởng phục vụ cho công tác in ấn của ngành, nhưng
nhiều tài liệu, mẫu biểu, đặc biệt là vé máy bay, ngành vẫn phải thuê ngoài.

Trong giai đoạn từ 1985 - 1990, hoạt động của xưởng hoàn toàn theo kế
hoạch của Tổng cục, hầu như không làm dịch vụ cho ngoài ngành, không phải
cạnh tranh, không phải tính toán lỗ lãi. Tổ chức sản xuất và quản lý của
xưởng vẫn mang dáng dấp của một đơn vị phục vụ quân đội. Tính chất bao

13


cấp trong sản xuất rất nặng nề. Vốn, thiết bị và nhân lực có được sự bổ sung
nhưng chưa thể tạo ra sự thay đổi lớn về sản xuất kinh doanh của xưởng.
Đến năm 1990 do tổ chức lại hoạt động của ngành hàng không dân dụng
theo hướng hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý mới, các đơn vị
phục vụ, phù trợ của ngành cũng được tổ chức lại. Ngày 3 - 3 - 1990 theo
quyết định số 174/ TCHK của Tổng cục trưởng Tổng cục hàng không dân
dụng Việt Nam, xưởng in chuyển thành xí nghiệp in hàng không, là một đơn
vị kinh tế hạch toán độc lập. Cũng năm này, xí nghiệp được trang bị một máy
in ofset, in màu nhiều trang, vốn do Tổng cục hàng không dân dụng giao là
300 triệu, tổng số cán bộ CNV là 52 người. Một số cán bộ quản lý được cử đi
đào tạo nâng cao, nhiều công nhân đứng máy in Typo trước đây được chuyển
nghề và nâng cao trình độ để phục vụ máy in hiện đại hơn. Xí nghiệp đã đảm
nhận thêm nhiều phần việc in ấn phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành
hàng không dân dụng, kể cả một số dịch vụ trước đây phải thuê ngoài. Tuy
nhiên, do chưa dứt hẳn khỏi cơ chế quản lý bao cấp, đồng thời năng lực thiết
bị và trình độ đội ngũ CNV chưa đủ đáp ứng yêu cầu của cơ chế cạnh tranh,
nên sản xuất kinh doanh của xí nghiệp về cơ bản, vẫn là một đơn vị phục vụ,
khép kín, qui mô sản xuất hàng năm chưa lớn, chưa vươn ra thị trường đứng
vững bằng sức mạnh của mình.
Khi toàn bộ ngành hàng không dân dụng đã chuyển hẳn sang mô hình tổ
chức Tổng công ty và thực hiện hạch toán, tự trang trải và tự chịu trách nhiệm
về các hoạt động kinh doanh của mình, ngày 14 - 9 - 1994 xí nghiệp in hàng

không được tổ chức lại dưới hình thức công ty in hàng không, theo quyết định
số 1481/QD - TCCB - LD của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Về tổ chức sản xuất, công ty in có 5 bộ phận chuyên môn hoá và một bộ
phận phục vụ, phù trợ. Tổng số cán bộ công nhân đến 1999 là 141 người
trong đó cán bộ quản lý gián tiếp là 26 chiếm 19,8%. Khi thành lập công ty,
tổng số vốn được giao là 2,3 tỉ, đến 1999 công ty vay bổ sung là 15 tỉ và vốn

14


tự có là 3 tỉ. So với khi mới thành lập, qui mô nguồn vốn của công ty đã có sự
tăng trưởng rất nhanh, trong vòng 5 năm vốn cho sản xuất kinh doanh được
hình thành từ nhiều nguồn đã tăng lên gấp 8 lần.
Nhiệm vụ sản xuất chính của công ty in hàng không là in ấn các tài liệu
phục vụ công tác quản lý của ngành, các mẫu biểu, vé máy bay, in nhãn mác,
của ngành trên các chất liệu, sản xuất giấy vệ sinh các loại ... Ngoài ra, công
ty còn nhân làm dịch vụ gia công cho một số đơn vị sản xuất kinh doanh
ngoài ngành, in vé và sản xuất giấy thơm, giấy vệ sinh cho hãng hàng không
Lào.
Về công nghệ sản xuất, có hai loại: công nghệ in trên máy ofset (in tờ
rời) và công nghệ in Flexo (in cuốn trên mọi chất liệu). Qui trình công nghệ in
gồm các công đoạn sau:
Tạo mẫu

Chế bản in

In trên máy

Gia công


Hoàn thiện SP

Hình thức tổ chức sản xuất của công ty theo từng bộ phận chuyên môn
hoá. Có 5 bộ phận, trong đó hai bộ phận chính là phân xưởng in ofset và in
Flexo, 3 bộ phận còn lại trực tiếp hỗ trợ, nối tiếp với dây chuyền chính là:
phân xưởng chế bản (bao gồm cả phần tạo màu vi tính và chế bản in), phân
xưởng sản xuất giấy, khăn ăn của hãng hàng không và phân xưởng sách. Bộ
phận phục vụ được tổ chức dưới hình thức tổ cơ - điện, có nhiệm vụ bảo
dưỡng thiết bị, bảo đảm điện, nước cho sản xuất và sửa chữa theo nhu cầu của
các phân xưởng chính. Về tổ chức bộ máy quản lý, với 26 cán bộ nhân viên,
biên chế thành 3 phòng chức năng: kế toán, kế hoạch và tổ chức hành chính.
Công ty tổ chức quản lý theo mô hình trực tiếp, tham mưu. Giám đốc, với 1
phó giám đốc giúp việc, trực tiếp chỉ đạo sản xuất kinh doanh đến các phân
xưởng. Các phòng nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp giám đốc theo
phần việc đã được chuyên môn hoá.

15


Phòng kế hoạch gồm 6 cán bộ nhân viên, có nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch
sản xuất hàng tháng, quí và năm, xây dựng các kế hoạch về vật tư, cung ứng,
tiêu thụ những hợp đồng gia công sản xuất với các đơn vị ngoài ngành, làm
các cân đối và giúp giám đốc vạch tiến độ sản xuất kinh doanh cho các bộ
phận của công ty.
Phòng tổ chức hành chính gồm 10 cán bộ, nhân viên giúp giám đốc các
nhiệm vụ về quản lý nhân sự, điều phối lao động thực hiện các chính sách,
chế độ theo qui định của Nhà nước đối với cán bộ CNV, tổ chức bảo vệ nội
bộ, văn thư, hành chính, bảo đảm các điều kiện làm việc cho bộ máy quản lý.
Phòng kế toán có 8 cán bộ, nhân viên giúp giám đốc quản lý và sử dụng
các nguồn tài chính, bảo đảm vốn (bằng tiền và hiện vật) cho sản xuất kinh

doanh, thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển vốn, quản lý chi phí tính
giá thành, tính lương, khấu hao và thực hiện nghĩa vụ về tài chính đối với Nhà
nước. Mô hình quản lý và tổ chức sản xuất của công ty in hàng không như
sau:

Giám đốc

P. Giám đốc

P. kế hoạch

PX ofset

P. kế
toán

P. TC - HC

PX FLexo

PX Chế bản

PX sách

16

PX giấy VS

Tổ cơ - điện



Chi nhánh
phía Nam

Chi nhánh phía nam được tổ chức thành một phân xưởng, vừa sản xuất
vừa thực hiện các hoạt động dịch vụ, đại diện và kinh doanh sản xuất. Nhiệm
vụ sản xuất của chi nhánh là giấy vệ sinh, túi nôn, giấy thơm đóng hộp phục
vụ vận tải hàng không. Về tổng quát, công ty in hàng không là một loại doanh
nghiệp Nhà nước có qui mô nhỏ, tổ chức bộ máy quản lý gọn thích ứng với
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, là một đơn vị hạch toán độc lập thuộc Tổng
công ty hàng không dân dụng Việt nam. Khi chuyển sang mô hình công ty,
nhờ nguồn vốn được bổ sung với qui mô lớn, tài sản và thiết bị có sự tăng
trưởng nhanh. Đến 1999, trên hai dây chuyền sản xuất chính, thiết bị kỹ thuật
được đổi mới về cơ bản. Dây chuyền Flexo được trang bị hai máy in cuốn, 4
màu của Đài Bắc và Hàn Quốc, một bộ dây chuyền chế bản in hiện đại cũng
của Đài bắc. Dây chuyền ofset được trang bị 5 máy in màu nhiều trang, tờ rời,
một bộ hoàn chỉnh phục vụ chế bản in của Công hoà liên bang Đức. Để tăng
công suất làm việc của công đoạn tạo màu, công ty trang bị một dàn máy vi
tính hiện đại, phục vụ cho cả hai dây chuyền. Năm nay công ty đang xúc tiến
việc mua một máy in 7 màu của Mỹ, để nhằm thực hiện tăng thêm 20% khối
lượng in ấn hàng năm.
Tổng số cán bộ nhân viên toàn công ty, đến năm 1999 là 134. Số CNV
trực tiếp sản xuất là 115, chiếm 81,5%. Đến nay hầu như 100% công nhân
được đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành in, 57,4% công nhân sản xuất có tuổi
đời dưới 35; 36,8% công nhân ở độ tuổi từ 35 - 45; 5,6% có tuổi từ 45 - 50.
So với nhiều đơn vị khác của ngành in, công nhân của công ty in hàng không
khá trẻ, một bộ phận lớn vừa tuyển vào trong mấy năm gần đây và được đào
tạo cơ bản, có ý thức nghề nghiệp và thích ứng với yêu cầu của công nghiệp

17



hiện đại. Toàn công ty có 13 cán bộ có trình độ từ đại học trở lên (1 Thạc sĩ
kinh tế); 18 người có trình độ trung cấp, chiếm 12,7% và 68 người là công
nhân kỹ thuật chiếm 48,2%. Bên cạnh những thuận lợi về tổ chức sản xuất, tổ
chức quản lý đã nêu ra ở trên, hiện tại công ty cũng có những khó khăn, thách
thức khá lớn. Đó là:
- Thứ nhất, sự cạnh tranh của thị trường in mỗi ngày một quyết liệt.
Hàng năm công ty chỉ nhận được đơn đặt hàng của Tổng công ty hàng không
dân dụng từ 45 - 50% khối lượng trang in, một nửa công suất thiết bị và nhân
lực của công ty tuỳ thuộc vào khả năng khai thác từ thị trường ngoài ngành.
Ngoài một số bạn hàng khá ổn định như Viện Thú ý trung ương, công ty bóng
đèn phích nước Rạng đông, hãng hàng không quốc gia Lào... Công ty phải
cạnh tranh để mở rộng đối tượng phục vụ, nhận in gia công trên bao bì, cung
ứng giấy vệ sinh, giấy ăn thơm... cho một số đơn vị khác. Hình thức tổ chức
in của tư nhân với thiết bị hiện đại dịch vụ linh hoạt, bộ máy gọn nhẹ, có thể
trốn thuế đang là đối thủ cạnh tranh rất mạnh với công ty in hàng không nói
riêng và các cơ sở in quốc doanh nói chung.
- Thứ hai, sự cạnh tranh đầu tư đổi mới kỹ thuật hiện đại của ngành in.
Chất lượng sản phẩm in phụ thuộc rất căn bản vào chất lượng hoạt động của
máy móc thiết bị. Gần 1/2 thế kỷ qua kỹ thuật và công nghệ in đã phát triển
rất nhanh, tạo sức cạnh tranh cho nhiều cơ sở có vốn lớn. Tuy vậy, giá thành
máy in hiện đại vẫn rất cao, vượt quá khả năng của những doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Nếu công ty vay vốn để đổi mới thiết bị, thường phải trả lãi rất lớn
đội giá thành khó giữ được thị phần, kể cả những đơn đặt hàng của ngành
hàng không dân dụng Việt Nam. Nếu chờ tích luỹ từ nội bộ, thường khó thực
hiện, hoặc không thể mua sắm được những thiết bị hiện đại. Bài toán về tạo
nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động, đang là một thách
thức đối với những người quản lý công ty.


18


- Thứ ba, trình độ đội ngũ cán bộ CNV của công ty mặc dù đã có sự
tăng trưởng khá nhanh về lượng và chất, nhưng về cơ bản vẫn cần có sự đầu
tư lớn hơn và qui hoạch phát triển cao hơn. Thiết bị kỹ thuật hiện đại chỉ là
một điều kiện cần, nhưng nhân tố có tính quyết định để sử dụng thiết bị, kỹ
thuật đó là con người. Đội ngũ lao động lành nghề, trình độ quản lý cao, ý
thức trách nhiệm của công nhân, lao động về chất lượng sản phẩm được tạo
ra, là lợi thế mạnh mẽ của cạnh tranh. Những yêu câu như vậy đối với công ty
in hiện nay là một thách thức lớn.
2. Chất lượng sản phẩm in và những nỗ lực nâng cao chất lượng sản
phẩm của công ty In hàng không những năm gần đây.
Như phần lý thuyết đã nêu, in là một hoạt động sản xuất, dịch vụ chuyên
ngành. Sản phẩm của công ty in vừa có tính sản xuất vật chất, vừa là một dịch
vụ văn hoá. Do đó yêu cầu đối với một sản phẩm in rất đa dạng và khắt khe.
Có những sản phẩm in thoả mãn những yêu cầu của nhóm người này nhưng
lại không phù hợp với yêu cầu của nhóm người khác. Có những người tiêu
dùng ưa thích hình dáng bên ngoài phải nổi, phải hoa mỹ. Có những người
tiêu dùng lại chuộng phần trình bày và trang trí bên trong, người ưa thích màu
này, người lại

ưa màu khác... Chất lượng sản phẩm in được người tiêu dùng

quan niệm rất khác nhau, với những yêu cầu cao, và đặc biệt chất lượng sản
phẩm in phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Để có được một sản phẩm in tới tay
người tiêu dùng phải trải qua những giai đoạn, những quá trình. Thực hiện
chính xác mỗi khâu, mỗi quá trình trong công đoạn sản xuất là sự đảm bảo
cho tính hoàn thiện của sản phẩm in.
Chất lượng sản phẩm in chịu sự tác động của nhiều yếu tố, nhưng trong

đề án này với khối lượng dữ liệu về công ty In hàng không hiện có, chúng tôi
phân tích những nỗ lực của công ty trên các phương diện sau:

19


+ Công nghệ kỹ thuật in: biểu hiện qua việc đầu tư vốn sản xuất mua
sắm trang bị các thiết bị kỹ thuật công nghệ in hiện đại của khu vực và thế
giới của công ty qua một một số năm.
+ Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty thông qua chỉ tiêu về lực
lượng lao động ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, tay nghề người lao
động không ngừng được nâng cao đáp ứng sự phát triển của khoa học kỹ thuật
ngành công nghiệp in và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
+ Các chính sách đối với người lao động của công ty qua các chỉ tiêu:
chế độ ưu đãi với cán bộ CNV, các chính sách đòn bẩy kinh tế khuyến khích
người lao động (tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp...)
+ Một số dịch vụ triển khai để nâng cao hơn chất lượng sản phẩm in như
dịch vụ cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào, dịch vụ cung cấp điện, nước,
phù trợ khác cho qúa trình sản xuất...
Đương nhiên, còn rất nhiều yếu tố khác nữa hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động tới chất lượng sản phẩm, nhưng với giới hạn vạch ra của chuyên đề
thực tập ở trên, bài viết chỉ tập trung phân tích 4 yếu tố cơ bản nhất liên quan
tới chất lượng sản phẩm, thông qua đó cho phép đánh giá tương đối toàn diện
những nỗ lực mà công ty In hàng không đã cố gắng, và đạt được những thành
công đáng kể trong mấy năm gần đây.
2.1. Các yếu tố về công nghệ kỹ thuật.
Với ngành công nghệ in nói chung và với công ty In hàng không nói
riêng

công nghệ in là một yếu tố quan trọng quyết định chất lượng sản


phẩm in cũng như quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty trên thị
trường. Công nghệ in được chú trọng đầu tư và thường xuyên đổi mới giúp
cho chất lượng sản phẩm in ngày càng nâng cao và tăng cường sức cạnh
tranh của công ty. Có thể phân tích điều này qua các giai đoạn phát triển của
công ty.

20


Tiền thân của công ty In hàng không là xưởng In hàng không dân dụng,
mà trước đó là một cơ sở In Typo của bình đoàn 678 - Bộ quốc phòng. Chức
năng nhiệm vụ chủ yếu của xưởng In hàng không là in ấn các tài liệu, mẫu
biểu, chứng từ, vé, một số nhãn mác của ngành. Khi mới thành lập xưởng có
34 CBCNV, với thiết bị chính được trang bị gồm 3 máy In Typo loại 4 trang,
6 trang và 8 trang, của Trung quốc; một số máy chữ, hệ thống tạo màu, chế
bản nửa cơ khí. Những thiết bị, máy móc của xưởng đã qua sử dụng nhiều
năm, công suất rất thấp. So với công nghệ in của của thế giới thì công nghệ
của xưởng in hàng không đã bị bỏ qua gần trăm năm, mà so với các cơ sở in
trong nước thì công nghệ đó cũng vào loại cũ kỹ và lạc hậu. Chính vì vậy chất
lượng các sản phẩm in của xưởng không cao, không đáp ứng được yêu cầu
đòi hỏi. Mặc dù là một xưởng phục vụ công tác in ấn của ngành, nhưng rất
nhiều tài liệu, mẫu biểu, đặc biệt vé máy bay, ngành vẫn phải thuê ngoài.
Nhất là giai đoạn từ 85 - 90, cơ chế bao cấp làm cho xưởng không phải tính
toán lỗ lãi, hoạt động hoàn toàn theo kế hoạch của tổng cục. Thiết bị không
được đầu tư và do đó chất lượng không hề thayđổi. Các sản phẩm in của
xưởng không có tính cạnh tranh, không có một đơn đặt hàng nào ngoài ngành.
Kết quả là trong giai đoạn đó không tạo ra một sự thay đổi lớn về sản xuất
kinh doanh, không thúc đẩy sản xuất kinh doanh của xưởng.
Đến năm 1990, tổ chức lại hoạt động của ngành hàng không dân dụng

theo hướng hiện đại hoá, xưởng in hàng không được chuyển thành xí nghiệp
in hàng không. Cùng với sự thay đổi đó, tổng cục hàng không đã thấy được
tầm quan trọng của công nghệ kỹ thuật đối với việc in ấn phục vụ ngành.
Ngành hàng không đã trang bị một máy ofset, in màu nhiều trong cho xí
nghiệp In hàng không, số vốn là 300 triệu. Sự đầu tư trang bị này đã làm thay
đổi cơ bản chất lượng sản phẩm in và do đó làm thay đổi hoạt động sản xuất
kinh doanh của xí nghiệp. Xí nghiệp đã đảm nhận phần lớn công việc in ấn
phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành hàng không dân dụng, kể cả một số

21


dịch vụ trước đây phải thuê ngoài. Chất lượng sản phẩm in đã được nâng cao,
đã bắt đầu có tính cạnh tranh với các sản phẩm in cùng loại trên thị trường nội
địa. Tuy nhiên,do công nghệ được đầu tư chỉ ở mức trung bình so với công
nghiệp in trong nước, vẫn kém xa và thuộc loại lạc hậu so với sự phát triển
của thế giới và khu vực, lại chịu sự ảnh hưởng của cơ chế bao cấp cũ, nên một
số sản phẩm in của ngành đòi hỏi yêu cầu chất lượng cao vẫn phải thuê ngoài,
xí nghiệp in chưa vượt ra được thị trường, chưa đứng vững bằng sức mạnh
của mình.
Khi toàn bộ ngành hàng không dân dụng đã chuyển hẳn sang mô hình tổ
chức tổng công ty và thực hiện hạch toán, tự trang trải và tự chịu trách nhiệm
về các hoạt động kinh doanh của mình, xí nghiệp in hàng không cũng phải tổ
chức lại dưới hình thức công ty in hàng không. Cơ chế thị trường đòi hỏi các
doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới tìm cách thích nghi với sự cạnh tranh
gay gắt. Là một tế bào của nền kinh tế, công ty in hàng không cũng không
thoát khỏi sự kiểm nghiệm nghiệt ngã của cơ chế cạnh tranh. Điều đó đòi hỏi
công ty in hàng không không phải có những đột phá mới, phát triển mở rộng
thị trường, thôn tính các doanh nghiệp in khác cùng sản xuất sản phẩm. Trước
hết công ty in hàng không phải chiếm lĩnh phần lớn các nhu cầu về sản phẩm

in của ngành và mở rộng sản xuất kinh doanh ra thị trường bên ngoài ngành.
Để thực hiện mục tiêu đó, đầu tư khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại là một
giải pháp hữu hiệu và tất yếu. Tuy nhiên, các thiết bị công nghệ hiện đại lại
cần một lượng vốn đầu tư rất lớn, đây chính là bài toán nan giải đối với công
ty in hàng không nói riêng và các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế nói
chung.
Khi thành lập công ty, tổng số vốn được giao là 2,3 tỉ, đến năm 1999
công ty vay bổ sung là 15 tỉ và vốn tự có là 3 tỉ. Với số vốn đó công ty đã
mạnh dạn đầu tư lắp đặt hai dây chuyền công nghệ sản xuất: công nghệ in
máy ofset (in tờ rời) và công nghệ in Flexo (in cuốn trên mọi chất liệu). Dây

22


chuyền Flexo được trang bị hai máy in cuốn 4 màu của Đài Bắc và Hàn Quốc,
một bộ dây chuyền chế bản in hiện đại cũng của Đài Bắc. Dây chuyền ofset
được trang bị 5 máy in màu nhiều trang, tờ rời, một bộ hoàn chỉnh phục vụ
chế bản in của CHLB Đức. Công ty lại đầu tư lắp đặt một dàn máy vi tính
hiện đại, phục vụ cho cả dây chuyền trong công đoạn tạo màu và thiết kế. Đây
là hai dây chuyền hiện đại nhất so với công nghiệp in ấn của nước ta. Vơí sự
đầu tư này sản phẩm in của công ty ngày một đa dạng phong phú, với nhiều
màu sắc khác nhau đáp ứng được nhu cầu về in ngày càng cao của người tiêu
dùng. Công ty không chỉ sản xuất giấy ăn thơm, giấy vệ sinh, tạp chí hàng
không mà còn in các nhãn mác gia công trên bao bì, sản xuất túi nôn hàng
không và đặc biệt là sản xuất vé máy bay các loại - một sản phẩm đòi hỏi kỹ
thuật cao và chất lượng tốt. Tất cả các sản phẩm của công ty đã cạnh tranh
được với sản phẩm cùng loại của các cơ sở in khác. Như chúng ta đã biết
khách hàng của hãng hàng không là rất lớn gồm rất nhiều nước trên thế giới,
nhiều loại người khác nhau ở nhiều độ tuổi khác nhau, sở thích khác nhau,
nhu cầu rất lớn và đa dạng. Sản phẩm của công ty in hàng không với chất

lượng ngày càng cao, mẫu mã phong phú đã thoả mãn được nhu cầu về sản
phẩm vật chất (sản xuất giấy ăn, giấy thơm, giấy vệ sinh...) và nhu cầu về sản
phẩm văn hoá (sản phẩm in bao bì, nhãn mác, tạp chí hàng không...). Nhu cầu
của hãng hàng không hàng năm chiếm 1/2 công suất của công ty, tức là từ 45
- 50% khối lượng trang in. Ngoài ra công ty nhận được đơn đặt hàng khá ổn
định của Viện thú ý TW, công ty bóng đèn phích nước Rạng đông, hãng hàng
không Lào...
Sản phẩm của công ty in hàng không sẽ có chất lượng và sức cạnh tranh
cao hơn các cơ sở in quốc doanh và các cơ sở in tư nhân, nếu cuối năm nay
công ty hoàn tất việc lắp đặt một máy in 7 màu của Mỹ. Tóm lại, công nghệ
và kỹ thuật hiện đại đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, là lợi thế
quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

23


2.2. Các yếu tố về con người
Nếu khoa học kỹ thuật công nghệ là điều kiện cần, thì yếu tố người lao
động là điều kiện đủ, là yếu tố cơ bản quyết định tới chất lượng sản phẩm
cũng như nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường. Bởi vì , dù
công nghệ có hiện đại như thế nào chăng nữa nhưng nếu người lao động
không có tay nghề cao, không có trình độ tốt về chuyên môn kỹ thuật thì máy
móc đó cũng không phát huy được tác dụng, sản phẩm làm ra cũng không đáp
ứng được yêu cầu về chất lượng.
Khi mới thành lập xưởng in hàng không có 34 cán bộ CNV chuyển từ
Bộ quốc phòng sang, không có tay nghề kỹ thuật cao về công việc in ấn. Cùng
với chế độ bao cấp và máy móc lạc hậu, các sản phẩm làm ra của xưởng in có
chất lượng rất thấp, không đáp ứng được nhu cầu của ngành chủ quản. Đến
năm 90 khi thành lập xí nghiệp in hàng không, số cán bộ CNV tăng lên là 52
người. Cùng với việc tăng lên về số lượng, xí nghiệp in đã chú trọng chất

lượng đội ngũ lao động. Một số cán bộ quản lý được cử đi đào tạo nâng cao,
nhiều công nhân đứng máy in Typo trước đây, được chuyển nghề và nâng cao
trình độ để phục vụ máy in hiện đại hơn. Sự kết hợp hài hoà giữa số lượng,
chất lượng người lao động với công nghệ kỹ thuật, đã làm cho chất lượng sản
phẩm in của xí nghiệp nâng cao, đáp ứng một số đòi hỏi của ngành. Một số
sản phẩm trước kia ngành phải thuê ngoài nay đã được xí nghiệp in đảm nhận.
Tuy nhiên, cho đến 14/9/94 khi xí nghiệp in hàng không chuyển thành công ty
in hàng không, đội ngũ cán bộ CNV đã tăng lên rất nhanh cả về số lượng và
chất lượng. Cùng với việc trang bị hai dây chuyền công nghệ hiện đại, số lao
động của công ty tăng lên, tính đến năm 1999 là 140 người. Công ty đã kết
hợp nhiều hình thức đào tạo cho cán bộ CNV: Đào tạo tại chỗ, cử đi đào tạo
ngắn hạn và dài hạn... Trong số cán bộ CNV của công ty có 13 cán bộ có trình
độ từ đại học trở lên, 18 người có trình độ trung cấp, 68 người là công nhân
kỹ thuật. Kết quả đạt được đó kết hợp với dây chuyền công nghệ in hiện đại

24


đã cho ra đời những sản phẩm in có chất lượng khá cao. Các sản phẩm in đã
chiếm lĩnh được phần lớn thị trường ngành hàng không dân dụng, đã vươn ra
cả thị trường ngoài ngành. Trong cơ chế cạnh tranh gay gắt, các cơ sở in ấn
tìm mọi biện pháp (kể cả việc trốn lậu thuế) hạ giá thành sản xuất, đánh bại
các đối thủ cạnh tranh, thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty in
hàng không là mục tiêu cao nhất phải đạt, giúp cho công ty tồn tại và phát
triển. Nâng cao chất lượng sản phẩm có sự kết hợp của nhiều yếu tố nhưng
yếu tố con người (hay người lao động) trong công ty là yếu tố quan trọng
nhất, cơ bản nhất quyết định. Cùng với sự phát triển của đội ngũ cán bộ công
nhân viên của công ty, chất lượng sản phẩm in được cải thiện và ngày càng
được nâng cao hơn. Sản phẩm làm ra của công ty không ngừng tăng lên về số
lượng, mẫu mã đa dạng, phong phú về kiểu loại. Sản phẩm của công ty đã đáp

ứng được những nhu cầu khắt khe của ngành hàng không, phát triển chiếm
lĩnh cả thị trường ngoài ngành. Tuy nhiên để mở rộng thị trườn tiêu thụ, để
đứng vững trong cạnh tranh đòi hỏi cán bộ công nhân viên của công ty phải
nỗ lực hơn nữa trong việc trau dồi kiến thức ngành in, tự học hỏi, tự tích luỹ
kinh nghiệm, kết hợp với việc đào tạo của công ty, nâng cao tay nghề đáp ứng
yêu cầu thị trường đặt ra.
2.3. Các chính sách, chế độ đối với người lao động của công ty in hàng
không.
Lý thuyết kinh tế học chỉ ra rằng nếu một doanh nghiệp, một tổ chức nào
đó trong nền kinh tế biết sử dụng người lao động hợp lý, có các chế độ ưu đãi
và chính sách đãi ngộ thích hợp cho người lao động, doanh nghiệp đó sẽ thu
hút được lực lượng lao động có tay nghề cao, sẽ ngày càng phát triển ổn định
và hưng thịnh.
Người lao động- nhân tố cơ bản quyết định chất lượng sản phẩm làm ra mà các chính sách, chế độ, hay các biện pháp của công ty tác động trực tiếp
tới họ. Qua thực tiễn phát triển của công ty ta thấy ngay được sự ảnh hưởng

25


×