Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Vị thế của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở tây nguyên (nghiên cứu trường hợp dân tộc ê đê và gia rai) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.41 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HOÀNG VIỆT LÂM

VỊ THẾ CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN
TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN

(Nghiên cứu trường hợp dân tộc Ê đê và Gia rai)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số

: 9 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2018


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học : GS.TS. Bùi Thế Cường

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học


viện, tại: Học Viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân,
Hà Nội, vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 2018

Có thể tìm hiểu luận văn tại
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các xã hội, đặc biệt là xã hội tiền công nghiệp, người có
uy tín có vị thế, vai trò rất quan trọng đối với sự vận hành và phát triển
của cộng đồng. Điều đó càng thấy rõ ở các dân tộc thiểu số tại chỗ của
Tây Nguyên - nơi được coi là một khu vực lịch sử - dân tộc học "phi
Hoa, phi Ấn", tức không bị ảnh hưởng của hai nền văn minh lớn là
Trung Quốc và Ấn Độ, ít chịu sự kiểm soát của các vương triều phong
kiến trong khu vực; và đến trước năm 1975, nhiều nơi còn lưu giữ đậm
nét cấu trúc xã hội tiền công nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay, dù chịu
sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau như di dân, kinh tế thị
trường, du nhập của tôn giáo..., song người có uy tín trong cộng đồng
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên vẫn có vị thế, vai trò rất to lớn, luôn
được xem là linh hồn trong đời sống tinh thần của cộng đồng.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm
đặc biệt đến chính sách đối với người có uy tín. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt đã đạt được thì việc nhận diện và phát huy vị thế của
người có uy tín vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, đặc biệt, hoạt động
lôi kéo người có uy tín để tiến hành các hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch tại khu vực này diễn biến phức tạp. Vì vậy, thực tế
đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức bách cần phải giải quyết trong

việc nghiên cứu vị thế của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn và nghiên cứu đề tài Vị thế
của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên (Nghiên cứu trường hợp dân tộc Ê đê và Gia Rai) để làm
Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Xã hội học.


2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Mục đích của đề tài là nhận diện những nhóm người có uy tín;
làm rõ vị thế và sự biến đổi vị thế của người có uy tín trong cộng
đồng dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Nguyên (qua hai trường hợp
DTTS Ê đê và Gia rai), từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm phát huy
vị thế của người có uy tín nhằm tăng cường đoàn kết xã hội, giữ gìn
bản sắc văn hóa và đảm bảo an ninh, trật tự (AN, TT) ở Tây Nguyên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Thứ nhất, phân tích, làm rõ một số khái niệm; những luận cứ
lý thuyết và các chính sách đối với người có uy tín trong DTTS.
Thứ hai, đề tài luận giải hiện trạng vị thế, những yếu tố tác
động đến sự biến đổi của người có uy tín trong DTTS ở Tây Nguyên.
Thứ ba, đưa ra các định hướng, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao vị thế của người có uy tín trong DTTS ở Tây Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vị thế của người có uy tín
trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Phạm vi về không gian: Trên địa bàn Tây Nguyên, tập trung

ở hai tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai.
- Phạm vi về thời gian: Luận án được nghiên cứu trong khoảng
thời gian từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 12 năm 2017; thời điểm
khảo sát thực tiễn: Từ tháng 5 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017.
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu vị thế của
người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên, điển cứu ở
hai dân tộc Ê đê và Gia rai.


3
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.2. Cách tiếp cận nghiên cứu luận án
Tiếp cận toàn diện dưới góc độ vùng; Tiếp cận lý thuyết về vị
thế - vai trò, cấu trúc chức năng, về tiếp biến văn hóa, biến đổi xã
hội; Tiếp cận lý thuyết về nhóm, thể chế, cộng đồng và quản lý cộng
đồng; Tiếp cận lịch sử và tiếp cận theo hướng Nhân học văn hóa...
4.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài đã áp dụng 2 phương pháp nghiên cứu chính là Phân
tích tài liệu đã có và điền dã, bao gồm quan sát tham dự và PVS.
4.3.1. Phân tích tài liệu đã có
Phương pháp này được sử dụng để thu thập tài liệu, thông tin
thứ cấp về các vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4.3.2. Phương pháp điền dã
Đây là phương pháp được chú trọng trong quá trình thực hiện
đề tài với các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể như: Quan
sát tham dự, phỏng vấn sâu cá nhân.
Đề tài sử dụng phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể:

Quan sát tham dự, phỏng vấn sâu cá nhân.
4.4. Phương pháp chọn mẫu và địa bàn điền dã
4.4.1. Tiêu chí lựa chọn tộc người và địa bàn khảo sát
Việc xác định tộc người được chọn theo các tiêu chí dân số tộc người và tiêu chí tôn giáo.
4.4.2. Mô tả mẫu và địa bàn nghiên cứu


4
- Về địa bàn nghiên cứu: Tác giả lựa chọn 02 tỉnh để điền dã
và PVS là Đắk Lắk, Gia Lai với hai DTTS Ê đê và Gia rai. Bên cạnh
đó, tác giả còn chọn huyện Di Linh (tỉnh Lâm Đồng). Sau bốn cuộc
điền dã, tác giả đã qua 3 tỉnh, 2 thành phố (thuộc tỉnh), 5 huyện, 8 xã
và 15 buôn/làng.
- Thống kê người tham gia PVS: Một số đặc điểm nhân khẩu
Tác giả đã gặp gỡ, PVS 87 người, trong đó đồng bào Gia rai
chiếm 48,3%, Ê đê chiếm 36,8% và người Kinh chiếm 14,9%.
Về chức vụ/nghề nghiệp, trong số 87 người tham gia PVS có
21 người (chiếm 24,1%) là cán bộ thôn/buôn/làng. Cán bộ cấp tỉnh
chiếm 11,5% dung lượng mẫu, cán bộ xã/huyện chiếm 26,4%, người
dân chiếm 28,7% và Chức sắc, chức việc tôn giáo chiếm 9,2%.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đưa ra một khái niệm mang tính tổng quát về
vị thế của người có uy tín và các tiêu chí xác định người có uy tín.
Thứ hai, làm rõ hiện trạng vị thế của người có uy tín; những
bất cập về chính sách đối với người có uy tín. Đặc biệt luận án đưa ra
cách tiếp cận mới về người có uy tín.
Thứ ba, luận án đưa ra định hướng chính sách và những kiến
nghị, đặc biệt là kiến nghị liên quan đến sửa đổi chính sách nhằm
phát huy vai trò, vị thế của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở
Tây Nguyên.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Một là, luận án trang bị, cung cấp các tiêu chí xác định, sự biến
đổi về thành phần, cơ cấu của NCUT... trong bối cảnh hiện nay.
Hai là, cung cấp một cách nhìn tổng quan về hiện trạng người
có uy tín trong cộng đồng DTTS Ê đê và Gia rai.


5
Ba là, luận án đã chỉ ra những bất cập, hạn chế, sự chồng
chéo... trong các chính sách liên quan đến người có uy tín.
Bốn là, luận án đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm phát
huy vị thế của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục các
công trình khoa học đã công bố, luận án được kết cấu thành bốn
chương, 17 mục và 40 tiểu mục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu lý luận về vị thế, vai trò xã hội
Từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vị thế,
vai trò xã hội của cá nhân trong cấu trúc xã hội, cụ thể như: Enduring
Issues in Sociology (Những vấn đề cơ bản của Xã hội học) của Ralph
Linton; Nhập môn Xã hội học của tác giả người Đức Herman Korte;
Social Structure (Cấu trúc xã hội) của Lopez J. và Scott John; Lịch
sử và lý thuyết Xã hội học của tác giả Lê Ngọc Hùng hay cuốn Từ
điển Xã hội học Oxford (được dịch giả Bùi Thế Cường làm Trưởng
nhóm biên dịch từ cuốn Oxford Dictionary of Sociology)... Các công
trình nêu trên, tuy có nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về
vị thế, vai trò xã hội của cá nhân, nhưng đều đồng nhất tầm quan
trọng của việc nghiên cứu vấn đề này trong xã hội.

1.2. Những công trình nghiên cứu về dân tộc thiểu số Ê đê
và Gia rai
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về dân tộc thiểu số Ê đê
Các công trình nghiên cứu về dân tộc Ê đê luôn dành được sự
quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu, trong đó tác phẩm viết về


6
người Ê đê sớm nhất là công trình khảo cứu của nhà thám hiểm
người Pháp Henri Maitre Các xứ thượng ở miền Nam Đông Dương:
Cao nguyên Đắc Lắc. Tiếp sau đó, các công trình nghiên cứu Các
dân tộc miền núi Nam Đông Dương của tác giả Jacques Dournes;
Người Ê đê - một xã hội mẫu quyền của Anna De Hautecloque Howe;
Luật tục Ê đê (tập quán pháp) của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
hay công trình La Chanson éppique khan Kdam Yi do Dominique
Antomarchi sưu tầm, Condominas công bố và viết lời tựa với tựa đề
Những quan sát xã hội học về hai trường ca Ra đê... cũng đã đề cập
đến những nét đặc sắc trên nhiều lĩnh vực của dân tộc này.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về dân tộc thiểu số Gia rai
Dân tộc Gia rai trở thành đối tượng dành được sự quan tâm
lớn của các nhà nghiên cứu mà công trình thường được nhắc tới đầu
tiên là Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Công Tum (xuất bản năm 1981).
Tiếp đó, các công trình Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên của
Viện Sử học (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam); Tìm hiểu đặc trưng
trong dân ca Jrai - Bahnar của Đào Huy Quyền; Rừng, đàn bà, điên
loạn (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) của Jacques Dournes; Bơ thi: Cái
chết được hồi sinh của Ngô Văn Doanh hay Pötao, một lý thuyết về
quyền lực ở người Jörai Đông Dương của Jacques Dournes...
1.3. Những công trình nghiên cứu về Người có uy tín trong
cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên

Cùng với những yêu cầu của thực tiễn, trên thực tế có không ít
các công trình nghiên cứu đề cập đến người có uy tín.
Trong công trình nổi tiếng Les Bahnar de Kontum (Người Bana ở Kon Tum) xuất bản năm 1937, Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn
Đổng Chi đã mô tả nhiệm vụ của ông tơm pơlei ("gốc làng", tức
người đứng đầu làng). Trên Tạp chí Dân tộc học, số 2 - 2005, tác giả


7
Nguyễn Hữu Ngà đã có bài viết Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức DTTS trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH (trong đó có chọn
mẫu nghiên cứu ở Tây Nguyên). Bên cạnh đo, nhiều công trình khác
đề cập đến người có uy tín ở Tây Nguyên như: Già làng Tây Nguyên
của tác giả Linh Nga Niê Kdam; Nhận diện sự biến đổi cơ cấu và chức
năng của già làng các tộc người tại chỗ ở Tây Nguyên hiện nay của
nhóm tác giả Dương Thị Hưởng và Đoàn Minh Huấn; Già làng và
trưởng thôn ở Tây Nguyên (2009) của Hà Xuân Nguyên; Vai trò của
người có uy tín trong việc quản lý xã hội ở vùng các dân tộc thiểu số của
tác giả Lê Sỹ Giáo hay Đào tạo và sử dụng trí thức các dân tộc thiểu số
tại chỗ Tây Nguyên của tác giả Bùi Văn Đạo; Định chế xã hội phi chính
thức: Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn xã hội Tây Nguyên của tác giả
Trần Hữu Quang... Các nghiên cứu đã cho thấy, trong xã hội buôn
làng Tây Nguyên đã "sản sinh" ra một bộ phận có tiếng nói, được
đồng bào nghe, tin và làm theo. Đó là những già làng, trưởng buôn,
thầy bói, thầy cúng, chức sắc tôn giáo, người làm ăn kinh tế giỏi...
Chương 2
LUẬN CỨ LÝ THUYẾT VÀ CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ UY TÍN VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.1. Các khái niệm công cụ có liên quan đến vị thế của
người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số
2.1.1. Dân tộc thiểu số

“DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số
trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Theo đó, “Dân tộc đa số là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng
dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia”.
2.1.2. Cộng đồng và Cộng đồng dân tộc thiểu số


8
Cộng đồng là sự liên kết, tập hợp của những người có những
điểm giống nhau làm thành một khối, cùng cư trú, chung sống trên
một lãnh thổ xác định.
Cộng đồng dân tộc thiểu số chính là sự tập hợp, tương tác của
những người DTTS (bao gồm DTTS tại chỗ và DTTS di cư) tại Tây
Nguyên, với những nét văn hóa thống nhất trong đa dạng, cùng sinh
sống, tồn tại, đoàn kết và giúp đỡ nhau vì sự phát triển và hội nhập
của vùng đất Tây Nguyên nói chung và cả nước nói riêng.
2.1.3. Uy tín và Người có uy tín
Uy tín là sự tín nhiệm, tin yêu, mến phục của mọi người đối với
một cá nhân hay nhóm xã hội cụ thể, gắn với một môi trường và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể.
Người có uy tín là người có quyền uy, có ảnh hưởng trong
phạm vi nhất định với một bộ phận quần chúng, được đồng bào dân
tộc tín nhiệm, tin tưởng, nghe và làm theo.
2.1.4. Vị thế và Vị thế của người có uy tín
Vị thế xã hội là chỗ đứng của một cá nhân (hoặc nhóm người)
trong một xã hội cụ thể, được thể hiện thông qua các tương tác và
các mối quan hệ xã hội. Vị thế xã hội "phản ánh mức độ uy tín và sự
kính trọng từ người khác. Cơ sở cho sự kính trọng đó tùy thuộc vào
phẩm chất cá nhân được người khác coi là quan trọng trong xã hội".
Vị thế của người có uy tín là vị trí, chỗ đứng của người có uy

tín (như già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, trưởng thôn, các thầy
mo, thầy cúng, chức sắc tôn giáo hay các cán bộ lão thành cách mạng
nghỉ hưu, thậm chí là các phần tử phản cách mạng…) trong cộng
đồng DTTS, được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể trong các
nghi lễ, tập tục, các hoạt động sản xuất của cải vật chất hoặc tinh
thần, các hoạt động chính trị... nhằm phát triển kinh tế, giữ gìn bản


9
sắc văn hóa, tăng cường tính cố kết trong cộng đồng hoặc tổ chức
các hoạt động nhằm gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
2.2. Lý thuyết áp dụng
2.2.1. Lý thuyết Cấu trúc xã hội
Đề tài áp dụng lý thuyết cấu trúc xã hội nhằm giúp chúng ta
cách nhận diện và giải thích mối quan hệ mang tính chất "ràng buộc"
giữa người có uy tín với các cá nhân, cộng đồng trong xã hội.
2.2.2. Lý thuyết về vị thế và vai trò
Sự vận dụng lý thuyết này trong nghiên cứu là nhằm làm rõ
"chỗ đứng" của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây
Nguyên, đồng thời luận giải cơ sở, nguồn gốc của sự tồn tại một bộ
phận người có uy tín trong đời sống tộc người ở vùng đất này.
2.2.3. Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa
Xác định được các yếu tố tác động đến sự biến đổi về văn hóa
(như giá trị, lối sống, chuẩn mực…), và chính sự biến đổi này đã tác
động như thế nào đến vị thế của người có uy tín; trước các biển đổi
này, cần phải định hình những phương cách nào để đáp ứng với tiến
trình biến đổi đó, nhằm tiếp tục xác lập và khẳng định vị thế của
người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và khung
phân tích

2.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Cơ sở kinh tế - xã hội nào là nguyên nhân dẫn đến trong đời
sống cộng đồng của các DTTS ở Tây Nguyên có sự xuất hiện và tồn
tại của những người có uy tín?
- Trong tộc người thiểu số Ê đê và Gia rai ở Tây Nguyên, một
cá nhân cần có những yếu tố nào để được xem là "có uy tín", và vị


10
thế của người có uy tín được thể hiện như thế nào trong đời sống
cộng đồng, buôn làng?
- Biến đổi văn hóa - xã hội đã diễn ra như thế nào trong đời
sống buôn làng Tây Nguyên và tác động ra sao đến vị thế của những
người có uy tín, và sự thay đổi đó sẽ có những tác động như thế nào
đến tiến trình phát triển chung của Tây Nguyên?
- Sự phù hợp của những chính sách đối với người có uy tín?
Để người có uy tín thể hiện vị thế và vai trò của mình trong tiến trình
phát triển của đời sống tộc người cần có những định hướng chính
sách và giải pháp nào?
2.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên, người có uy tín là
những người có vị thế đặc biệt trong đời sống buôn làng, được thể
hiện trên tất cả các mặt của đời sống buôn làng.
- Đời sống của buôn làng đã và đang biến đổi mạnh mẽ, nhất là
sau 1975 đến nay, trên tất cả các mặt dân số, tôn giáo, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Dẫn đến sự biến đổi về số lượng, cơ cấu thành phần, mức độ,
đặc điểm vai trò - vị thế của những người có uy tín trong đời sống
buôn làng.
- Sự biến đổi vị thế của người có uy tín đã gây ra nhiều tác
động tích cực lẫn tiêu cực đối với đời sống của cộng đồng DTTS ở

Tây Nguyên, đặt ra nhiều thách thức trong quá trình phát triển và giữ
vững ổn định chính trị vùng Tây Nguyên.
- Vẫn còn nhiều thiếu sót, bất cập trong chính sách đối với
người có uy tín, do đó chưa phát huy hết vị thế - vai trò của người có
uy tín trong phát triển KT - XH, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa,
đảm bảo AN, TT ở Tây Nguyên hiện nay.


11
2.3.3. Khung phân tích


12
2.4. Chính sách đối với người có uy tín vùng dân tộc thiểu
số trong lịch sử Việt Nam
Để làm rõ chính sách đối với vùng DTTS và người có uy tín
trong vùng DTTS ở Việt Nam, tác giả tiến hành phân chia thành 3
giai đoạn chủ yếu: Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX: Giai đoạn đánh
dấu chính sách của các vương triều phong kiến đối với tù trưởng,
lang đạo; từ 1954 đến 1975: Chính sách Thượng vụ của miền Nam
Việt Nam; từ năm 1930 cho đến nay: Những tư tưởng chủ đạo của
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước ta
về vấn đề dân tộc, DTTS và người có uy tín.
Chương 3
HIỆN TRẠNG VỊ THẾ CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN TRONG
CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN:
TRƯỜNG HỢP DÂN TỘC THIỂU SỐ Ê ĐÊ VÀ GIA RAI
3.1. Tổng quan về Tây Nguyên và dân tộc thiểu số Ê đê,
Gia rai ở Tây Nguyên
3.1.1. Không gian địa lý, đặc điểm xã hội và tình hình an

ninh - chính trị vùng Tây Nguyên
Về mặt không gian địa lý - hành chính, Tây Nguyên nằm trải
dài theo phía Nam của dãy Trường Sơn, Tây Nguyên cùng với cao
nguyên Hạ Lào hợp thành vùng cao nguyên rộng lớn nằm ở trung
tâm bán đảo Đông Dương.
Về mặt xã hội - nhân văn, Tây Nguyên là mảnh đất khai
nguyên của cộng đồng các DTTS tại chỗ. Hiện nay, các DTTS ở Tây
Nguyên ngày càng đa dạng về nguồn gốc, phong phú về thành phần,
đông đảo về số lượng, có sự khác biệt nhất định về tập quán sống.


13
Cơ cấu tôn giáo gắn với từng dân tộc ở đây cũng rất phức tạp.
Tính đến tháng 12/2014, ở Tây Nguyên có 2.079.065 tín đồ tôn giáo,
với bốn tôn giáo lớn là Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao đài, trong
đó Công giáo chiếm số lượng đông nhất với 977.980 tín đồ, Tin lành:
441.413 tín đồ, Phật giáo: 636.890 tín đồ, Cao đài: 22.462 tín đồ.
Về chính trị và AN - QP, Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến
lược, có tầm bao quát cả vùng Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và
các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ của Việt Nam.
3.1.2. Dân tộc thiểu số Ê đê và Gia rai ở Tây Nguyên
Về dân tộc Ê đê, người Ê đê có tên tự gọi là Anăk Ê đê, bên
cạnh đó còn có các tên gọi khác: Anăk Ê đê, Ra đê (hay Rhađê), Ê đê
Êgar, Ðê. Tính đến tháng 12/2014, dân tộc Ê đê ở Tây Nguyên có
325.520 người, tập trung chủ yếu ở tỉnh Đắk Lắk với 318.834 người.
Về dân tộc Gia rai, người Gia rai có tên tự gọi là Gia rai, bên
cạnh đó còn có các tên gọi khác: Giơ ray, Chơ ray, hoặc những âm gần
giống như J’rai, Giơ-rai, Chơ-rai. Tính đến tháng 12/2014, dân tộc Gia
rai ở Tây Nguyên có 436.963 người, tập trung chủ yếu ở tỉnh Gia Lai
với 397.619 người.

3.2. Người có uy tín trong dân tộc thiểu số Ê đê và Gia rai
cổ truyền
3.2.1. Người có uy tín trong tộc người Ê đê cổ truyền
Người có uy tín trong xã hội cổ truyền, có các thành phần
nhân sự như: Pô lăn là chủ sở hữu đất đai; Pô pin êa là chủ bến
nước; Pô phat kdi giúp chủ buôn xét xử các vụ kiện cáo và mâu
thuẫn, xích mích; Pô riu yang là người đàn ông thực hiện việc cúng
bái trong các nghi lễ cộng đồng; Mjâo (thầy bói) giúp mọi người trong
buôn giải tỏa mọi rủi ro như ốm đau, hạn hán, thiên tai...; Người chỉ


14
huy thanh niên (k'eng) có vai trò như là đội trưởng dân quân; Già
làng; Hội đồng già làng...
3.2.2. Người có uy tín trong xã hội Gia rai cổ truyền
Trong buôn làng Gia rai cổ truyền có những người đứng đầu
như sau: Pô phun sang hay tha plei (già làng), pơbut (chủ làng),
người xử kiện (pô granh) hay người hòa giải (granh brjai), Pô riu
yang (thầy cúng), Bjâo (thầy bói), các Pötao và Giáo phu đạo Công
giáo. Đây là những người có uy tín, có vị thế - vai trò nhất định trong
buôn làng, được dân làng tín nhiệm.
3.3. Người có uy tín trong xã hội Ê đê và Gia rai hiện nay
- Về tổ chức Đảng, đứng đầu chi bộ là Bí thư và Phó Bí thư,
đứng đầu tổ Đảng là Tổ trưởng Đảng.
- Về tổ chức chính quyền, đứng đầu mỗi buôn làng là một Trưởng
thôn, một Phó Trưởng thôn, một Công an viên phụ tráh...
- Về tổ chức Mặt trận, tùy theo quy mô nhỏ hay lớn, mỗi buôn
làng có một thành viên thuộc MTTQ xã, làm nhiệm vụ vận động, đoàn
kết các tầng lớp nhân dân trong buôn làng.
- Về tổ chức đoàn thể, mỗi buôn làng có các đoàn thể chính trị

bao gồm: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân..
Bên cạnh những người được xem là "có uy tín" trong xã hội cổ
truyền là sự xuất hiện của người có uy tín mới như các cán bộ lão
thành nghỉ hưu, chức sắc tôn giáo, người làm ăn kinh tế giỏi...
3.4. Vị thế của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc
thiểu số Ê đê và Gia rai ở Tây Nguyên
3.4.1. Người có uy tín là "người đại diện" của chính quyền
địa phương
Thông qua họ, các chủ trương chính sách của chính quyền sẽ
được "thích ứng" với bối cảnh văn hóa - xã hội, đi vào đời sống cộng


15
đồng. Họ là “chỗ dựa” quan trọng của các cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp, là "cầu nối" giữa các dòng họ, giữa dân tộc này với dân tộc
khác, làm cho nhiều việc được giải quyết "thấu tình đạt lý".
3.4.2. Xây dựng, giữ gìn văn hóa buôn làng
Việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc cần sự đồng thuận, giúp đỡ những người có uy tín, đặc biệt là già
làng. Chính họ sẽ thực hiện các hoạt động cụ thể giúp đồng bào hiểu
được tầm quan trọng của các giá trị văn hóa và tham gia gìn giữ, bảo
tồn, tôn tạo các giá trị văn hóa của dân tộc mình.
3.4.3. Hỗ trợ hệ thống chính trị xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
trong cộng đồng
Những người có uy tín đã trực tiếp tham gia vận động đồng
bào nâng cao cảnh giác không nên tin lời kẻ xấu xúi giục; tham gia
và vận động quần chúng thực hiện các phong trào: “Toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc”, giữ gìn an ninh trật tự ở khu dân cư”...
3.4.4. Góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo công

ăn việc làm cho đồng bào
Các doanh nghiệp, cá nhân làm ăn kinh tế giỏi đã tạo ra nhiều
công ăn việc làm, thu hút nhiều lao động tại chỗ, kể cả người đồng
bào lẫn người di cư đến Tây Nguyên, từ đó góp phần xóa đói giảm
nghèo, ổn định và phát triển KT - XH.
3.4.5. Vận động tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, "kính Chúa
yêu nước"
Trong tâm thức của người theo đạo, các chức sắc luôn là
những người đi đầu nêu gương, là cầu nối giữa giáo hội với tín đồ
nên có tác động và mang tính thuyết phục cao đối với quần chúng tín
đồ. Đặc biệt, họ đồng thời trực tiếp khuyên bảo giáo dân sống hòa


16
hợp, tốt đời đẹp đạo, giữ đúng phương châm hành đạo “sống phúc
âm trong lòng dân tộc", “kính Chúa yêu nước”.
3.4.6. Tổ chức tập hợp lực lượng, lôi kéo quần chúng, tín
đồ tham gia chống phá chính quyền
Trên thực tế, một số người có uy tín trong đồng bào DTTS Ê
đê và Gia rai đã lợi dụng uy tín, ảnh hưởng của mình trên cơ sở quan
hệ dòng tộc, gia đình; mối quan hệ về luật tục, đặc biệt là thần quyền,
giáo lý, giáo luật của tôn giáo để kích động, lôi kéo...
3.5. Nguyên nhân biến đổi vị thế của người có uy tín trong
cộng đồng dân tộc thiểu số Ê đê và Gia rai
3.5.1. Tác động từ chính sách dân tộc của các thể chế chính
trị ở Việt Nam qua các thời kì
Sự biến đổi về vị thế - vai trò của người có uy tín trong cộng
đồng các DTTS Tây Nguyên chịu tác động lớn bởi từ quá trình thực
thi những chính sách dân tộc ở Việt Nam, đặc biệt là từ khi xuất hiện
của hệ thống cơ cấu tổ chức xã hội quan phương, dẫn đến phá vỡ tổ

chức xã hội tự quản buôn làng truyền thống.
3.5.2. Sự chuyển đổi về quyền sở hữu đất đai
Vì nhiều lý do khác nhau, hình thức sở hữu buôn làng bị buộc
phải giải thể, thay vào đó là hình thức sở hữu cá nhân khiến cho buôn
làng mất đi vai trò của một tổ chức xã hội tự quản cơ sở/cao nhất/duy
nhất. Già làng, chủ làng, HĐGL mất đi vị thế - vai trò của mình...
3.5.3. Quá trình di dân từ Bắc Bộ và duyên hải miền Trung
lên Tây Nguyên
Nếu như năm 1976 ở Tây Nguyên mới có 12 thành phần dân
tộc, năm 1989 có 37 thành phần dân tộc, thì đến năm 1999 đã có 47
thành phần dân tộc, và đến năm 2015, vùng Tây Nguyên đã là nơi
hội tụ, sinh sống đầy đủ của 54 dân tộc. Dưới những tác động mạnh


17
mẽ xuất phát từ dân số, tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi về vị thế - vai
trò của người có uy tín ở vùng đất này.
3.5.4. Ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo
Việc tiếp nhận các tôn giáo như Công giáo, Tin lành đã làm
giảm đi vai trò, sức ảnh hưởng của tín ngưỡng cổ truyền, làm biến
đổi về thành phần, cũng như vị thế - vai trò của những người có uy
tín thuộc nhóm uy quyền thiên phú.
3.5.5. Luật tục bị thay thế dần bởi luật pháp và giáo lý tôn
giáo
Khi giáo lí, giáo luật thay thế dần cho Luật tục thì hệ quả là
những người có uy tín thuộc nhóm uy quyền truyền thống, thiên phú
mất cơ sở để thực hiện trách nhiệm, vai trò của mình, từ đó giảm dần
uy quyền, vị thế trong cộng đồng.
3.5.6. Hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa và
kinh tế thị trường

Hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa và kinh tế thị
trường đã làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, các
dân tộc, văn hóa của các dân tộc ngày càng mất dần đi bản sắc
riêng... Các hệ quả xã hội tiêu cực này đã làm cho vị thế của những
người có uy tín trong nhóm uy quyền truyền thống, là các già làng,
chủ làng, người xử kiện,… bị giảm đi.
3.6. Hiện trạng chính sách đối với người có uy tín trong
cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên hiện nay
3.6.1. Về số lượng người có uy tín
Theo quy định tại khoản 2a, điều 1 Quyết định số 18: “Mỗi
thôn thuộc vùng DTTS có ít nhất 1/3 số hộ gia đình hoặc số nhân
khẩu là người DTTS được bình chọn 01 (một) người có uy tín" sẽ dễ
dẫn đến tư tưởng bất mãn hay mất đoàn kết trong nội bộ thôn, buôn.


18
Bởi lẽ trên thực tế trong một thôn, buôn cùng lúc tồn tại nhiều người
có uy tín, và mỗi tộc người khác nhau trong thôn, buôn đó đều lựa
chọn người có uy tín cho mình.
3.6.2. Về chính sách cụ thể đối với người có uy tín
Một là, nhiều quy định về chế độ, chính sách... đối với người có
uy tín đã lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình thực tế.
Hai là, quy định về mức chi tiền ăn, ở, đi lại cho người có uy
tín nghỉ dưỡng đã quá lỗi thời so với mức sống hiện tại.
Ba là, một số quy định sử dụng câu chữ không bao quát hết
tình hình nên nhiều lúc tạo khó khăn trong việc trích kinh phí hỗ trợ.
Bốn là, có sự không thống nhất trong việc xác định cơ quan
chủ trì việc bình chọn, xét duyệt người có uy tín.
Năm là, kinh phí để thực hiện chính sách cho người có uy tín
do Trung ương cấp được chuyển về Ban Dân tộc cấp tỉnh. Vì vậy

việc vận động, tranh thủ của cơ quan công an rất thiếu tính chủ động
trong khi đây là lực lượng chủ công trong vận động, tranh thủ.
Sáu là, thực tế cho thấy, trong nhiều hoạt động, lực lượng
CAND đã tiến hành tranh thủ, vận động nhiều người có uy tín song
lại không thể dùng kinh phí do Trung ương cấp.
Bảy là, trong các quy định đều xác định chủ thể người có uy
tín để tiến hành công tác vận động là phải đang sinh sống, làm việc
tại Việt Nam. Do đó khi họ đang định cư ở nước ngoài hoặc khi họ
từ nước ngoài về Việt Nam thì rất bị động trong tranh thủ.
Tám là, hiện có một số người có ảnh hưởng lớn trong một tỉnh,
vùng nhưng tại nơi cư trú họ ít sinh hoạt tại cơ sở, vì vậy chưa được
giới thiệu để bầu chọn nhưng không có chính sách để tháo gỡ.
Chín là, hiện chưa có sự nhận diện rõ ràng để đưa ra những
tiêu chí cụ thể về người có uy tín.


19
Mười là, trong công tác đối với người có uy tín hiện chưa duy
trì, xây dựng được mối quan hệ thường xuyên với họ, chủ yếu tranh
thủ, vận động qua từng vụ việc.
3.6.3. Công tác đối với già làng trong hệ thống quản lý xã
hội quan phương
Tuy có vai trò quan trọng trong việc quản lí xã hội, nhưng về
cơ bản tổ chức già làng hiện nay vẫn là phi quan phương, chưa được
hợp thức hóa. Điều này dẫn đến khó khăn trong công tác hỗ trợ của
già làng đối với chính quyền, cũng như khó khăn từ phía chính quyền
trong việc vận động sự tham gia của già làng vào công tác chung.
3.6.4. Hoạt động kém hiệu quả của Hội đồng già làng
Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, HĐGL trong các buôn
làng Ê đê và Gia rai trước đây hoạt động còn kém hiệu quả. Điều đó

do cả cơ chế hoạt động, cách thức tổ chức và cơ chế vận hành của
HĐGL.
3.7. Một số nhận xét, đánh giá về hiện trạng vị thế người có
uy tín trong dân tộc thiểu số Ê đê và Gia rai
Thứ nhất, trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên, một người
để được xem là "có uy tín" đều có những tiêu chí xác định.
Thứ hai, vị thế của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở
Tây Nguyên được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ ba, đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu, thành phần, dẫn
đến sự biến đổi vị thế - vai trò của người có uy tín.
Thứ tư, nhận thức về người có uy tín và việc thực hiện chính
sách với người có uy tín hiện còn nhiều bất cập.
Thứ năm, vị thế - vai trò của người có uy tín trong cộng đồng
DTTS ở Tây Nguyên đã và đang chịu sự tác động của các nhân tố
khách quan lẫn chủ quan.


20
Chương 4
ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VỀ VỊ THẾ VÀ VAI TRÒ
CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN TRONG CỘNG ĐỒNG
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN
4.1. Xu hướng biến đổi vị thế của người có uy tín trong các
tộc người thiểu số Tây Nguyên
Một là, già làng và chế độ già làng dù bị hạn chế so với trước
song vẫn còn sức sống và tiếp tục phát huy tác dụng trong cộng đồng.
Hai là, một số vị trí người có uy tín sẽ mất dần vị thế và bị
thay thế bởi nhóm người có uy tín mới.
Ba là, vị thế của các chức sắc, chức việc tôn giáo ở Tây
Nguyên sẽ ngày càng được củng cố.

Bốn là, trong thời gian sắp tới, các TLTĐ sẽ tiếp tục thực hiện
hoạt động móc nối, tác động, lôi kéo một bộ phận người có uy tín.
4.2. Định hướng chính sách đối với người có uy tín trong
cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
Thứ nhất, xem xét, định dạng vị thế - vai trò của người có uy tín
cần đặt họ trong bối cảnh tương quan giữa thể chế xã hội phi chính
thức mà họ đại diện với thể chế xã hội chính thức.
Thứ hai, trong tiến trình phát triển, các dân tộc tại chỗ là nhân
tố quan trọng đặc biệt, quyết định đến sự ổn định và phát triển bền
vững Tây Nguyên, trên tất cả các mặt, lĩnh vực xã hội.
Thứ ba, việc hoạch định chính sách nhằm nâng cao vị thế
của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên cần phải
được xuất phát từ nền tảng tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về DTTS, đồng thời phải đặt trong tổng thể các chính sách, chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên.


21
4.3. Giải pháp về vị thế và vai trò của người có uy tín trong
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
4.3.1. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách đã ban hành;
bổ sung, sửa đổi những quy định chồng chéo, không phù hợp liên
quan đến người có uy tín
Về thực hiện các chính sách đã ban hành: Tiếp tục thực hiện
những chính sách, quy định liên quan đến người có uy tín trong các
Văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước, nhất là Quyết
định số 18, 56 của Thủ tướng Chính phủ.
Về sửa đổi những quy định bất cập, không phù hợp: Cần sửa
đổi các quy định còn chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Ví dụ như sửa
chữa Khoản 2a, Điều 1 Quyết định số 18 theo hướng: “Mỗi thôn

thuộc vùng DTTS có ít nhất 1/3 số hộ gia đình hoặc số nhân khẩu là
người DTTS được bình chọn 1 đến 3 người có uy tín; kiến nghị với
Bộ Tài chính và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sửa đổi Thông
tư 08 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Thông tư 211 của
Bộ Tài chính để nâng mức quy định về mức chi tiền ăn, ở, đi lại cho
người có uy tín nghỉ dưỡng cho phù hợp với thời giá hiện nay...
4.3.2. Nhóm giải pháp đối với chức sắc tôn giáo
Một là, luôn nhận thức và quán triệt sâu sắc phương châm
"Dùng tôn giáo để giải quyết các vấn đề phức tạp về tôn giáo".
Hai là, thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc, thăm hỏi, tặng quà, động
viên nhằm tạo mối quan hệ tình cảm, gắn bó với các chức sắc.
Ba là, chủ động nắm tình hình hàng ngũ chức sắc tôn giáo, đặc
biệt là chức sắc tôn giáo là người DTTS.
Bốn là, các cơ quan, ban ngành có liên quan cần có sự thống
nhất trong phân loại, đánh giá từng chức sắc để có chính sách đúng.


22
Năm là, vận động, bố trí chức sắc tôn giáo tham gia vào các cơ
quan của chính quyền, vào các cuộc vận động, tuyên truyền.
Sáu là, giải quyết các tranh chấp liên quan đến tôn giáo, đặc
biệt là tranh chấp về đất đai, cơ sở thờ tự...
Bảy là, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với các
hoạt động móc nối, lôi kéo chức sắc tôn giáo của các TLLĐ
Tám là, tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm
công tác vận động, tranh thủ chức sắc tôn giáo.
4.3.3. Nhóm giải pháp liên quan đến Già làng và Hội đồng
Già làng
Để nâng cao vị thế của người có uy tín - già làng, trước hết cần
khôi phục lại tổ chức già làng và chính thức hóa tổ chức già làng

bằng việc tái thành lập Hội đồng già làng. Việc thành lập Hội đồng
già làng phải được xuất phát từ những nhận thức mới, phù hợp với sự
biến đổi của buôn làng trong bối cảnh hiện tại.
4.3.4. Phát huy vai trò của luật tục và thực hiện chính sách
nhập cư - di cư phù hợp
Về phát huy vai trò của luật tục:
Một là, tiếp tục tổ chức, biên soạn lại luật tục bằng cách phối
hợp với các chuyên gia, các tổ chức nghiên cứu...
Hai là, cần đặt luật tục vào trong hương ước của buôn làng.
Ba là, cụ thể hóa nội dung Hương ước vào trong chương trình
giảng dạy tại các trường Cao đẳng, Đại học đóng tại Tây Nguyên.
Bốn là, soạn thảo, ban hành Sổ tay Hương ước buôn làng.
Năm là, trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật liên
quan đến vấn đề dân tộc cần lồng ghép những quy định của luật tục.


23
Về thực hiện chính sách nhập cư - di cư phù hợp:
Về dài hạn, cần tiếp tục thực hiện các dự án tái định cư, quy
hoạch, tổ chức đưa các người, hộ dân đã di cư đến vào các vùng ổn
định; đồng thời đầu tư xây dựng, nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở
hạ tầng, an sinh xã hội của vùng. Nhưng trước mắt, giải pháp ngắn
hạn trong thời gian tới cần hạn chế người di cư đến Tây Nguyên.
4.3.5. Chủ động ngăn chặn, phòng ngừa và kiên quyết đấu
tranh các hoạt động lôi kéo, kích động người có uy tín tham gia
chống đối chính quyền của các thế lực thù địch
- Sử dụng các biện pháp để ngăn chặn, kịp thời nắm bắt được
những âm mưu, thủ đoạn của các TLTĐ trong việc lôi kéo, móc nối
với người có uy tín.
- Làm tốt công tác nắm tình hình, đặc biệt là diễn biến tư

tưởng của những người có uy tín.
- Trong quá trình đấu tranh cần linh hoạt, mềm dẻo, nhưng đồng
thời phải kiên quyết xử lý những người có uy tín có hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng.
KẾT LUẬN
Trong xã hội Tây Nguyên, người có uy tín có cơ cấu, thành
phần... hết sức phong phú và đa dạng, vị thế và vai trò của họ được
thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Qua quá trình nghiên cứu luận án, tác
giả rút ra một số kết luận sau:
Một là, trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên cổ truyền nói
chung và tộc người Ê đê, Gia rai nói riêng đã tồn tại một bộ phận
người có uy tín.
Hai là, dưới tác động của các chính sách dân tộc, nhất là sự du
nhập của tôn giáo, người có uy tín trong tộc người Ê đê, Gia rai đã có
sự biến đổi sâu sắc cả về thành phần, cơ cấu và mức độ ảnh hưởng.


×