Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận 1 lạm phát ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.27 KB, 21 trang )

Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra tình trạng cạnh tranh gay gắt
giữa các doanh nghiệp để thu được lợi nhuận caovà đứng vững trên thương
trường các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp luôn phải nhanh chóng để
tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có
để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những
vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn
với nền kinh tế thị trường.Nó là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của
thế kỷ XXI và đụng chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng
hoá tiền tệ. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không
có những giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu thì lạm
phát có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội
nào.
Nền kinh tế của Việt Nam cũng không thể tránh khỏi lạm phát, nó là một
vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể
mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của
các nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng
toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động
ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân
đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân.
Đây cũng là lý do em chọn đề tài: “Lạm phát và các giải pháp kiềm chế
lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Học viên:

1


Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm:
Lạm phát đã được đề cập rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của
các nhà kinh tế. Trong mỗi công trình, các nhà kinh tế đưa ra các khái niệm về
lạm phát.
Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền
giấy phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị
của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó
được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là sự
tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian"
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo
thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm
một năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh
giá cả của hai loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất
lượng không thay đổi.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá
giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
2. Các chỉ tiêu đo lường lạm phát
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá
cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là
có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính.

Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được
điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả
của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất
lớn từ giá cả thế giới nói chung).
Học viên:

2

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi
"người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia
công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là
con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được
sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có
khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI.
Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó
ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông
thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm
phát đã xảy ra).
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được
không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là
sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi
các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở
đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng
phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một
dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên

lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau;
một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
- Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn
(thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất
giống với PPI.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một
cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử
dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả
vàng và bạc.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc
nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị

Học viên:

3

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh
hay GDP thực.
3. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách để phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ
có các loại lạm phát khác nhau .
3.1.Căn cứ vào định lượng
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát
dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối.
Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của

người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi
xuất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá
với số lượng lớn …
- Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ
lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp :11%,12%.. thì nói chung các tác động
tiêu cực không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi
tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh
chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này
người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay
tiền ở mức lãi xuất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến
sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ. Bên cạnh đó
lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế
- Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên
với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa
lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng
kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền luơng thực tế của người
lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính
xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào
tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống

Học viên:

4

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng.Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy

ra .
3.2.Căn cứ vào định tính:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
* Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động,
tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền
kinh tế nói chung.
* Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
-Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
* Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một
thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể
dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người
dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không
gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế .
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện.
Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp
thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế
và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm
trọng hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau:
lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm, lạm
phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu
lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm .
4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
4.1.Lạm phát do cầu kéo:

Học viên:


5

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng
lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng
do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới
cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Nhiều người có trong tay
một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá hay dịch vụ với mức
giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự
tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó
leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm
phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về
một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên
mức cao hơn.các nhà khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là "quá nhiều tiền
đuổi theo quá ít hàng hóa”
4.2. Lạm phát do cầu thay đổi:
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một
mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá
cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt
hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng
cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
4.3. Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu
vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc
vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn
cũng tăng lên. Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí

nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng
giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
4.4. Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công
cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành

Học viên:

6

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều
đó.
4.5. Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm
được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong
nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung
và tổng cầu mất cân bằng.
4.6. Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết
định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm
đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập
khẩu đội lên.
4.7. Lạm phát tiền tệ:

Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ
cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân
hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền
trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
4.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát:
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả
hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao
hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
5. Tác động của lạm phát
Lạm phát có nhiều loại,cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của lạm
phát đối với nền kinh tế.
5.1 Các hiệu ứng tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ
tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ
"dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải
Học viên:

7

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm
đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được
tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
5.2. Các hiệu ứng tiêu cực:
5.2.1 Đối với lạm phát dự kiến được:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể

tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra
những tổn thất cho xã hội:
- Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ
tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm
phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải
thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ
"chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời
gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường
hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí
thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh
chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương
đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực
dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên
góc độ vi mô.
- Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với
ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của
lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi
nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập
trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co
giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Học viên:

8

Lớp: KTPT K23



Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

5.2.2. Đối với lạm phát không dự kiến được:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải
giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường
được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay
được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến
người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. lạm phát không dự
kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác dụng của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động
tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát
gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định
và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông
qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất
lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát
này.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Tổng quan tình hình lạm phát ở Việt Nam:
Học viên:

9

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”


1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam thời gian qua:
Nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm từ khủng hoảng trầm
trọng với tăng trưởng kinh tế thấp, đời sống nhân dân khó khăn, tỷ lệ lạm phát
phi mã, rồi lại đứng trước nguy cơ tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở các
nước trên thế giới và trong khu vực với tăng trưởng kinh tế chậm có nguy cơ suy
thoái, rồI lại đến thời kỳ phục hưng, phát triển với mức tăng trưởng kinh tế cao
và lạm phát ở mức vừa phải. Ứng với mỗi giai đoạn phát triển, từng bối cảnh cụ
thể là từng giai đoạn diễn biến khác nhau của lạm phát, và ứng với nó là những
nguyên nhân khác nhau.
Trong quá khứ Việt Nam cũng là một trong nhũng nước có tỷ lệ lạm phát
cao trong lịch sử, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới 1986 – 1988, lạm phát ở Việt
Nam lên tới ba con số :
Năm

1986

1987

1988

Tỷ lệ lạm phát

487,2

301,3

308,2

(%)

Trong giai đoạn này nền tuy công cuộc đổi mới đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ song nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong tình trạng khủng
hoảng: kinh tế chậm phát triển, không ổn định, hàng hoá sản xuất ra không bán
được, hàng hoá tồn đọng, nhiều cơ sở sản xuất phải thu hẹp hoặc ngừng sản
xuất, tài chính doanh nghiệp rối ren, lạm phát lên đến mức kỷ lục, cao nhất là
năm 1986 với tỷ lệ lạm phát là 487,2%. Vì thế mà người ta gọi đây là thời kỳ
siêu lạm phát.
Để đối phó với tình trạng này, Chính phủ ta đã sử dụng đồng bộ nhiềugiải
pháp, từ đó trong những năm tiếp theo, lạm phát đã được khống chế khá tốt và
thường dưới 2 con số.
Năm
Tỷ lệ lạm phát

1990
67,1

1991
67,5

1992
17,5

1993
5,2

1994
14.4

1995
12,7


(%)

Học viên:

10

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm phát thấp nhất của Việt
Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%, -0.6% và 0.8%.
Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997
– 1998.

Nguồn:
Biểu đồ 1: Chỉ số lạm phát ở Việt Nam từ 2003-2010
Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn
bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm
2007, chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối
năm. Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình
lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của
CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số
CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%.
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá
nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế.
CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy
vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao

hơn khá nhiều.
Nếu như năm 2010, các tổ chức xếp hạng như Moody’s, Fitch Rating,
Standard & Poor’s đồng loạt đánh giá tín nhiệm Việt Nam ở mức “tiêu cực” do
quan ngại về chính sách kinh tế, dự trữ ngoại hối và thực trạng của hệ thống
Học viên:

11

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

ngân hàng thì giai đoạn 2011-2015, Fitch nâng xếp hạng của Việt Nam lên mức
BB, Moody’s nâng xếp hạng của Việt Nam lên mức B1, tiến gần hơn đến
ngưỡng khuyến nghị đầu tư.
Giai đoạn 2011-2015 đánh dấu thời kỳ giữ lạm phát ổn định ở mức thấp
nhất trong hơn 10 năm qua. Lạm phát ổn định ở mức thấp, ổn định kinh tế vĩ mô
được giữ vững, thị trường ngoại hối, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng lên
mức kỷ lục, thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện vững chắc là những
yếu tố cơ bản được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế sử dụng làm căn cứ
để nâng hệ số tín nhiệm của Việt Nam.

Bảng 2: Chỉ số lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2011 - T4/2016
Và trong báo cáo tình hình giá cả quý IV và năm 2016 công bố sáng ngày
28/12/2016 của Tổng cục Thống kê nhấn mạnh, năm 2016 được coi là thành
công trong việc kiểm soát lạm phát trong điều kiện giá một số mặt hàng thiết
yếu tăng trở lại nhưng vẫn tạo điều kiện để điều chỉnh giá một số mặt hàng do
Nhà nước quản lý tiệm cận dần theo giá thị trường.
Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, lạm phát cơ bản tháng 12/2016

tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Lạm
phát cơ bản bình quân năm 2016 tăng 1,83% so với bình quân năm 2015.
Học viên:

12

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Bình quân năm 2016 so với năm 2015, lạm phát chung có mức tăng cao
hơn lạm phát cơ bản, điều này phản ánh biến động giá do yếu tố thị trường có
mức tăng cao, đó là giá lương thực thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành
giá cả qua việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục. Mức tăng của lạm
phát cơ từ tháng 1 đến tháng 12 năm nay so cùng kỳ có biên độ dao động trong
khoảng khá hẹp từ 1,64% đến 1,88%, điều này thể hiện chính sách tiền tệ đang
được điều hành ổn định, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
2. Nguyên nhân thực sự gây ra lạm phát cao ở Việt Nam thời gian qua:
Trên cơ sở nghiên cứu về biến động của giá cả và lạm phát ở Việt Nam, em
cho rằng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua là do những nguyên nhân sau:
2.1. Về phương pháp tính
Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với Việt Nam. Một là, các
nước thường loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán...; Hai là, giá đó là
giá giao dịch mua buôn, bán buôn trên thị trường hàng hóa của các nhà kinh
doanh, còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối với nhiều mặt hàng thì vẫn ổn
định; Ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm hàng hóa và
dịch vụ tính CPI.
2.2. Điều tiết vĩ mô kém
Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước những

biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị trường
trong nước là còn nhiều bất cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược leo thang
hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối loạn thị trường thuốc chữa bệnh,
lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc tân dược.
2.3. Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi tại
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này về
nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh toán tăng
lên trong kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát sinh ở kỳ sau, trong ngắn hạn là 6
tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14 năm qua, mức tăng
Học viên:

13

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%-26%/năm, phù hợp với tốc độ tăng
trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm phát, cũng như giảm phát.
Xem xét các chỉ số tăng trưởng tín dụng và lạm phát trong khoảng thời gian từ
năm 2007 đến T5/2009 ta có biểu đồ:

Nguồn: IFM và VietstoctFinance
Biểu đồ cho thấy giữa 3 yếu tố tăng trưởng, tín dụng và lạm phát có một sự
tương quan khá chặt chẽ nhưng thường có độ trễ nhất định. Lạm phát thường
tăng hay giảm sau khi cung tiền tăng giảm từ 3-5. Các kiểm định thống kê chúng
tôi thực hiện cũng cho thấy lạm phát và độ trễ tăng trưởng tín dụng 4-7 tháng có
quan hệ khá chặt. Đây là một minh chứng cho quan điểm cung tiền gây nên lạm

phát cao ở Việt Nam.
2.4. Do cầu kéo
Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng
hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do đó
hầu như không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới tăng giá
một hay một số mặt hàng nào đó. Song trong năm 2004, do ảnh hưởng của dịch
cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm giảm mạnh nguồn cung
sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng lên, làm cho giá cả
mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến.
2.5. Do chi phí đẩy
Học viên:

14

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên
thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên liệu
nhựa, phân đạm Urê, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm cho giá
bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong năm 2004
đã được điều chỉnh tăng 4 lần. Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm
phát của Việt Nam trong thời gian qua.
Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP
(2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong
nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế
giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và các
nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các hàng hóa

trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát. Tuy nhiên,
nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa trên thế giới không
thể giải thích hoàn toàn cho lạm phát ở Việt Nam. Quan sát bảng sau ta thấy
cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu hết các hàng hóa trên thế giới
đều không chịu mức lạm phát cao như Việt Nam. Như vậy ngoài nguyên nhân
do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát do chi phí đẩy) nguyên nhân rất quan
trọng gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt Nam chính là lạm phát do nguyên nhân
cung tiền.

Tính trung bình giai đoạn 2000-2010, tốc độ tăng cung tiền M2 của Việt Nam
dẫn đầu khu vực với mức tăng 31,4%, sau đó là của Trung Quốc (17,8%),
Indonesia (13%), Philippines (10,2%), Malaysia (8,7%) và Thái Lan (6,2%).
Học viên:

15

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Riêng năm 2010, tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam thậm chí lên tới 33,3%. Do
cung tiền tăng nhanh nên tỷ lệ cung tiền M2 trên GDP của Việt Nam tăng lên rất
nhanh.
3. Các yếu tố ảnh hưởng tình hình lạm phát của Việt Nam trong năm 2016:
3.1 Các yếu tố gây tăng giá:
- Do điều hành của Chính phủ, giá dịch vụ y tế tăng theo Thông tư liên
tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC, ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính
có hiệu lực từ ngày 1/3/2016, nên giá các mặt hàng dịch vụ y tế tăng 77,57%
làm cho chỉ số CPI tháng 12/2016 tăng khoảng 2,7% so với tháng 12 năm trước.

- Tăng giá học phí theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP: Thực
hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015
của Chính phủ, cả nước có 53 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng học
phí các cấp học làm cho chỉ số giá nhóm giáo dục tháng 12 năm 2016 tăng
12,5% so với tháng 12 năm trước. Điều này tác động tới chỉ số CPI năm 2016
tăng khoảng 0,58% so tháng 12 năm trước.
- Mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở các doanh
nghiệp tăng từ ngày 1/1/2016 nên giá một số loại dịch vụ như: dịch vụ sửa chữa
đồ dùng gia đình, dịch vụ bảo dưỡng nhà ở, dịch vụ điện, nước; dịch vụ thuê
người giúp việc gia đình có mức tăng từ 1%-2,5% so với năm trước.
- Trong năm, vào dịp Tết Nguyên đán, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, kỳ lễ
30/4-1/5 và 2/9 đều được nghỉ kéo dài nên nhu cầu mua sắm, vui chơi giải trí
tăng cao, giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm đều tăng.
Ngoài ra, thiên tai và thời tiết khắc nghiệt, rét hại, rét đậm rét hại trên diện
rộng ở phía Bắc; mưa lũ ngập lụt nghiêm trọng ở miền Trung; khô hạn ở Tây
Nguyên và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã làm ảnh hưởng đến
giá rau xanh, rau tươi tăng từ 15-50%; Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 12
năm 2016 tăng 2,57% so với tháng 12 năm trước…
3.2 Các yếu tố yếu tố góp phần kiềm chế chỉ số CPI.

Học viên:

16

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

- Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống năm 2016 (nhóm chiếm tỷ

trọng lớn nhất trong 11 nhóm hàng chính) chỉ tăng 2,36% so với năm trước, thấp
hơn nhiều so với mức 4% của năm 2014 hay mức 8,12% của năm 2012.
- Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới khá ổn định, một số mặt hàng có
xu hướng giảm mạnh trong quý I và quý III như giá nhiên liệu, chất đốt, sắt thép
nên chỉ số giá nhập khẩu năm 2016 so năm 2015 giảm 5,35%, chỉ số giá xuất
khẩu giảm 1,83%; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp (PPI) giảm 0,49%.
- Năm 2016 giá xăng dầu bình quân giảm 15,95% so với năm trước và
giảm 3,35% so tháng 12 năm trước, kéo theo chỉ số giá nhóm hàng “giao thông”
năm 2016 giảm 7,31% so với năm trước và giảm 1,12% so tháng 12 năm trước.
- Giá gas sinh hoạt trong nước cũng được điều chỉnh theo giá gas thế giới,
tháng 12 năm 2016 giá gas giảm 1,63% so với tháng 12 năm trước.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành lãi suất và tỷ giá linh hoạt
phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô: Năm 2016, tỷ giá VND/USD trên thị
trường khá ổn định trong 11 tháng của năm, tuy nhiên tháng 12 do áp lực cuối
năm cùng với các sự kiện chính trị thế giới và việc tăng lãi suất của Cục Dữ trữ
Liên bang (FED) vào ngày 14/12/2016 khiến cho tỷ giá VND/USD tháng 12
biến động mạnh, nhưng vẫn nằm trong biên độ giao dịch cho phép. Giá vàng
trong nước đã tiệm cận và biến động cùng xu hướng với giá vàng thế giới,
không có tình trạng “sốt vàng” gây bất ổn kinh tế - xã hội.
- Bên cạnh đó, xu hướng tiêu dùng của người dân trong dịp Tết Nguyên
đán những năm gần đây thay đổi so với những năm trước, người dân không mua
dồn dập hàng hóa vào những ngày giáp Tết, không mua tích trữ vì ngày mùng 1
Tết đã có chợ, do đó không tạo áp lực lên giá cả hàng hóa vào tháng Tết.

CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

Học viên:

17


Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Thời gian gần đây, Chính phủ Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng
của vấn đề lạm phát thể hiện qua các biện pháp bình ổn giá cả, yêu cầu giãn tăng
giá xăng dầu…liên tục được thực hiện. Tuy nhiên, theo em, Chính phủ cần phải
xây dựng hệ thống chính sách tiền tệ, tài chính hiệu quả, tỷ giá hối đoái linh
hoạt, dự trữ quốc gia đủ mạnh và can thiệp vào nền kinh tế đúng lúc. Ngoài ra,
trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp
trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô của nhà
nước: giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt động xuất nhập
khẩu, điều hành tốt giá cả và lưu thông hàng hóa…đề đảm bảo vừa tăng trưởng
kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất. Cụ thể:
1. Đẩy mạnh hơn nửa quá trình chuyển đổi nền kinh tế và cơ chế quản lý
kinh tế.
Trên cơ sở đó có thể tận dụng tối đa ưu thế thị trường và khai thác tối ưu
tiềm năng của nền sản xuất xã hội. Nhờ vậy mà tăng nhanh số lượng chủng loại và
chất lượng hàng hóa cung ứng ra thị trường ngoài ra cần nâng cao sản lượng hàng
hóa trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất công, nông nghiệp. Mặt khác cần tiếp
tục cải tiến công nghệ, cải tiến kỹ thuật đảm bảo từng bước giảm chi phí sản xuất.
Từ đó thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá
2. Ổn định giá cả thị trường :
Cần có các biện pháp ổn định giá cả các mặt hàng thiết yếu và những mặt
hàng mà nhà nước độc quyền sản xuất kinh doanh
3. Khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách:
Nhà nước cần khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP. Bởi
vì bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gây ra sự mất cân đối giữa cung

và cầu.
4.Về các ngân hàng:
Với trách nhiệm là một ngành đóng vai trò quan trọng trong việc kiềm chế
lạm phát, các ngân hàng cần:

Học viên:

18

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

- Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy động vốn
và cho vay hiệu quả các dự án.
- Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục
tiêu ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
- Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương
mại
- Xử lý tốt mối quan hệ với ngân hàng nhà nước, phát triển thị trường vốn,
đồng thời phát triển ồn định thị trường chứng khoán, hòa nhập vào nền kinh tế
thế giới.
5. Cần có kế hoạch tổ chức quản lý nợ nước ngoài và sử dụng hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.

KẾT LUẬN

Học viên:


19

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

Trong giai đoạn hiện nay, lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm
pháp luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong nền kinh tế thị trường bởi
những tác động của nó gây ra đối với mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội cũng
như chính trị của một quốc gia. Lạm phát cao không những làm cho thu nhập
thực tế của người lao động giảm xuống, làm cho đời sống của họ trở nên khó
khăn hơn mà nó còn làm cho nền kinh tế bị suy thoái, thất nghiệp gia tăng , đất
nước rơi vào khủng hoảng. Vì thế việc nắm được nguyên nhân dẫn đến lạm phát
là hết sức quan trọng để có thể đưa ra những biện pháp khắc phục lạm phát hợp
lý, có hiệu quả. Hiểu được vấn đề đó, Việt Nam đã thành công trong việc khống
chế và từng bước đẩy lùi lạm phát, đưa lạm phát từ ba con số xuống một con số
trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đó mà Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và
từng bước đi vào ổn định, phát triển.
Từ những nghiên cứu về lạm phát và phân tích các nguyên dân dẫn đến
lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua và trong năm 2016, em xin mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, trong phạm vi một bài tiểu luận và do thời gian hạn chế, bài luận không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự thông cảm và
góp ý của cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Học viên:


20

Lớp: KTPT K23


Đề tài: “Lạm phát và một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay”

-
- />- />- />- />- Tạp chí tài chính
- Thời báo tài chính Việt Nam
- Báo Lao động
- Tổng hợp số liệu các năm từ tổng cục thống kê.

Học viên:

21

Lớp: KTPT K23



×