Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Triết học trách nhiệm xã hội – nhiệm vụ của khu vực kinh doanh, chính trị và xã hội dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.92 KB, 12 trang )

Đề tài triết học
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI – NHIỆM
VỤ CỦA KHU VỰC KINH DOANH,
CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ


TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI – NHIỆM VỤ CỦA KHU VỰC KINH DOANH,
CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ

DIETMAR MIETH(*)
Bài viết đề cập ba vấn đề sau: 1/ Đạo đức học kinh tế như là một sự kết hợp
giữa luật lệ bên ngoài và chiến lược bên trong; 2/ Cộng đồng các quyền; và 3/
Nguyên tắc liên đới trong cơ cấu xã hội của một xã hội dân sự. Theo tác giả,
một nền kinh tế thị trường xã hội chỉ là hiện thực khi chính trị có được sự ưu
tiên hàng đầu so với kinh tế, khi chính trị có trách nhiệm với “lợi ích chung”
(công ích) và cùng với đó là việc thường xuyên kiến tạo xã hội. Khi phân tích
cộng đồng các quyền, tác giả đã có những sự so sánh với Học thuyết xã hội
Công giáo. Dẫn Học thuyết xã hội Công giáo, tác giả cho rằng, chỉ có sự công
bằng và tình liên đới mới đảm bảo lâu dài cho sự bền vững của nền kinh tế thị
trường tự do và từ đó, tác giả bàn về nguyên tắc bổ trợ. Theo đó, sự bổ trợ có
thể được xem như một chuẩn mực mang tính chiến lược bên trong của việc hiện
thực hoá tình liên đới.

“Những chuẩn mực nội tại của thị trường tự do không thể là thứ duy nhất điều
tiết những mối quan hệ quốc tế” (Giáo hoàng Paul VI. Thông điệp Phát triển
các dân tộc, 1967, n.58).
“Nếu không có sự xoá bỏ thị trường tự do, chúng ta cần thiết lập những giới hạn
của sự cạnh tranh kinh tế để làm cho thị trường công bằng hơn, xã hội hơn và


nhân văn hơn” (l.c.n.61).


“Chúng ta cần thị trường và sự cạnh tranh. Nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận là hợp
pháp. Nhưng, chúng ta cần một thị trường “được điều tiết”, chứ không phải một
thị trường tự do” (Ferdinand Kerstiens, 2005).
Đạo đức học kinh tế như là một sự kết hợp giữa luật lệ bên ngoài và chiến
lược bên trong
Những học thuyết kinh tế dành sự ưu tiên hàng đầu cho thị trường tự do cần
phải nhận thức được rằng, đường vào thị trường tự do không phải luôn luôn (và
có lẽ không bao giờ) tự do như được giả định trong lý thuyết. Cha đẻ của kinh tế
học hiện đại, Adam Smith, đã khái niệm hoá thị trường như một nhân tố có
quyền quyết định phúc lợi của các quốc gia, ít nhất là phúc lợi của mọi người.
Điều này giả định rằng, thị trường chỉ có thể đảm đương được chức năng đó
trong bối cảnh của một cơ chế điều chỉnh. Về mặt đạo đức, tất cả chúng ta chấp
nhận nỗ lực quốc tế chống tham nhũng. Chúng ta làm điều này bởi cơ chế điều
chỉnh đó có thể giúp thị trường hoạt động tự do và hữu hiệu. Nhưng, một cơ chế
cho thị trường không phải là kết quả của một trò chơi - chiến lược (gamestrategies) trong kinh tế để giúp cho thị trường hoạt động thành công và hiệu
quả. Trong bối cảnh này, trách nhiệm nằm ở lợi ích và sự hữu hiệu của chính trị.
Thời trẻ (trong những năm 50 của thế kỷ XX), tôi đã nhận ra rằng, ở Đức một
nền kinh tế thị trường xã hội chỉ là hiện thực khi chính trị có được sự ưu tiên
hàng đầu so với kinh tế và khi chính trị có trách nhiệm với “lợi ích chung”
(công ích) - là cái quan trọng hơn cả sự vận hành của thị trường, và cùng với đó
là việc thường xuyên kiến tạo xã hội. Bởi vì nền kinh tế thị trường xã hội là một
thiết chế tạo ra những hậu quả xã hội cụ thể nên nhà nước lập hiến phải thiết lập
ra một xã hội mang đậm tính xã hội. Những vấn đề xã hội không thể được giải
quyết chỉ bởi thị trường với tư cách bàn tay thứ ba bên cạnh nhà nước và xã hội,


mặc dù sự hữu hiệu của thị trường có khả năng hỗ trợ một cách gián tiếp không
chỉ phúc lợi, mà còn cả trách nhiệm xã hội.
Sự ưu tiên hàng đầu của chính trị đối với “lợi ích chung” (công ích) và với phúc
lợi của tất cả các thành viên trong xã hội thể hiện trong mối liên hệ với nền kinh

tế quốc gia (National Economy). Khi nền kinh tế càng vượt quá giới hạn giám
sát quốc gia thì càng trở nên hoang dã, đồng thời nó chỉ nhằm đến những chiến
lược thành công và tính hiệu quả. Đoạn kết của quá trình tiến triển này là, các
quốc gia đang phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế quốc tế, nhưng những điều
kiện này lại không hoàn toàn phụ thuộc vào những thể chế quốc tế - những thứ
tuy có tồn tại nhưng chỉ hữu hiệu phần nào (như Tổ chức Lao động quốc tế ILO
và các tổ chức khác).
Có những nhà đạo đức học, như Karl Homann ở Đức, đã bảo vệ cách tiếp cận lý
thuyết “thực thi” (Implementation). Lý thuyết này yêu cầu tất cả các cơ chế phải
tương hợp với tính hiệu quả kinh tế. Những điều chỉnh phải chạy theo những
chiến lược của thị trường. Theo tôi, điều này dường như không hoàn toàn sai.
Nhưng, với tư cách là một nguyên tắc đứng trên tất cả những tiêu chuẩn điều
tiết, lý thuyết này sai. Theo Học thuyết xã hội Công giáo, chỉ có sự công bằng
và tình liên đới mới đảm bảo lâu dài cho sự bền vững của nền kinh tế thị trường
tự do. Ngày nay, khi chúng ta xem xét sự sụp đổ của những vụ đầu cơ tài chính
quốc tế, đã có một sự sẵn sàng cho ý tưởng về Hội đồng kinh tế thế giới, một ý
tưởng mà 20 năm trước thường được đưa ra bởi các nhà luân lý xã hội (như
trong Concilium(1)). Theo tôi, một vấn đề khác của cuộc khủng hoảng này là,
người ta đang đầu tư rất nhiều về kinh tế và kỹ thuật vào những phát kiến khoa
học có thể có triển vọng, nhưng tính khả thi và sự hữu dụng lại không thể biết
trước và đảm bảo được. Những sự lựa chọn và sự rủi ro đang đan xen nhau
trong chiến lược thị trường này đến mức mà chúng ta phải luôn tính đến, xem
xét những thất bại có thể xảy ra với những lựa chọn đó. Đã có rất nhiều cuộc


đầu tư kinh tế được triển khai, nhưng chúng lại không tạo ra những lĩnh vực sản
xuất bền vững. Tôi biết điều này từ công việc của mình ở Uỷ ban đạo đức sinh
học châu Âu. Một vấn đề khác nữa là thị trường vũ khí. Theo tôi, đây là công
việc chính của khu vực kinh doanh mà giờ đây, nó đang chứng tỏ những yếu tố
sai lầm của mô hình kinh tế tư bản mới (turbo - capitalism: Mô hình kinh tế tư

bản mới, trong đó hiệu quả thị trường và nguồn vốn không kiểm soát định ra
tiêu chuẩn cho cuộc chơi - ND) trong thị trường. Mô hình này cũng đang tìm
kiếm một chiến lược “phúc lợi hỗn hợp” bao hàm cả trách nhiệm xã hội và gắn
với nó là quyền con người, do đó gồm cả những quyền xã hội, kinh tế, con
người và việc bảo vệ môi trường. Vấn đề bền vững của những thị trường khác
nhau đang mở ra một cơ cấu mới cho nền kinh tế quốc tế dựa trên những
nguyên tắc đạo đức (công bằng, liên đới, hoà bình, sinh thái học, lợi ích
chung…).
Cộng đồng các quyền
Trách nhiệm xã hội của nền chính trị quốc tế và quốc gia có thể được định
hướng trong một “Cộng đồng các quyền” (Community of Rights) - giống như
một khái niệm được miêu tả trong tác phẩm của Alan Gewirth năm 1996. Cũng
giống Học thuyết xã hội Công giáo (ví dụ David Hollenbach), Alan Gewirth
nhấn mạnh tới một lý thuyết hoà hợp của các quyền con người. Các quyền tự do
phải hoà hợp với các quyền xã hội và kinh tế. Điều này có nghĩa là, nhà nước
không những phải đảm bảo những quyền tiêu cực (negative rights) - bởi vì khái
niệm quyền của chủ nghĩa tự do phần lớn chỉ liên quan đến những quyền này -,
mà còn phải đảm bảo cả những quyền tích cực (positive rights) khác dựa trên
những nhu cầu tối thiểu. Quyền được “tham gia vào quá trình sản xuất” (right to
productive agency), theo Alan Gewirth (tương tự như khái niệm của Amartya
Sen), là một điều kiện của năng lực để tham dự vào những quyền dân sự khác:
“… Tất yếu đạo đức của việc thực hiện những quyền kinh tế và xã hội rõ ràng là


không thể lệ thuộc vào tính ngẫu nhiên của những dàn xếp và những tác động
của thị trường, kể cả những bất bình đẳng mà chúng phản ánh và cổ vũ. Nói
chung, những quyền con người - những quyền kinh tế và xã hội, cũng như
những quyền chính trị và kinh tế - là điều kiện cho sự tự do và hạnh phúc của
con người. Chúng là những điều kiện cần thiết cho hoạt động và thành công nói
chung, do đó việc thực hiện các quyền không chỉ không thể tách rời những thoả

thuận cá nhân tuỳ ý, mà còn phải được đảm bảo bởi nhà nước cũng như cộng
đồng các quyền trong chừng mực mà những con người bị chia rẽ, bằng những
cố gắng của riêng mình, không thể thực hiện được. Trong những giới hạn được
thiết lập bởi những sự đảm bảo này, những giao dịch thị trường và những hình
thức thoả thuận tự nguyện khác, bao gồm các tổ chức từ thiện, là biện pháp
kiềm chế tự do”(2).
Khái niệm “Cộng đồng các quyền” tương tự khái niệm “công ích” (common
good) trong Học thuyết xã hội Công giáo. Cũng có một khoảng cách nhất định
trong cách tiếp cận khái niệm “công ích” của Học thuyết xã hội Công giáo so
với cách tiếp cận của chủ nghĩa duy lợi và cách tiếp cận mang tính tập thể
(collective approach). Nhưng, việc nhận thức một Nhân Vị (con nguời) thường
không chỉ theo nghĩa là một cá nhân, bởi khái niệm Nhân Vị của Cơ Đốc giáo
(hoặc của phẩm giá con người) là “rilatio subsistens”. Khái niệm Latinh này có
thể dịch thành “nhận thức trong và qua mối quan hệ với người khác” (David
Hollenbach gọi là “hữu thể tương quan” - relational beings)(3). Từ “nhân vị”
luôn bao hàm nhận thức về sự kết hợp của sự tự trị và sự phụ thuộc vào người
khác và có trách nhiệm với người khác; vì vậy, trách nhiệm thường bao hàm sự
công bằng và sự quan tâm. Điều này có thể tìm thấy trong sự kết hợp giữa ý chí
tự do với nội hoá (internalization) quy luật phổ biến bên trong của Kant và trong
những ngụ ý chuẩn mực của Đạo đức học diễn ngôn (Discourse Ethics). Cách
tiếp cận phi - duy lợi được Alan Gewirth nêu ra là: “… Nó đánh dấu một sự
khác biệt lớn đối với hầu hết các học thuyết triết học về công bằng xã hội. Các


học thuyết đó xem xét con người như là những người thụ động trong việc tiếp
nhận những sự sắp đặt có tính thể chế, chứ không phải là những con người có
đóng góp tích cực đến phúc lợi kinh tế của chính họ”(1.c).
Trong Học thuyết xã hội Công giáo, quyền con người được xem xét, như trong
Thông điệp Hoà bình trên thế giới của Giáo hoàng John XXIII, dưới hai khía
cạnh: sự cam kết với “nhân tố sản xuất” (productive agency) được dựa trên

quyền tự do và sự cam kết đối với đường lối “xã hội” (chủ nghĩa), “mà tự do
của nhân vị là một thứ trừu tượng trừ khi nó được xem xét trong bối cảnh kinh
tế và xã hội quy định nó”(4). Sự khác nhau giữa các học thuyết về công bằng
của chủ nghĩa tự do và (chủ nghĩa) xã hội là: Học thuyết xã hội Công giáo
không chỉ là một học thuyết về xây dựng những thiết chế chính trị, mà còn là
một học thuyết đạo đức dùng để xem xét sự tồn tại của những thiết chế đó như
thế nào để chúng có thể tương thích với một khái niệm mang tính dung hợp khái niệm quyền con người. Do đó, một mặt, Học thuyết xã hội Công giáo cơ
bản hơn một học thuyết chính trị và, mặt khác, có những nỗ lực cụ thể hơn trong
xã hội dân sự. Chính vì vậy, Alan Gewirth tỏ ra là một chính trị gia hơn khi ông
kết hợp con người với những thiết chế: “Cộng đồng và các quyền cùng xuất
hiện với nhau bởi sự quan tâm thiết yếu của con người tới tự do và hạnh phúc,
được bảo vệ qua cơ chế mang tính tình huống nhằm giúp đỡ lẫn nhau. Nhờ đó,
con người được trợ giúp để phát triển năng lực của (nhân tố) sản xuất của mình
và tìm thấy việc làm thích hợp với khả năng của mình(5).
Để giải thích khái niệm “nhân tố sản xuất”, Alan Gewirth đã xem xét khái niệm
“tiểu sử kinh tế” (economic biography): “Tiểu sử kinh tế … phản ánh tâm điểm
kém phát triển - nơi mà con người được xem xét khởi đầu từ nghèo đói và dần
dần đạt được những khả năng và những điều kiện cần thiết để thành một tác
nhân thành công. “Thành công” của tác nhân sản xuất ở đây được nhìn nhận
dưới hai khía cạnh: khía cạnh sản xuất nói chung và khía cạnh kinh tế của sản


xuất”(l.c.). Do đó, Alan Gewirth cho rằng, những bước tiến kinh tế thành công
là điều kiện cần thiết cho sự hoàn thiện những quyền tự do và hạnh phúc của
con người. Theo ông, “một hiến pháp kinh tế” (economic constitution) là cần
thiết, nó có thể được phản ánh ở cấp độ quốc tế và quốc gia. Do đó, ông đã kết
hợp “những nghĩa vụ của con người” với “những sự bảo vệ mang tính thể chế”.
Khi các quyền có thêm hàm ý về “những nghĩa vụ” thì học thuyết của ông
không có một chút nào là học thuyết về “sự tự trị” theo nghĩa sự tự quyết định.
Theo tôi, ông là một nhà triết học xã hội không chỉ theo đuổi học thuyết về

quyền con người, mà còn theo đuổi học thuyết về những lợi ích và nhu cầu cơ
bản của con người ở 3 mức độ: lợi ích cần thiết, lợi ích đạt được và lợi ích
không cần thiết (xa xỉ). Rõ ràng, một lý thuyết như vậy đã có vài mâu thuẫn với
việc bảo vệ người người tiêu dùng và hàng hoá trong cách tiếp cận giá trị dưới
góc độ kinh tế.
Học thuyết xã hội Công giáo thực chất không “đóng khung” chỉ trong một cách
hiểu như vậy. Nhưng, tôi đồng ý với Gabrien và Grobe Kracht khi họ viết: “…
Ngày nay, những học thuyết xã hội chính thống của Giáo hội hoàn toàn ủng hộ
những ý tưởng hiện đại về những quyền dân sự và nền dân chủ chính trị, về thiết
chế thế tục và “văn hoá phân lập” (culture of separation) hiện đại. Ngày nay, ở
nhiều nước, Giáo hội và các thành viên của nó đang tranh cãi về nhiệm vụ và
trách nhiệm chính của Giáo hội Công giáo Roma như một cộng đồng tôn giáo
xác định giữa những cộng đồng tôn giáo và không tôn giáo khác trong những xã
hội dân sự hiện đại. Ngày nay, họ phải quyết định, hoặc Giáo hội chủ yếu muốn
trở thành một tổ chức mang tính “riêng tư” (tư nhân) nhiều hay ít, đưa ra những
dịch vụ tôn giáo và từ thiện cho các thành viên của nó và - vì những niềm tin tôn
giáo - cũng như vậy đối với người nghèo; hoặc Giáo hội muốn trở thành một tổ
chức mang tính công cộng rõ ràng, có liên quan và gắn kết với chính trị trong
một xã hội dân sự hiện đại với những cam kết mạnh mẽ vì “lợi ích chung”, vì


công bằng xã hội và phúc lợi công cộng…”.
Học thuyết xã hội Công giáo được dựa trên một khái niệm của Luật Tự nhiên.
Khái niệm này thường bị thách thức bởi những học thuyết triết học - đạo đức,
một mặt là từ những người theo nghĩa vụ luận - ở đó, nghĩa vụ xã hội thường
được coi trọng hơn kết quả kinh tế - và mặt khác, từ những người theo luận
thuyết hậu quả - những người chạy theo những điều kiện kinh tế của “sự thực
thi”. Luật Tự nhiên (ở những người theo mô hình Arixtốt) duy trì sự cân bằng
hai luận thuyết trên và ở “trung điểm” giữa những lý thuyết này. Một nghĩa vụ
luận không nên quá cứng nhắc để chấp nhận rằng, những kết quả sẽ tiêu huỷ

những dự kiến về những giá trị và đức tính cơ bản, nhưng để có những kết quả,
chúng ta cần hai tiêu chuẩn: 1. mục đích thiện không thể biện bạch cho phương
tiện xấu; 2. đánh giá hậu quả không chỉ là việc của xử lý thống kê xã hội học
hay liệt kê dữ liệu thực nghiệm, mà còn là công việc hàm chứa sự thấu triệt đạo
đức và sự thông hiểu thực tế.
Nguyên tắc liên đới trong cơ cấu xã hội của một xã hội dân sự
Trong Học thuyết xã hội Công giáo, nguyên tắc liên đới được đề cập nhiều hơn
nguyên tắc công bằng. Điều này có vẻ lạ nếu Học thuyết xã hội Công giáo có
liên quan đến đến Thomas Aquinas và Lý thuyết về công bằng của ông. Nhưng,
có hai nguyên nhân: việc tập trung vào tình yêu và sự quan tâm (giống như
trong Thông điệp thứ nhất của Giáo hoàng Bendict XII) và sự tập trung vào tình
liên đới. Có thể là định hướng đặc thù của Học thuyết xã hội về hoạt động trong
xã hội dân sự không quá tập trung vào xây dựng những thiết chế công bằng như
các học thuyết triết học từ thời John Rawls. Nguyên tắc bổ trợ đã cổ vũ cho định
hướng này (Nhưng giờ đây, nó cũng được sử dụng cho việc kiến tạo các liên
minh khu vực (Regional Unions): đây là một nguyên tắc xây dựng Liên minh
châu Âu EU). Sự bổ trợ có thể được xem như một chuẩn mực mang tính chiến


lược bên trong của việc hiện thực hoá tình liên đới. Nguyên tắc này điều khiển
sự hợp nhất, trong những công việc của trách nhiệm xã hội, xã hội dân sự và các
nhóm xã hội tham gia vào - như các tổ chức, các cộng đồng tôn giáo và Giáo hội
-, một nghĩa vụ đạo đức và xã hội để chủ yếu giúp xây dựng không chỉ nhà nước
- mặc dù chúng có thể giúp suy tư về quá trình xây dựng này - mà còn chủ yếu
là xây dựng một xã hội dân sự mang tính xã hội (Social Civil Society). Trong
lịch sử, nguyên tắc liên đới, được hình thành từ cuộc đấu tranh chung của những
người công nhân cho các quyền của họ. Trong “lựa chọn vì người nghèo”, Giáo
hội đã theo đuổi từ năm 1968 (Trong Hội nghị tôn giáo Mỹ - Latinh ở Medellin,
Comlombia) khái niệm “ủng hộ tình liên đới” (pro-solidarity) giữa những người
làm việc cùng nhau trong “cùng liên đới” (con-solidarity) nhằm thay đổi những

điều kiện bất công trong cuộc sống và tiểu sử của họ (có thể tìm thấy sự phân
biệt “cùng liên đới” và “ủng hộ tình liên đới” trong bài viết của tôi trong
Concilium năm 1982: Thất nghiệp và quyền có việc làm). Trong Giáo hội Công
giáo, khái niệm liên đới cũng được dựa trên Thần học về xã hội của Cơ Đốc
giáo, nó là cái thường bị lờ đi trong quá khứ, nhưng cũng là cái được phát triển
một cách nhất quán trong các chủ đề của Kinh thánh về một nền công bằng mới
và cả trong các truyền thống xây dựng các thiết chế an sinh xã hội ở các nhà
nước. Ở Đức, nguồn gốc của nền kinh tế thị trường xã hội và của khái niệm an
sinh xã hội cùng những thành công về mặt chính trị của nó cũng có sự đóng góp
của tôn giáo. Nhà nuớc, xã hội và (không chỉ, mà còn là chủ yếu) các tổ chức
Giáo hội đang cùng nhau làm việc trong một cái gọi là “hỗn hợp phúc lợi” (Karl
Gabrriel) theo nguyên tắc bổ trợ. Trong đó, những lợi ích kinh tế phải được giới
hạn trong một bối cảnh an sinh xã hội vì những quyền xã hội và những nhu cầu
cơ bản. Nhà nước ủng hộ các tổ chức trong xã hội dân sự (như Caritas và
Diakonia - tổ chức dân sự lớn nhất ở Đức). Khái niệm này đã có từ 10 năm
trước đây dưới sức ép của kinh tế và đã được sử dụng trong một giới hạn nhất
định. "Sự tự trị" trở thành từ ngữ chủ đạo, mà theo đó, trong nhận thức sai lầm


về sự bổ trợ, các tổ chức an sinh xã hội và các tổ chức khác (ví dụ, trong lĩnh
vực giáo dục) chịu sự chi phối kinh tế ngặt nghèo đến nỗi mỗi cá nhân phải tự
mình xoay xở để bù đắp thiếu hụt. Sự xung đột gây ra bởi dư thừa kinh tế thế
giới có thể là một cơ hội để trở về với “cội nguồn” của một chiến lược xã hội tốt
đẹp hơn.
Dưới góc độ Học thuyết xã hội, nguyên tắc bổ trợ, trong đó hàm chứa nguyên
tắc liên đới, nên được hiểu như sau: Cụ thể, giữa các nhóm và cộng đồng xã hội
khác nhau, bắt đầu từ gia đình, những người láng giềng, rồi tới các tổ chức ở
thành phố,… từ đáy của xã hội tới đỉnh của nó là chính phủ nhà nước (tiến trình
chính trị từ dưới lên trên - ND.). Điều này đối lập với quan điểm về chính trị
xuất phát từ trên xuống dưới (tiến trình chính trị từ trên xuống dưới - ND.) …

nhưng nó cũng đối lập hoàn toàn với quan điểm thuần túy của chủ nghĩa tự do
và chống nhà nước hoá trong việc xoá bỏ toàn bộ các dịch vụ và trách nhiệm
của nhà nuớc đối với các nhóm và cộng đồng này. Vì vậy, nguyên tắc bổ trợ
khẳng định một quy tắc mang tính chuẩn mực kép: một mặt, là “mệnh lệnh”
(phải) giúp đỡ (bởi đó là quyền xã hội mang tính tích cực) những tầng lớp thấp
và yếm thế trong xã hội trong trường hợp họ không có năng lực và mặt khác,
tương ứng với điều này, “ngăn cấm” chiến lược độc đoán ở mức độ cao hơn của
nhà nước(6)./.
Người dịch: ThS.CAO THU HẰNG
Người hiệu đính: ThS.TRẦN TUẤN PHONG
(Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam)

(*) Giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành đạo đức thần học và đạo đức xã hội, Trường
đại học Tỹbingen, Cộng hoà Liên bang Đức, Ủy viên Hội đồng châu Âu về đạo


đức trong khoa học và công nghệ.
(1) Đây là Tạp chí Thần học của Công giáo, xuất bản 5 kỳ trong 1 năm. Mỗi
một số tạp chí chỉ tập trung vào một vấn đề. ND.
(2) Alan Gewirth. The Community of Rights. Chicago University Press, 1996,
p.349.
(3) Xem: Charles E.Curran, Richard, A.McCormick. (eds.) Official Catholic
Social Teaching. Paulist Press, New Jersey, 1986. Especially: David
Hollenbach. Global Human Rights, p.376.
(4) Xem: Charles E.Curran, Richard, A.McCormick. (eds.) Official Catholic
Social Teaching; David Hollenbach. Global Human Rights. Ibid., p.373.
(5) Alan Gewirth. The Community of Rights. Ibid., p.351.
(6) Karl Gabriel, Hermann Groòe Kracht. The Catholic Church and its Third
Sector Organisations. In: Annette Zimmer, Eckhard Priller /eds.). Future of
Civil Siciety, Wiesbaden, 2004, pp.199-216.




×