VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG
NHU CẦU HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGƯỜI
KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG
NHU CẦU HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGƯỜI
KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ngành: Tâm lý học
Mã số:
9.31.04.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HUỲNH VĂN SƠN
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những dữ
liệu và kết quả trong luận án là trung thực và chưa ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Bích Phượng
Nguyễn Thị Hải
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Những thầy cô hướng dẫn là người đã dõi theo, giúp đỡ, hỗ trợ, chỉ bảo
tôi từ những ngày tôi bước chân vào Học viện Khoa học Xã hội. Trong quá
trình được tiếp xúc, tôi cảm nhận thầy cô đã hết lòng chỉ bảo cho học trò
những điều ý nghĩa nhất và sâu sắc nhất. Với luận án của tôi, thầy cô đã hết
sức tận tâm chỉ bảo cho tôi trong suốt thời gian học tập nghiên cứu. Thầy cô đã
trực tiếp hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận án
này.
Các thầy cô là giảng viên, nhà khoa học tại Học viện Khoa học Xã hội,
Viện Tâm lý học, Trường Đại học Cần Thơ, Đại học Y dược Cần Thơ, Đại học
An Giang, Đại học Trà Vinh, đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá
trình nghiên cứu, điều tra, phỏng vấn, quan sát và thực nghiệm.
Các sinh viên năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba của Trường Đại học Cần
Thơ, Đại học Y dược Cần Thơ, Đại học An Giang, Đại học Trà Vinh đã ủng
hộ, nhiệt tình tham gia vào quá trình nghiên cứu, trở thành nguồn động lực
thúc đẩy tôi hoàn thành luận án này.
Đặc biệt tôi xin dành lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới thầy hướng dẫn
khoa học của tôi là Phó Giáo sư Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn trong thời gian qua đã
tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình lựa chọn vấn đề nghiên cứu, tổ chức
nghiên cứu để tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2018
Nguyễn Thị Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHU CẦU VÀ NHU
CẦU HỌC TẬP ......................................................................................................... 8
1.1. Nghiên cứu về nhu cầu......................................................................................... 8
1.2. Nghiên cứu về nhu cầu học tập .......................................................................... 13
1.3. Nghiên cứu về nhu cầu học tập của người dân tộc thiểu số............................... 27
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGƯỜI
KHMER ................................................................................................................... 35
2.1. Nhu cầu .............................................................................................................. 35
2.2. Học tập ............................................................................................................... 44
2.3. Nhu cầu học tập.................................................................................................. 49
2.4. Sinh viên người Khmer ...................................................................................... 60
2.5. Nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer ..................................................... 62
2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập ....................................................... 75
Chương 3: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NHU CẦU HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN NGƯỜI KHMER ............................................................ 85
3.1. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................................ 85
3.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 89
3.3. Thang đánh giá nhu cầu học tập ........................................................................ 97
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN NHU CẦU HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ... 100
4.1. Thực trạng nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer vùng đồng bằng sông
Cửu Long ................................................................................................................ 100
4.2. Thực trạng tương quan các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập của sinh viên
người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long ...................................................... 120
4.3. Nghiên cứu trường hợp điển hình .................................................................... 130
4.4. Biện pháp tác động tâm lý nâng cao nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer
vùng đồng bằng sông Cửu Long ............................................................................. 134
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐÉN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
1. SV
: Sinh viên
2. ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
3. ĐHCT
: Đại học Cần Thơ
4. ĐHYDCT : Đại học Y dược Cần Thơ
5. ĐHAG
: Đại học An Giang
6. ĐHTV
: Đại học Trà Vinh
7. SL
: Số lượng
8. ĐTB
: Điểm trung bình
9. ĐLC
: Độ lệch chuẩn
10. GV
: Giáo viên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Khách thể khảo sát ........................................................................................... 87
Bảng 3.2. Các biện pháp tác động tâm lý nâng cao nhu cầu học tập cho sinh viên người
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long .......................................................................... 94
Bảng 3.3. Tiêu chí đánh giá nhu cầu học tập .................................................................. 97
Bảng 3.4. Thang điểm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập ................ 98
Bảng 3.5. Độ tin cậy của thang đo ................................................................................... 99
Bảng 4.1 Thực trạng chung nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer vùng đồng
bằng sông Cửu Long ............................................................................................... 100
.......................................................................................................................................
Bảng 4.2. Mức độ bức thiết nhu cầu về tri thức của SV người Khmer ....................... 102
Bảng 4.3. Mức độ bức thiết nhu cầu về kỹ năng học tập của SV người Khmer ......... 105
Bảng 4.4. Mức độ bức thiết nhu cầu về phẩm chất của SV người Khmer ................. 109
Bảng 4.5. Mức độ thực hiện hành vi thỏa mãn nhu cầu học tập của SV người Khmer . 112
Bảng 4.6. Tổng hợp nhu cầu học của SV người Khmer ............................................. 116
Bảng 4.7. Tương quan mức độ bức thiết, mức độ thực hiện hành vi thỏa mãn nhu cầu
học tập của SV người Khmer vùng ĐBSCL ................................................................ 117
Bảng 4.8. So sánh nhu cầu học tập của SV người Khmer vùng ĐBSCL theo các biến số
........................................................................................................................................... 118
Bảng 4.9. Nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer so với sinh viên người Kinh .....
........................................................................................................................................... 119
Bảng 4.10. Mối tương quan nhu cầu học tập của SV người Khmer với mục đích học tập
........................................................................................................................................... 120
Bảng 4.11. Mối tương quan nhu cầu học tập của SV người Khmer với hứng thú học tập
........................................................................................................................................... 121
Bảng 4.12. Mối tương quan nhu cầu học tập của SV người Khmer với niềm tin vào bản
thân trong học tập ............................................................................................................. 122
Bảng 4.13. Mối tương quan nhu cầu học tập của SV người Khmer với cảm xúc hài lòng
trong học tập ..................................................................................................................... 124
Bảng 4.14. Mối tương quan nhu cầu học tập của SV người Khmer với triển vọng ngành
học ..................................................................................................................................... 126
Bảng 4.15. Mối tương quan nhu cầu học tập của SV người Khmer với nhà trường . 127
Bảng 4.16. Mối tương quan nhu cầu học tập của SV người Khmer với gia đình ...... 129
Bảng 4.17. Tổng hợp và dự báo mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách
quan đến nhu cầu học tập của SV người Khmer ........................................................... 130
Bảng 4.18. ĐTB nhu cầu về tri thức trước và sau thực nghiệm ................................... 140
Bảng 4.19. ĐTB trước và sau tác động theo từng biện pháp ....................................... 141
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỀU ĐỒ
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ phân bố chuẩn nhu cầu học tập của SV người Khmer ................. 98
Biểu đồ 4.1. Tổng hợp nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer biểu hiện ở mức độ
bức thiết ............................................................................................................................. 111
Biểu đồ 4.2. Nhu cầu học tập của SV người Khmer ............................................. 116
Biểu đồ 4.3. ĐTB nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer trước và sau tác động
................................................................................................................................. 140
Biểu đồ 4.4. ĐTB nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer sau tác động các biện
pháp liên tục ........................................................................................................... 144
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhu cầu là một trong những thành tố tâm lý quan trọng thúc đẩy tính tích cực
trong hoạt động học tập của người học. Nhu cầu là “trạng thái của cá nhân, xuất phát từ
chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó
là nguồn gốc tính tích cực cá nhân” [23, tr190]. Các công trình nghiên cứu về nhu cầu
và nhu cầu học tập đã chỉ rõ nhu cầu là nguồn gốc, là động lực thúc đẩy tính tích cực
trong hoạt động của cá nhân [30], [97]. Trong quá trình hình thành năng lực nghề
nghiệp, nhu cầu học tập trở thành động lực thúc đẩy tính tích cực học tập của người học.
Nhu cầu học tập mang tính bức thiết cao thể hiện cụ thể ở việc người học nhận thức
được tình trạng thiếu thốn tri thức, kỹ năng và những phẩm chất; nhận thức rõ ý nghĩa
của tri thức, kỹ năng và phẩm chất đối với bản thân người học mong muốn thỏa mãn tri
thức, kỹ năng và phẩm chất thông qua hoạt động học tập. Nhu cầu học tập được thỏa
mãn chủ yếu thông qua hoạt động học tập. Tính bức thiết của nhu cầu học tập còn thể
hiện ở chỗ người học nhận thức rõ phương thức thỏa mãn nhu cầu về tri thức, nhu cầu
về kỹ năng và nhu cầu về phẩm chất trong hoạt động học tập. Mức độ bức thiết càng cao
càng thúc đẩy người học nỗ lực ý chí để giải quyết nhiệm vụ học tập. Hiệu quả học tập
được đánh giá thông qua việc những nhu cầu học tập của người học được thỏa mãn.
Nghèo đói là một trong những vấn đề thách thức cho sự phát triển bền vững
vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và của người dân tộc thiểu số tại vùng này
nói riêng trong đó có dân tộc Khmer. Đảng và nhà nước luôn quan tâm đầu tư phát triển
vùng đặc biệt khó khăn - vùng dân tộc thiểu số. Cụ thể là chính sách xóa đói giảm nghèo
thể hiện ở chương trình 135 và quyết định số 29/2013/QĐ-TTg [16]; Nghị quyết số
52/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2016 về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các
dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2030. Trong mục tiêu
phát triển trí lực có nội dung “phấn đấu đến năm 2020, số sinh viên người dân tộc
thiểu số (đại học, cao đẳng) đạt 130 đến 150 sinh viên/vạn dân (người dân tộc thiểu
số)”. Cũng tại Nghị quyết này có đề ra “tỷ lệ người dân tộc thiểu số trong độ tuổi
lao động được đào tạo các chương trình giáo dục nghề nghiệp đến năm 2020 đạt
2
trên 30%, nhóm dân tộc có chất lượng nguồn nhân lực thấp đạt tối thiểu 25%; phấn
đấu năm 2030 tỷ lệ tương ứng là 50% và trên 45%.. nâng vao kiến thức xã hội, kỹ
năng sống, kỹ năng lao động và thông tin thị trường” [76]. Theo số liệu điều tra của
Trung tâm nghiên cứu Miền Nam tại thời điểm năm 2012, với 1.362.778 người dân
tộc thuộc nhóm dân tộc thiểu số thì nhóm đông nhất là đồng bào Khmer chiếm
86,843% (1.183.476 người) [45]. Nghị quyết 57/2017/NQ-CP ngày 09 tháng 05 năm
2017 về chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học
sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người. Với khoảng 1,2 triệu người Khmer sinh
sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thì tỉ trọng người Khmer có
việc làm từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo còn thấp. Theo điều tra của tổng cục thống kê
(2015) số người Khmer biết đọc, biết viết tiếng phổ thông chiếm 73%. Trong số đó số
người lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo từ sơ cấp nghề đến trình độ đại học trở
lên chiếm tỉ lệ 3,5% [133]. Giải quyết bài toán nghèo đói, nhà nước luôn quan tâm đến
việc nâng cao trình độ học vấn cho đồng bào dân tộc Khmer nhằm đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội vùng ĐBSCL [135], [8], [11].
Giáo dục là một trong những giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng đào tạo
nhân lực vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và chất lượng lao động người
Khmer đã qua đào tạo nói riêng. Giáo dục còn là một trong những biện pháp hiện thực
hóa chủ trương chính sách của Đảng và nhà nhà nước đối với người dân tộc thiểu số
trong đó có sinh viên người Khmer. Trường đại học là một trong những dịch vụ xã hội
đáp ứng công bằng xã hội trong học tập giữa các dân tộc. Nhà trường cần phải biết rõ
nhu cầu học tập của người học để đáp ứng nhu cầu học tập cho họ. Hiện nay, có rất
nhiều sinh viên người Khmer đang học tại các trường đại học vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Chỉ tính riêng tại Trường Đại học Cần Thơ, theo số liệu thống kê năm 2017 có
khoảng 1753SV người Khmer theo học. Số liệu khảo sát ban đầu cho thấy kết quả học
tập của sinh viên người Khmer còn thấp. Trong số 341 SV được điều tra có khoảng
38/341 SV đạt kết quả học tập“xuất sắc” và “giỏi” chỉ chiếm 10,9%. Số SV còn lại
(304/341 SV) đạt kết quả học tập từ khá trở xuống. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này, một trong những nguyên nhân cơ bản là do sinh viên chưa tìm được lực
thúc đẩy từ bên trong - nhu cầu học tập. Rất khó để nâng cao hiệu quả học tập nếu người
3
học chưa biết rõ sự thiếu hụt tri thức của bản thân, chưa nắm vững phương thức thỏa
mãn nhu cầu học tập đồng thời các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan chưa đáp
ứng được nhu cầu học tập của SV người Khmer. Nhu cầu học tập chỉ có thể được thỏa
mãn thông qua hoạt động học tập tích cực. Việc thỏa mãn nhu cầu học tập của sinh viên
chịu sự tác động của các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan. Mặt khác, tiếng
Việt không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ của sinh viên người Khmer vì vậy những rào cản về
ngôn ngữ trong quá trình học tập của là một trong những trở lực lớn ảnh hưởng đến hiệu
quả học tập của sinh viên người Khmer tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nghiên cứu “Nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer vùng Đồng bằng
sông Cửu Long” để đề xuất những biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả học tập của
sinh viên người Khmer là vấn đề có tính cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer
vùng đồng bằng sông Cửu Long và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập này.
Đề xuất một số biện pháp tâm lý – giáo dục góp phần nâng cao nhu cầu học tập của
sinh viên người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
–
Tổng quan tình hình nghiên cứu về nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer;
–
Xây dựng cơ sở lý luận về nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer;
–
Làm rõ thực trạng nhu cầu học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học
tập của sinh viên người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long;
–
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng đề xuất một số biện pháp tác động
tâm lý –sư phạm góp phần nâng cao nhu cầu học tập của sinh viên người
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long.
–
Tổ chức thực nghiệm khoa học các biện pháp tác động tâm lý – sư phạm để
kiểm chứng tính khả thi của các biện pháp
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
4
Biểu hiện và mức độ nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer vùng đồng
bằng sông Cửu Long
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Giới hạn về phạm vi nội dung nghiên cứu
Hoạt động học tập gắn với nhiều khía cạnh khác nhau vì vậy nhu cầu học tập
cũng được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong luận án này, chúng tôi tập
trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
- Trong phần thực trạng nhu cầu học tập của SV người Khmer nghiên cứu của
luận án chỉ quan tâm đến một số biểu hiện của nhu cầu học tập thể hiện ở mức độ bức
thiết và mức độ thực hiện hành vi thỏa mãn nhu cầu học tập.
- Trong phần các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập của SV người Khmer
chúng tôi chỉ tập trung phân tích một số yếu tố: mục đích học tập, hứng thú học tập,
niềm tin vào bản thân trong học tập, cảm xúc hài lòng trong học tập, triển vọng
ngành học, nhà trường, gia đình.
- Đề xuất một số biện pháp tâm lý – giáo dục nâng cao nhu cầu học tập
3.2.2 Giới hạn về phạm vi địa bàn nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu khách thể là sinh viên người Khmer của 04
trường bao gồm: Đại học Cần Thơ, Đại học Y Dược Cần Thơ, Đại học An Giang,
Đại học Trà Vinh. Đây là các trường có sinh viên người Khmer theo học nhiều nhất
tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Nguyên tắc hoạt động: nhân cách của con người được hình thành trong hoạt
động. Trong từng giai đoạn lứa tuổi, cá nhân tham gia rất nhiều hoạt động khác nhau
trong đó hoạt động chủ đạo quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển trình độ
nhân cách. Hoạt động học tập mà đặc trưng là học nghề là hoạt động chủ đạo của lứa
tuổi sinh viên. Vì vậy, nghiên cứu nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer cần
xem xét trong hoạt động học tập mới có thể phán đoán, lý giải nhu cầu học tập của họ.
- Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan: nguyên tắc này đòi hỏi khi nghiên cứu
tâm lý phải xem xét những biểu hiện hành vi có thể quan sát được từ bên ngoài một cách
5
khách quan. Nguyên tắc này đảm bảo được tính trung thực khách quan và tránh được sai
lầm trong quá trình nghiên cứu. Để đảm bảo nguyên tắc khách quan trong việc nghiên
cứu nhu cầu học tập cần phải xây dựng, lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sao cho
phù hợp với đối tượng, địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.
- Nguyên tắc phát triển: bản chất của sự hình thành và phát triển tâm lý là quá
trình liên tục tạo ra những cấu tạo tâm lý mới vì vậy khi nghiên cứu nhu cầu học tập của
sinh viên người Khmer phải nghiên cứu trong sự vận động, biến đổi, tương tác qua lại
giữa các hiện tượng tâm lý với nhau. Đồng thời phải đánh giá một hiện tượng tâm lý cụ
thể trong một thời gian và không gian cụ thể.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu;
Phương pháp quan sát;
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi;
Phương pháp phỏng vấn sâu;
Phương pháp chuyên gia;
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình;
Phương pháp thực nghiệm tác động;
Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
5.1. Về mặt lý luận
Đóng góp mới của luận án là làm sáng tỏ khái niệm nhu cầu học tập của sinh
viên và những biểu hiện cụ thể của nó (tính bức thiết và hành vi thỏa mãn nhu cầu
học tập) có thể quan sát được.
5.2. Về mặt thực tiễn
Đóng góp mới trong nghiên cứu thực tiễn của luận án là đã phân tích và nêu ra
một số nhận xét về thực trạng nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer vùng đồng
bằng sông Cửu Long; đề xuất và thực nghiệm được 4 biện pháp gợi lên khả năng rèn
luyện nâng cao nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer có thể góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo sinh viên người Khmer và đóng góp vào sự phát triển môn Tâm lý
6
học sư phạm.
6. Ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Kế thừa những thành tựu của các tác giả đi trước, từ góc độ tâm lý học nghiên
cứu này đã bổ sung, kiểm chứng và hoàn thiện về mặt lý luận nhu cầu học tập, làm
sáng tỏ khái niệm nhu cầu học tập của sinh viên và biểu hiện cụ thể của nó ở các mặt
tính bức thiết và hành vi thỏa mãn nhu cầu học tập. Khẳng định lại các yếu tố mục
đích học tập, hứng thú học tập, niềm tin vào bản thân trong học tập, cảm xúc hài lòng,
triển vọng xã hội, nhà trường, gia đình có ảnh hưởng đến nhu cầu học tập nói chung và
nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer nói riêng. Nghiên cứu này góp phần làm
sáng tỏ lý luận về nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer. Kết quả nghiên cứu của
luận án góp phần bổ sung thêm lý luận về tâm lý học sư phạm và tâm lý học dân tộc.
6.2. Về mặt thực tiễn
Tuy sinh viên người Khmer có những đặc trưng riêng là người dân tộc thiểu số
nhưng nghiên cứu đã làm rõ thực trạng nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer
vùng đồng bằng sông Cửu Long có những biểu hiện chung nhất là những đòi hỏi bức
thiết (về tri thức, về kỹ năng học tập, về phẩm chất của người học) và biểu hiện cụ thể
thông qua hành vi thỏa mãn nhu cầu học tập. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã chỉ ra một
số biện pháp nâng cao nhu cầu học tập cho sinh viên người Khmer như: nâng cao nhận
thức về sự thiếu hụt tri thức và ý nghĩa của tri thức trong chương trình đào tạo đối với
nghề nghiệp tương lai; khơi dậy niềm tin vào bản thân trong học tập cho sinh viên
người Khmer; hướng dẫn sinh viên lập kế hoạch học tập và tạo bầu không khí tâm lý
tích cực trong lớp học.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer đạt
mức độ trung bình trong đó nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer chưa thực sự
bức thiết vì vậy mà mức độ thực hiện hành vi thỏa mãn nhu cầu học tập chưa cao.
Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập. Về mức độ bức thiết, sinh viên người
Khmer hướng đến những kiến thức chuyên ngành, kiến thức về giao tiếp, kiến thức
về ngoại ngữ, kiến thức công nghệ thông tin, kỹ năng phỏng vấn, xin việc, kỹ năng
7
thuyết trình, kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ, muốn thể hiện sự tự tin trong học tập,
mong muốn học phẩm chất thẩm mỹ trong học tập. Về mức độ thực hiện hành vi
thỏa mãn nhu cầu học tập, sinh viên người Khmer chấp hành tốt nội quy của trường,
ký túc xá, có chú ý học tập những phẩm chất từ bạn bè, tự giác giải quyết nhiệm vụ
học tập. Tuy nhiên, mức độ tích cực thực hiện những hành vi thỏa mãn nhu cầu học
tập liên quan đến nhu cầu về tri thức và nhu cầu về kỹ năng ở mức độ chưa cao như:
nhu cầu tham gia nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn, nhu cầu
nghiên cứu kỹ đề cương của từng học phần, nhu cầu phân tích, so sánh nhiều tài liệu
để rút ra hiểu biết cho bản thân ở mức thấp. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tiễn
có thể cung cấp cho các trường đại học vùng đồng bằng sông Cửu Long xây dựng
chuẩn đầu ra cho chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu học tập của sinh viên nói
chung và sinh viên người Khmer nói riêng đồng thời khối lượng tri thức, kỹ năng và
phẩm chất thể hiện trong chương trình cần được xây dựng phù hợp với xu hướng
phát triển của xã hội. Mặt khác, cần có những biện pháp cụ thể thúc đẩy mức độ thực
hiện hành vi thỏa mãn nhu cầu học tập cho sinh viên người Khmer. Kết quả nghiên
cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các giảng viên và sinh viên trong giảng dạy
và học tập ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – nơi có nhiều sinh viên người Khmer
đang theo học.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu học tập
Chương 2: Cơ sở lý luận về nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer
Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu nhu cầu học tập của sinh viên
người Khmer
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực tiễn nhu cầu học tập của sinh viên người
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHU CẦU
VÀ NHU CẦU HỌC TẬP
1.1 Nghiên cứu về nhu cầu
1.1.1. Nghiên cứu nhu cầu được xem xét gắn với bản năng
Các nhà tâm lý học phương Tây xem xét nhu cầu gắn với bản năng đồng thời
có sự phân biệt nhu cầu bản năng của con người và nhu cầu bản năng của động vật.
Đại diện cho xu hướng này có các tác giả như: W. Koller (1887 – 1967),
E.L.Thorndike (1874 – 1949), N.E Miller, Freud (1856 – 1939), Mc.Dougall (1871 1938), Clark Leonard Hull (1884 – 1952), Erich Fromm (1900 – 1980), Maslow
(1908 – 1966), H.Murray (1893 – 1988)…[71, tr41,199-120, 250-255], [30 , tr5-6],
[64, tr26], [7, tr481- 500], [32], [97], [5], [121,]
V. Koller, E. Thorndike và N.E Miller dựa vào hành vi của động vật để lý giải
nhu cầu và cho rằng nhu cầu quyết định hành vi. Khi xem xét hành vi của động vật
Thorndike cho rằng “sự thỏa mãn”, “không thỏa mãn” và “sự khó chịu” đều liên
quan đến hành vi. Trên cơ sở đó ông khẳng định nhu cầu cơ thể quyết định hành vi.
Freud và Mc. Dougall quan niệm bản năng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người
hoạt động. Mọi nhu cầu của con người, đặc biệt là nhu cầu tình dục được thỏa mãn
bằng nhiều cách (hiện thực, giấc mơ). Hull chỉ ra rằng nền tảng của động cơ hành vi
là nhu cầu của cơ thể xuất hiện do sự lệch lạc điều kiện sinh học tối ưu. Theo Erich
Fromm thì tất cả mọi người đều có 5 nhu cầu cơ bản: họ hàng (thiết lập mối quan hệ
tích cực và tiếp diễn với người khác), tính siêu nhiên (nhận thức về khả năng và tiềm
năng của bản thân dẫn tới năng suất sáng tạo của cá nhân), cội nguồn (nhu cầu về
mối quan hệ liên tục và có ý nghĩa với cả môi trường xung quanh lẫn quá khứ), ý
thức về bản sắc (khao khát muốn biết mình là ai và có vai trò gì trong xã hội) và hệ
quy chiếu (nhu cầu tạo nên trật tự của nhận thức từ một thế giới của sự hỗn loạn
khác). Maslow (1908 – 1966) đưa ra luận thuyết phân cấp nhu cầu, sắp xếp theo thứ
tự tăng dần từ thấp đến cao (nhu cầu sinh lý – nhu cầu an toàn – nhu cầu xã hội –
nhu cầu được tôn trọng – nhu cầu tự khẳng định). Maslow cho rằng trong quá trình
9
phát triển của cá nhân, các nhu cầu này có quan hệ với nhau theo kiểu dạng tháp.
Mặc dù ông đã chỉ ra nhu cầu của con người bao gồm nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội nhưng những lý giải của ông về thứ bậc nhu cầu và đặt nhu cầu của cá nhân
nằm ngoài mối liên hệ xã hội nên luận thuyết về nhu cầu của Maslow còn nhiều điểm
cần bàn luận. H. Murray (1938) khẳng định nhu cầu là một tổ chức cơ động, hướng
dẫn và thúc đẩy hành vi. Nhu cầu ở mỗi người khác nhau về các cấp độ tùy vào từng
giai đoạn phát triển của nhân cách. Ông đã đưa ra bảng phân loại nhu cầu của con
người gồm 20 nhu cầu (1.nhu cầu chiếm ưu thế, 2. gây hấn, 3. tìm kiếm các mối quan
hệ bạn bè, 4. bỏ rơi người khác, 5. tự trị, 6. phục tùng thụ động, 7. về sự tôn trọng,
ủng hộ, 8. thành đạt, 9. trở thành trung tâm của sự chú ý, 10. vui chơi, 11. ích kỷ,12.
tính xã hội, 13. cần tìm người bảo trợ, 14. giúp người; 15. tránh bị trách phạt; 16. tự
vệ; 17. vượt qua những thất bại; 18. an toàn; 19. ngăn nắp, trật tự; 20. phán đoán).
Trong đó Murray chia các nhu cầu thành hai loại là nhu cầu nguyên phát và nhu cầu
thứ phát. Nhu cầu phóng ra các kiểu hành vi nhất định mang lại sự thỏa mãn cần tìm.
Bất kỳ nhu cầu nào cũng gây ra trong cơ thể sự căng thẳng nhất định, mà việc giải
tỏa nó chỉ bằng cách thỏa mãn nhu cầu [129], [71], [114].
Nhìn chung, các tác giả nghiên cứu nhu cầu theo khuynh hướng xem nhu cầu
gắn với bản năng đã thừa nhận vai trò của nhu cầu, phân biệt nhu cầu của con người và
nhu cầu của con vật và đưa ra hệ thống nhu cầu cụ thể ở con người. Tuy nhiên, các tác
giả chỉ mới mô tả và lý giải nhu cầu của con người liên quan đến bản năng. Các tác giả
chưa chỉ ra nhu cầu bản năng của con người khác biệt về chất so với nhu cầu bản năng
của của động vật. Nhu cầu của con người bao giờ cũng chịu sự quy định của điều kiện
lịch sử xã hội. Con người sống trong hoàn cảnh xã hội khác nhau, trình độ nhận thức
khác nhau, vị thế xã hội khác nhau thì có những nhu cầu khác nhau.
1.1.2. Nghiên cứu nhu cầu được xem xét dưới góc độ nhu cầu là nguồn gốc là
động lực của tính tích cực cá nhân
Đại diện cho xu hướng giải thích nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực trong
hoạt động của cá nhân có các tác giả như: D. N. Uznatze, A.G. Kovaliov, X.L.
Rubinstein, A.N. Leonchive (1903 – 1979), A.N. Dernhitrenko, N.V. Gontrancov,
P.V. Ximonov, P. A. Ruđich, B.Ph.Lomov (1927 – 1989), V.G.Axeev, Phạm Minh
10
Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy, Phạm Tất Dong, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc
Thành, Nguyễn Xuân Thức và một số tác giả khác.
D. N. Uznatze cho rằng nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng và nhu cầu là yếu
tố quyết định tính tích cực của con người [87, tr143]. A.G.Kovaliov thì cho rằng nhu
cầu là sự đòi hỏi tất yếu của cá nhân và các nhóm xã hội do họ nhận thấy cần được
thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Theo ông, một nhu cầu khách quan nào đó trước
khi trở thành động lực thúc đẩy tính tích cực của con người đã được con người ý
thức [32, tr187 – 188], [9, tr110], [4, tr223-224]. X.L.Rubinstein chỉ ra các mức độ
của nhu cầu (ý hướng tính tích cực thấp; ý muốn tính tích cực cao hơn; ý định tính
tích cực cao nhất) [32, 183 – 184]. A.N. Leonchive chỉ ra hai cấp độ của nhu cầu. Ở
cấp độ thứ nhất nhu cầu là trạng thái tâm lý bên trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt
động. Nó thể hiện trạng thái thiếu thốn của cơ thể. Nhưng do chưa có đối tượng thỏa
mãn, nên cấp độ này nhu cầu chỉ có khả năng phát động sức mạnh của các chức năng
tâm lý và tạo ra sự kích thích chung. Kết quả dẫn đến sự tìm tòi vô định hướng. Ở
cấp độ thứ hai nhu cầu “gặp” đối tượng. Ở cấp độ này nhu cầu có khả năng kích
thích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng, hướng đến đối
tượng thỏa mãn nhu cầu. Từ luận điểm trên cho thấy, nhu cầu theo đúng nghĩa phải
gắn liền với đối tượng của hoạt động. Nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu
về một cái gì đó. Cái gì đó có nguồn gốc từ thực tiễn khách quan vì vậy nhu cầu của
cá nhân chỉ có thể gặp đối tượng khi tham gia hoạt động. Ông mô tả nguồn gốc của
nhu cầu cũng như mối quan hệ của nó với hoạt động bằng sơ đồ: hoạt động – nhu cầu
– hoạt động. Luận điểm này phù hợp với quan niệm của Mác về nhu cầu – nhu cầu
của con người được sản xuất trong hoạt động [32, tr184-187], [9, tr111], [64 tr31].
A.N.Dernhitrenko và N.V.Gontrancov xem nhu cầu là cốt lõi của nhân cách và khả
năng thỏa mãn nó phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩn bị của chủ thể. Chủ thể cần trang
bị thông tin có liên quan đến khả năng thỏa mãn nhu cầu, kết hợp với trạng thái tâm
lý của chủ thể để tạo thành tâm thế làm tăng năng lượng của nhu cầu [30, tr10].
P.V.Ximonov thì cho rằng đặc điểm của nhân cách phụ thuộc vào việc được trang bị
thông tin, công cụ và cách thức thỏa mãn nhu cầu. Nếu như trong trường hợp nhu
cầu cấp bách xuất hiện mà thiếu hụt thông tin về khả năng thỏa mãn nó sẽ nảy sinh
11
những rung cảm âm tính, phát triển năng lượng nhu cầu tuy nhiên kết quả hành vi lại
không thuận lợi. Ngược lại, những rung cảm dương tính làm giảm tập hợp hành động
nhằm thỏa mãn nhu cầu. A.A Xmirnov cho rằng nhu cầu của con người được thể
hiện dưới dạng các ước ao và ý hướng của chủ thể. Các ước ao, ý hướng đó mang ý
nghĩa báo hiệu sự xuất hiện của nhu cầu hay sự thỏa mãn của nhu cầu, nhờ vào nó
mà chủ thể điều chỉnh hoạt động của bản thân làm cho hoạt động ấy xuất hiện, tăng
cường hay làm yếu nó đi [9, tr111]. P. A. Ruđich quan niệm “nhu cầu là trạng thái
tâm lý làm rung động người ta thấy một sự cần thiết nhất định nào đó về một điều gì
đó” [80, tr331]. B.Ph.Lomov xem xét nhu cầu như là một thuộc tính căn bản của
nhân cách “nhu cầu cá nhân là đòi hỏi nào đó của nó về những điều kiện và phương
tiện nhất định cho việc tồn tại và phát triển. Nhu cầu đó nhất thiết bắt nguồn từ
những quá trình xảy ra có tính khách quan trong đó cá nhân tham dự vào suốt cả đời
sống của mình” [9, tr112]. V.G.Axeev đưa ra quan điểm xúc cảm giá trị là lực thúc
đẩy hành động tích cực [32, 216 - 234].
Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy, Phạm Tất Dong, Nguyễn
Quang Uẩn, Trần Quốc Thành, Nguyễn Xuân Thức và các tác giả khác tuy có cách
trình bày về nhu cầu khác nhau nhưng đều thống nhất vấn về nhu cầu ở một số
khía cạnh như: khái niệm nhu cầu, phân loại nhu cầu, vai trò của nhu cầu... Các tác
giả chủ yếu dựa trên quan điểm của tâm lý học hoạt động khi xem xét nhu cầu với tư
cách là thành tố trong xu hướng của nhân cách, là nguồn gốc của tính tích cực hoạt
động của con người “nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó. Dần dần nó
được cá nhân nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về ý nghĩa của nó đối với sự tồn tại
và phát triển của mình. Lúc đó nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy cá nhân hoạt
động nhằm mục đích thỏa mãn chính nhu cầu này. Nhờ vậy trong sự gắn bó với thế
giới xung quanh, con người không phụ thuộc vào thế giới đó một cách thụ động, mà
trái lại trong mối quan hệ này con người xuất hiện như một chủ thể hành động tích
cực và sáng tạo” [22], [34, tr266], [102].
Ngoài ra các bài báo viết về nhu cầu được đăng trên các bài báo, tạp chí khoa
học. Nguyễn Sĩ Mạnh (2005) nghiên cứu nhu cầu trong nhân cách của người quân
nhân [69, tr57-58]. Ngô Công Hoàn (2005) nghiên cứu nhu cầu đối với sự hình thành
12
hành vi đạo đức ở trẻ em lứa tuổi mầm non [44, tr5-11]. Hoàng Trần Doãn (2006)
nghiên cứu các cấp độ nhu cầu điện ảnh [20, tr59-63]. Lưu Song Hà (2007) quan tâm
nhu cầu của học sinh trung học cơ sở về quan hệ của cha mẹ đối với các em [29,
tr14-16]. Nguyễn Thị Liên (2007) đề cập đến nhu cầu được tư vấn sức khỏe sinh sản
của sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội [59, tr53-57]. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2008)
chú ý đến nhu cầu bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý của cán bộ xã [68, tr37-41]. Trần
Hữu Luyến (2008) quan tâm đến nhu cầu học ngoại ngữ ở trường trung học phổ
thông những năm đổi mới tại một số tỉnh thành đồng bằng Bắc Bộ [65, tr11-17].
Nguyễn Phương Huyền (2008) tìm hiểu nhu cầu thẩm mỹ của sinh viên sư phạm trên
cơ sở đó đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho họ [48,
tr23-26]. Bùi Thị Vân Anh (2009) quan tâm đến nhu cầu giao tiếp của người nghỉ
hưu ở Hà Nội [2, 27-30]. Nguyễn Xuân Thức và Lê Thị Thúy Bích (2009) quan tâm
đến nhu cầu vui chơi của học sinh tiểu học [103, tr13-16]. Nguyễn Văn Tuân (2009)
nghiên cứu nhu cầu văn hóa tinh thần của bộ đội Ra đa ở các sư đoàn phòng không
[105, tr20-28]. Nguyễn Thị Lan và Bùi Thị Vân Anh (2010) chú ý nhu cầu văn hóa
tinh thần của nông dân nghèo miền núi Tây Bắc [56, tr19].
Tóm lại, các bài viết về nhu cầu xoay quanh tìm hiểu biểu hiện của nhu cầu và
phương thức thỏa mãn nhu cầu. Các tác giả quan tâm nhiều đến các nhu cầu tinh thần
là chủ yếu. Nhu cầu là nguồn gốc, là động lực của tính tích cực trong hoạt động của cá
nhân. Nhu cầu là sự đòi hỏi về một điều gì đó mà cá nhân thấy cần được thỏa mãn để
tồn tại và phát triển. Nhu cầu được hình thành trong hoạt động và biểu hiện cụ thể ở sự
nhận thức rõ ràng về đối tượng cần được thỏa mãn và biểu hiện ở mức độ thực hiện
hành vi tích cực trong hoạt động. Nhu cầu tuy là nguyên nhân nảy sinh hành vi nhưng
nhu cầu chỉ có thể được thỏa mãn trong hoạt động và ngay khi cá nhân tham gia hoạt
động thì nhu cầu được động cơ hóa chính vì vậy mà sau khi nhu cầu xác định rõ đối
tượng thì hàng loạt các nhu cầu khác nhau được nảy sinh. Lúc bấy giờ hoạt động không
chỉ là phương thức thỏa mãn nhu cầu mà còn là điều kiện nảy sinh nhu cầu: hoạt động –
nhu cầu – hoạt động. Những nghiên cứu này là cơ sở định hướng cho việc nghiên cứu
nhu cầu học tập của sinh viên người Khmer vùng ĐBSCL
13
Nhìn chung, các nghiên cứu về nhu cầu theo hướng xem nhu cầu gắn với bản
năng và phân biệt nhu cầu của con người với nhu cầu của con vật đã có những đóng
góp tích cực trong việc phát hiện nhu cầu của con người. Tuy những lý giải về nhu cầu
theo hướng này có nhiều vấn đề cần bàn luận nhưng nghiên cứu nhu cầu của Maslow
và Murray có sự đóng góp đáng kể làm cho nhu cầu của con người, nhu cầu được nhìn
nhận phong phú đa dạng. Các nghiên cứu có sự phân biệt nhu cầu vật chất với nhu cầu
tinh thần tuy nhiên xem xét mức độ của nhu cầu theo thứ bậc từ thấp đến cao theo cách
lý giải của Maslow là chưa hợp lý bởi lẽ mỗi giai đoạn phát triển của cá nhân thì các
nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần phát triển đan xen vào nhau. Tùy vào phương
thức thỏa mãn và giai đoạn phát triển tâm lý lứa tuổi mà mức độ của các nhu cầu ở
mỗi cá nhân là khác nhau. Mặc dù nhu cầu ban đầu của con người gắn với bản năng, là
nguyên nhân nảy sinh hành vi thể hiện ở những nhu cầu sinh học nhưng nhu cầu của
con người khác về chất so với nhu cầu của con vật. Nhu cầu chính là nguồn gốc, là
động lực của tính tích cực trong hoạt động của cá nhân. Hoạt động không chỉ là
phương thức thỏa mãn nhu cầu mà còn là điều kiện nảy sinh nhu cầu. Nhu cầu của con
người bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó, cái gì đó chính là đối tượng của nhu
cầu; nhu cầu của con người khác về chất so với nhu cầu của con vật; nhu cầu ở mức độ
cao biểu hiện ở ý thức rõ về sự thiếu hụt của đối tượng cần thỏa mãn nhờ đó mà thúc
đẩy hành vi thỏa mãn nhu cầu trong hoạt động nói chung và hoạt động học tập nói
riêng. Tóm lại, những nghiên cứu trên đây về nhu cầu có những đóng góp quan trọng
làm cơ sở cho việc nghiên cứu nhu cầu nói chung và nhu cầu học tập của sinh viên
người Khmer nói riêng. Luận án này nghiên cứu nhu cầu học tập dựa theo hướng tiếp
cận xem nhu cầu là nguồn gốc, là động lực của tính tích cực trong hoạt động của cá
nhân và nhu cầu được thỏa mãn trong hoạt động.
1.2. Nghiên cứu về nhu cầu học tập
Học tập là một quá trình lĩnh hội kinh nghiệm cá thể nhằm chiếm lĩnh kinh
nghiệm của lịch sử - xã hội nhất định vào trong kinh nghiệm cá nhân. Học tập chỉ có
thể đạt kết quả cao khi người học có nhu cầu học tập. Nhu cầu học tập là nhu cầu
tinh thần đặc trưng cho con người. Nhu cầu học tập rất đa dạng và phong phú thể
hiện ở nhiều mức độ khác nhau tùy theo giai đoạn lứa tuổi, nghề nghiệp, tính chất
14
của hoạt động khác nhau. Nhu cầu học tập có thể xuất phát từ bản thân người học do
nhận thức rõ sự thiếu hụt về tri thức của bản thân, họ khao khát học tập để phát triển
bản thân. Nhu cầu học tập cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố tác động khác
nhau trong đó có thể tổng quan nhu cầu học tập theo hai nhóm: nhu cầu học tập xuất
phát từ bản thân người học và nhu cầu học tập bị chi phối bởi các yếu tố khách quan.
1.2.1. Nghiên cứu nhu cầu học tập xuất phát từ bản thân người học
- Hướng nghiên cứu nội dung của nhu cầu học tập có các tác giả như
Nicolaikuzan, Fourier, L.I.Bozovich, B.B.Davudov, V.A.Krutetxki, Petrovxki,
Diahann Gallard, Katherme. M. Cartmell, Nguyễn Văn Lũy, Hoàng Thị Thu Hà,
Trần Thị Minh Ngọc và một số tác giả khác [64], [30], [73], [115].
Nicolaikuzan đề cao vai trò của việc học và khích lệ nhu cầu học tập của người
học. Theo ông, việc khám phá chinh phục thiên nhiên cũng giống như con đường khám
phá bản chất, quy luật của hiện thực khách quan bắt đầu từ lòng ham hiểu biết, từ nhu
cầu học tập của con người. Fourier quan tâm đến nhu cầu của người học và tùy vào nghề
nghiệp khác nhau mà hướng đến nhu cầu học tập của người học khác nhau“giáo dục
cần phải chú ý đến nhu cầu hiểu biết, xuất phát từ hoạt động công nghiệp cho nên bài
học ở trường phải liên hệ trực tiếp liên hệ với những công việc trong xưởng thợ”.
L.I.Bozovich cho rằng nhu cầu học tập hình thành sớm ở trẻ. Nhu cầu này thể hiện ở
mong muốn phản ánh hiện thực khách quan, hấp dẫn bởi những điều mới lạ. Nhu cầu
ấy phát triển từ thấp đến cao. Ở mức độ cao nhu cầu trở thành động lực trực tiếp thúc
đẩy trẻ chiếm lĩnh tri thức. Mức độ nhu cầu càng ổn định thì trẻ càng tích cực khám
phá tri thức. B.B.Davudov phát hiện ra nhu cầu xuất hiện và hình thành từ sớm khi
trẻ tham gia trò chơi đóng vai. Nhu cầu học tập được hình thành và phát triển trong
hoạt động học, khi trẻ lĩnh hội hệ thống kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên
nhằm thực hiện nhiệm vụ học tập. V.A.Krutetxki và A.V.Petrovxki xem xét nhu cầu
học tập như là một trong những nhu cầu cơ bản (nhu cầu nhận thức thế giới xung quanh,
nhu cầu giao tiếp, nhu cầu trao đổi ý nghĩ). Nhu cầu này phát triển từ sớm khi trẻ bắt đầu
nhận thức thế giới trong quá trình trẻ gặp mâu thuẫn khi khả năng thỏa mãn nhu cầu
thấp so với mức độ nhu cầu học tập cao. I.V.Dubrovina nghiên cứu về học sinh kém và
đã phát hiện ra rằng nhu cầu học tập và kết quả học tập có mối tương quan với nhau
15
“việc chưa hình thành một hệ thống động cơ tích cực, bền vững đối với hoạt động học
có thể trở thành nguyên nhân chủ yếu của tình trạng học kém” [dẫn theo 30, 13].
Trong công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Văn Lũy (2001) đã chỉ ra rằng
nguyên nhân học sinh học kém do chưa nhận thức rõ đối tượng và phương thức thỏa mãn
nhu cầu, đồng thời nhu cầu nhận thức của học sinh học kém chưa ổn định do đó, nhu cầu
ấy chưa trở thành động lực thúc đẩy học sinh tích cực học tập vì vậy mà dẫn đến kết quả
học tập kém. Tác giả đã đề xuất một số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức
độ phát triển nhu cầu nhận thức của học sinh học kém bậc tiểu học, tăng cường và phát
huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh. Muốn nâng cao nhu cầu nhận
thức ở học sinh đòi hỏi người giáo viên phải cố gắng, kiên trì, tin yêu và có trách nhiệm
cao đối với học sinh [64]. Hoàng Thị Thu Hà nghiên cứu mức độ nhu cầu học tập của
sinh viên sư phạm. Trong công trình nghiên cứu của mình Hoàng Thị Thu Hà (2003) đã
làm rõ thực trạng mức độ của nhu cầu nghề nghiệp của SV ngành sư phạm. Kết quả
nghiên cứu cho thấy mức độ nhu cầu học tập của SV sư phạm không đều ở ý hướng học
tập, ý muốn học tập và ý định học tập. Đa số SV có ý hướng học nghề sư phạm và mức
độ ý định học nghề sư phạm thấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt
nhu cầu học tập giữa SV khác nhau về giới tính nhưng có sự khác biệt nhu cầu học tập
ở SV các khối, ngành, khu vực và học lực. Sự khác biệt nhu cầu học tập của SV các
ngành tự nhiên, xã hội, ngoại ngữ phản ánh một thực tế nhu cầu nghề dạy học bị chi
phối bởi tính chuyên môn và của nhu cầu xã hội về chuyên môn đó. Tác giả cũng đã chỉ
ra nguyên nhân của mức độ nhu cầu học tập không đều chủ yếu do SV chưa ý thức rõ
đối tượng và phương thức thỏa mãn nhu cầu về nghề dạy học. Mặc khác, nội dung
chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện học tập chưa kích thích sự
phát triển nhu cầu học tập ở SV [30]. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Trần Thị
Minh Ngọc (2009) nghiên cứu về “Nhu cầu thái độ học tập các môn lý luận chính trị”
[73]. Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy SV chưa hứng thú học tập các môn lý luận
chính trị dẫn đến kết quả học tập chưa cao.
Bernie Trilling và Charles Fadel trong cuốn sách “Kỹ năng thế kỷ XXI: Học
tập vì cuộc sống trong thời đại của chúng ta” đã chỉ rõ người học cần học cách đổi
mới, học cách sống, học cách tư duy phê phán và giải quyết vấn đề, học kỹ năng công
16
nghệ mới, học khả năng sáng tạo [115]. Ngoài ra còn có tài liệu của Diahann Gallard,
Katherme. M. Cartmell (2015) quan tâm đến động lực thúc đẩy nhu cầu học tập. Các
tác giả chỉ ra động lực chính là chìa khóa của học tập [122, 59-72]
Tùy theo đối tượng học tập khác nhau mà các tác giả xem xét nội dung của nhu
cầu học tập ở góc độ khác nhau nhưng tựu trung lại nội dung của nhu cầu học tập luôn
gắn với nội dung của hoạt động học tập. Hoạt động nào sẽ có nội dung đó và nhu cầu
gắn với hoạt động nào thì nội dung của nhu cầu sẽ gắn với nội dung của hoạt động đó.
Trên cơ sở nội dung của nhu cầu học tập luôn gắn với hoạt động học tập có thể định
hướng cho việc nghiên cứu về nhu cầu học tập của SV người Khmer vùng ĐBSCL gắn
với nội dung hoạt động học tập.
- Hướng nghiên cứu phương thức thỏa mãn nhu cầu học tập thể hiện ở tính tích
cực trong hoạt động học tập có các tác giả như Skinner, Piaget, John Dewey, Albert
Bandura, trường phái Ghestalt,Vygotsky, A.N.Leonchiev, C.J. Simister, Myron H.
Dembo, nhóm tác giả Mary James, Paul Black, Patrick Carmichael, Colin Conner,
Peter Dudley, Alison Fox, David Frost, Leslie Honour, John MacBeath, Robert
McCormick, Bethan Marshall, David Pedder, Richard Procter, Sue Swaffield and
Dylan Wiliam và nhiều tác giả khác... [30, 12 -14], [72], [125].
Nhu cầu học tập được biểu hiện cụ thể qua hành vi trong học tập. Phát triển
quan điểm của thuyết hành vi cổ điển, Skinner quan tâm mối quan hệ giữa hành vi và
hệ quả của chúng nên đã bổ sung công thức S – R bằng công thức S – R – C. Những
hệ quả của hành vi được sử dụng để điều chỉnh hành vi học tập của người học. Học tập
theo quan điểm hành vi tạo tác đòi hỏi người học tự tạo ra hành động học nhằm thỏa
mãn nhu cầu của mình. Học tập nhằm đáp ứng nhu cầu của người học. Đặc trưng thể
hiện tính chủ động của việc học và học vì lợi ích của chính mình [72, tr42-44]. Quan
điểm nhận thức (J.Piaget) chỉ ra rằng người học có nhận thức được nhu cầu học tập
của bản thân sẽ tự giác chủ động giải quyết nhiệm vụ học tập. Người học có nhu cầu
học tập luôn nhận thức rõ việc học của mình vì vậy mà bộ não luôn diễn ra quá trình
xử lý thông tin, khám phá ra tri thức mới nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập. Quá trình
nhận thức là quá trình có cấu trúc ảnh hưởng quyết định đến hành vi. Con người tiếp
thu thông tin bên ngoài, xử lý và đánh giá chúng, từ đó quyết định các hành vi ứng xử.
17
Trung tâm của quá trình nhận thức là các hoạt động trí tuệ như: nhận biết, phân tích và
hệ thống hóa các dữ kiện và các hiện tượng, nhớ lại những kiến thức đã học, giải quyết
các vấn đề và phát triển hình thành các ý tưởng mới [72, tr29-32]. John Dewey (1859
– 1952) với lý thuyết học tập thực dụng đã làm rõ ý nghĩa của học tập kiến tạo. Việc
học sẽ trở nên sai lầm nếu chỉ giới hạn vào việc học trừu tượng mà không chú ý đến
hứng thú và động cơ học tập [54]. Trên cơ sở lý thuyết nhận thức của Piaget, Bruner
cho rằng người học phải là người tự lực, tích cực hành động tìm tòi khám phá đối
tượng học tập để hình thành cho mình các nguyên tắc, các ý tưởng cơ bản từ các tình
huống học tập cụ thể. Bruner đề cập đến thái độ của người học trong lúc khám phá tri
thức. Người học cần có thái độ khám phá tri thức giống như các nhà khoa học khám
phá ra tri thức mới. Trong học tập khám phá, người học trải qua ba giai đoạn: đầu tiên
người học phải thao tác và hành động trên các tài liệu đã có (hành động phân tích), sau
đó hành động trên các hình ảnh về chúng (hành động mô hình hóa) và cuối cùng rút ra
được các khái niệm, các quy tắc từ những mô hình đó (ký hiệu hóa). Vì thế trong học
tập khám phá người dạy cần cung cấp nhiều tình huống để người học có thể đặt câu
hỏi khám phá và thực nghiệm cho đến khi tìm ra được các nguyên tắc, các ý tưởng,
mối liên hệ cơ bản trong cấu trúc môn học. Cần tổ chức cho người học tiến hành các
hành động học tập tương ứng với các hình thức biểu hiện của cấu trúc (hành động
phân tích, hành động mô hình hóa, hành động ký hiệu hóa), theo phương pháp chung
là suy luận quy nạp, nghĩa là từ các hành động trên các vật liệu cụ thể để rút ra các
nguyên tắc chung [72, tr63]. Đây là mô hình học tập được áp dụng rộng rãi trong tổ
chức hoạt động học cho người học vì khi người học xác định rõ động cơ học tập và
được khám phá phù hợp với trình độ nhận thức thì quá trình khá phá tri thức sẽ mang
lại kết quả rất cao.
Albert Bandura thì xuất phát từ luận điểm cho rằng không phải lúc nào hành
vi cũng được hình thành trực tiếp từ bên ngoài mà có thể hình thành từ quá trình
quan sát, bắt chước hành vi mẫu. Mô hình học tập nhận thức xã hội có hai điểm chú
ý: thứ nhất, hành vi của cá nhân không bị thúc đẩy bởi lực bên trong hay những kích
thích bên ngoài mà chịu sự tương tác bởi hành vi, các đặc điểm nhận thức, nhân
cách; thứ hai, học tập diễn ra hai quá trình là tiếp thu kiến thức (học tập qua hành