Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn (Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 121 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
******



NGUYỄN TIẾN DŨNG





SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở NÔNG THÔN
(Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước)




Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC










HÀ NỘI - 2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
******



NGUYỄN TIẾN DŨNG




SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở NÔNG THÔN
(Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước)




Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS VŨ HÀO QUANG





HÀ NỘI - 2007


MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………………… 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ……………………………………………………… 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………….….…5
4. Đối tƣợng khách thể và phạm vi nghiên cứu…………………………………… 5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu…………………………………… …7
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết……………………………………………23
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH

CHƢƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu…………………………………………………… 25
1.1.1. Trên thế giới…………………………………………………………………………… 25
1.1.2. Ở Việt Nam……………………………………………………………………………… 26
1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của địa bàn nghiên cứu………………… 31
1.2.1. Tỉnh Thanh Hóa………………………………………………………………………… 31
1.2.2 Tỉnh Bình Phước………………………………………………………………………… 35
1.3. Một số khái niệm công cụ……………………………………………………… 37
1.3.1. Khái niệm sự tham gia của cộng đồng……………………………………………… 37
1.3.2. Khái niệm về phân cấp …………………………………………………………… … 39
1.3.3. Khái niệm về phát triển lấy cộng đồng làm định hướng…………………… …… 41
1.3.4. Khái niệm cộng đồng……………………………………………………………… … 42
1.3.5 Khái niệm cơ sở hạ tầng nông thôn…………………………………………… … 43
CHƢƠNG II:
VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH THAM GIA CỦA NGƢỜI DÂN Ở VIỆT NAM
2.1 Lập kế hoạch có sự tham gia 45


2.2 Lập ngân sách/kiểm toán tham gia 50
2.3 Giám sát có sự tham gia 57
2.4 Đơn thƣ khiếu nại và tố cáo ……………………………………………… … 61
2.5 Tiểu kết …………………………………………………………………… …… 62
CHƢƠNG III:
SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN CSHT NÔNG THÔN
3.1 Các nội dung tham gia trong phát triển CSHT ……………………… 64
3.1.1. Quá trình tiếp nhận thông tin ……………………………………………………… …64
3.1.2 Tham gia trong các cuộc họp lựa chọn công trình…………………………… …….69
3.1.3 Sự tham gia trong Ban điều phối dự án xã……………………………………….…….74
3.1.4 Tham gia đóng góp các nguồn lực …………………………………… …… 77

3.1.5 Tham giám sát xây dựng và duy tu bảo dưỡng công trình ……………… …………80
3.2 Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự tham gia………………………………… …….84
3.2.1 Các yếu tố về nhân khẩu xã hội của cộng đồng………………………………… ….84
3.2.2 Vai trò của trưởng thôn…………………………………………………… …89
3.2.3 Chính quyền cấp xã……………………………………………………………………… 92
3.2.4 Các tổ chức trung gian/xã hội dân sự…………………………………………….… 95
3.2.5 Các yếu tố về cơ chế chính sách…………………………………………………….….99
3.2.5.1 Quá trình phân cấp quản lý đầu tư cho cấp xã………………………… …………99
3.2.5.2 Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở……………………………… … … 103
3.3 Tiểu kết ………………………………………………………………… ……….105
PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận …… ………………………………………………………………………107
2. Khuyến nghị…………………………………………………………………………109
2.1 Những khuyến nghị chung……………………………………………………………… 109
2.2 Các khuyến nghị cụ thể………………………………………………………………… 110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN





















ADB:
Ngân hàng phát triển Châu Á
CSHT:
Cơ sở hạ tầng
CSI :
Chỉ số Xã hội dân sự
NGO:
Tổ chức Phi chính phủ
HĐND:
Hội đồng Nhân dân
UNDP:
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
UBND :
Ủy ban nhân dân
CDD:
Phát triển lấy cộng đồng làm định hướng
DTTS:
Dân tộc thiểu số
NHTG:
Ngân hàng Thế giới
XHDS:
Xã hội dân sự

XĐGN:
Xóa đói giảm nghèo
VDP:
Kế hoạch phát triển thôn bản
PPA:
Đánh giá nghèo có sự tham gia
ĐPDA:
Điều phối dự án
ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục
trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo. Năm 1993 Việt Nam vẫn còn khoảng 58% dân
số sống trong nghèo đói, năm 1998 con số này là là 37% và năm 2002 đã giảm
xuống 29%
1
. Những con số này thể hiện một cách tập trung những nỗ lực cải cách
của Việt Nam kể từ khi tiến hành đổi mới vào năm 1986. Trên cơ sở không ngừng
nâng cao khả năng tiếp cận với các dịch vụ giáo dục và y tế, Việt Nam đã và đang
tiếp tục đạt được những thành quả đáng kể trong quá trình thực hiện các Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ. Ngoài ra, Việt Nam đang ngày càng hội nhập vào nền kinh
tế toàn cầu và đóng một vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế
của khu vực và toàn cầu.
Khu vực nông thôn có diện tích đất chiếm 92% diện tích lãnh thổ Việt Nam với
75% dân số sinh sống đang trở thành một trong những trọng tâm của các chính sách
phát triển ở Việt Nam. Hiện nay, khu vực này mặc dù đã được đầu tư nhiều và đã có

những chuyển biến tích cực, song còn nhiều yếu kém. Hiện nay trong khu vực nông
thôn vẫn còn 16% dân cư sống cảng nghèo đói, 7 triệu người thiếu việc làm [13; 4].
Sự yếu kém của khu vực nông thôn còn thể hiện ở cả cơ sở hạ tầng. Hai thập kỷ
qua, hạ tầng nông thôn tuy đã được đầu tư và cải thiện đáng kể, nhưng về cơ bản
vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về hệ thống đường xã, cung cấp nước tưới và
cung cấp điện.
Những năm vừa qua, Việt Nam đã có những nỗ lực để phát triển toàn diện khu vực
nông thôn thông qua các chương trình, dự án đầu tư. Theo đó, các dự án phát triển
nông thôn tổng hợp đang ngày càng trở thành công cụ hữu hiệu trong công cuộc xoá
đói, giảm nghèo và phát triển nông thôn ở Việt Nam trong những thập kỷ gần đây.
Trong các dự án phát triển nông thôn tổng hợp thì lĩnh vực cơ sở hạ tầng luôn được
coi là một trong những khía cạnh được xem xét đầu tư vì nó mang tính quyết định
lớn đến sự phát triển chung của nông thôn. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ đảm bảo cho
người dân ở nông thôn có thể tiếp cận nhiều hơn với thị trường đồng thời cũng cải
thiện được tình hình sản xuất và sinh hoạt trong cộng đồng của mình. Trong công
tác quản lý dự án thì hiệu quả quản lý đầu tư cơ sở hạ tầng cũng sẽ đóng vai trò
quyết định đến hiệu quả chung của đầu tư và chất lượng của công trình xây dựng.

1
Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 của Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam.
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
2
Trong những năm trước đây, nhiều chương trình của Chính phủ đã sử dụng phương
pháp tiếp cận từ trên xuống thiếu sự tham gia của người dân, đặc biệt là người
nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương, nên đã làm hạn chế tính hiệu quả của các sáng
kiến giảm nghèo và kết quả là thiếu sự cam kết, sự đóng góp và tinh thần làm chủ
của người dân đối với những công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động
giảm nghèo. Kinh nghiệm của nhiều dự án trong vòng 5 năm qua cho thấy một nhu
cầu bức thiết phải xây dựng những cơ chế phù hợp để các nhóm mục tiêu dự án

tham gia nhiều hơn vào quy trình ra quyết định, từ việc lập kế hoạch đến giám sát,
đánh giá, vận hành bảo dưỡng công trình đầu tư. Có như vậy, hiệu quả của công
trình đầu tư mới được đảm bảo và có tính bền vững.
Hiện nay Chính phủ Việt Nam đang thực hiện nhiều chương trình cải cách theo
hướng đảm bảo việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ với chất lượng tốt hơn cho người
dân. Nhìn chung, Việt Nam đang thí điểm áp dụng một hệ thống lập kế hoạch, lập
ngân sách và thực hiện các chương trình, dự án phát triển được phân cấp nhiều hơn
cho các cấp địa phương. Cụ thể là theo tinh thần của Nghị định số 29 (Ban hành
năm 1998) của Chính phủ về “phát huy dân chủ cấp cơ sở” thì các cấp chính quyền
đã có cam kết rõ ràng hơn về trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và đẩy mạnh sự
tham gia của người dân vào những công việc quản lý chung ở địa phương.
Quá trình phân cấp cùng với nó là sự tham gia mạnh mẽ từ phía người dân đang là
một trong những chủ trương đang được triển khai từng bước trong nhiều lĩnh vực
như quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển, ngân sách nhà nước, v.v. ở các
cấp chính quyền địa phương khác nhau và là một nội dung quan trọng của Chương
trình Cải cách hành chính công của Chính phủ giai đoạn 2001-2010. Phân cấp quản
lý các hoạt động đầu tư phát triển cấp xã cũng đã được từng bước triển khai trong
hệ thống quản lý nhà nước cũng như các dự án phát triển nông thôn sử dụng nguồn
vốn trong nước và nguồn tài trợ. Việc phân cấp này góp phần thúc đẩy việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường hiệu quả và tính bền vững của các hoạt động
đầu tư.
Ở một khía cạnh khác, xu hướng hội nhập toàn cầu cùng với sự gia tăng những ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã đặt ra những yêu cầu về sự phát
triển bền vững về mặt xã hội. Điều đó đã quy định cho khoa học Xã hội học những
nhiệm vụ nghiên cứu mang tính thực tiễn về sự phát triển bền vững ở Việt Nam.
Phát triển bền vững là một khái niệm mang tính học thuật khá phức tạp, mặc dù nó
đã và đang gây nhiều tranh cãi, nhưng mục tiêu cuối cùng mang tính khái quát hơn
của sự phát triển bền vững lại mang tính xã hội và nhân văn, như được nêu trong
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn

3
Hiến chương của Liên hiệp quốc về Quyền con người. Đó là, “đảm bảo cho mỗi
người quyền có được những điều kiện sống thích hợp cho sức khỏe và phúc lợi bao
gồm đồ ăn, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết khác”.
Về cơ bản, phát triển bền vững xã hội có cốt lõi nằm ở việc giải quyết những mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội, cũng như phát triển
con người. Tuy nhiên, ngay cả với một cách hiểu sơ lược như vậy, thì sự phát triển
bền vững về mặt xã hội vẫn còn là một chủ đề lớn và phức tạp. Trong điều kiện Việt
Nam hiện nay, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt xã hội, bên cạnh việc
thúc đẩy tăng trưởng về mặt kinh tế, bảo vệ môi trường, thì vẫn còn những quá trình
và những yếu tố xã hội cần được chú ý xem xét đúng mức, chẳng hạn: (i) hệ thống
chính sách cần thiết đầu tư cho con người, thúc đầy phát triển con người, đảm bảo
các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống của họ, (ii) cải thiện điều kiện sống, cơ sở hạ
tầng thiết yếu của nhóm người nghèo, đặc biệt là nhóm xã hội nhạy cảm dễ bị tổn
thương, (iii) huy động sự tham gia rộng rãi và có hiệu quả của cộng đồng và mọi
người dân vào quá trình phát triển, và (iv) tăng cường về mặt thể chế các quá trình
địa phương của xã hội dân sự.
Đây cũng chính là những nhiệm vụ xuyên suốt mà Đảng và Nhà nước giao phó và
yêu cầu đối với khoa học xã hội nói chung và Xã hội học nói riêng.
Từ những vấn đề đã nêu, có thể khẳng định rằng, sự tham gia của cộng đồng là một
trong những chủ đề đang được quan tâm cả về mặt lý luận và thực tiễn trong quá
trình phát triển hiện nay.
Trên tinh thần "Phát triển nông thôn là công việc của chính người dân nông thôn,
với sự giúp đỡ tích cực của Chính phủ”, sự tham gia của cộng đồng đã và đang là
nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của công cuộc phát
triển nông thôn và đất nước. Với ý nghĩa đó, đề tài nghiên cứu "Sự tham gia của
Cộng đồng dân cư trong việc Phát triển cơ sở hạ tầng Nông thôn" hy vọng sẽ góp
phần vào việc nhận thức thực trạng sự tham gia cũng như một số nhân tố ảnh hưởng
đến sự tham gia của cộng đồng trong phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

2.1 Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các lý thuyết, các khái niệm xã hội học vào
việc tìm hiều và mô tả sự tham gia của cộng đồng dân cư qua đó đưa ra được một
thực trạng về sự tham gia của người dân trong các lĩnh vực thuộc về cơ sở hạ tầng
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
4
nông thôn.Qua đó tiến hành giải thích thực tế về sự tham gia dưới giác độ xã hội
học và tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng.
Thông qua quá trình nghiên cứu, các khái niệm liên quan đến cộng đồng và sự tham
gia sẽ được làm sáng tỏ hơn, đồng thời phát hiện ra một số quy luật mang tính xã
hội của quá trình tham gia của người dân.
Trên cơ sở vận dụng tri thức xã hội học vào nghiên cứu, các khái niệm và các lý
thuyết thuộc xã hội học đại cương có điều kiện va chạm và cọ sát với thực tiễn xã
hội, qua đó góp phần nhìn nhận lại các khái niệm và lý thuyết và rút ngắn khoảng
cách giữa lý luận và thực tiễn cuộc sống.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua mô tả và giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tham gia của
người dân, nghiên cứu sẽ khuyến nghị các giải pháp mang tính thực tiễn cho các
nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách. Cụ thể, nghiên cứu sẽ khuyến nghị
những giải pháp tăng cường hiệu quả của sự tham gia của người dân trong việc lập
kế hoạch phát triển thôn bản, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, trong
phát triển cơ sở hạ tầng ở cơ sở.
Kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở tham khảo cho việc huy động sự tham gia của
người dân ở các vùng nông thôn, qua đó tạo điều kiện cải thiện toàn diện chất lượng
cuộc sống và phúc lợi xã hội cho các cộng đồng dân cư nông thôn. Ngoài ra kết quả
nghiên cứu cũng sẽ làm cơ sở tham khảo cho các cơ quan thiết kế chương trình, dự
án đầu tư hướng vào phát triển toàn diện lĩnh vực nông thôn. Đặc biệt là trong lĩnh
vực giảm nghèo và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Với ý nghĩa này, đề tài sẽ
góp phần vào việc hoàn thiện các phương pháp tiếp cận và các công cụ để huy động

đến mức tối đa sự tham gia tích cực của người dân trong quá trình phát triển.
Nghiên cứu cũng nhằm đưa ra những bằng chứng đáng tin cậy cho sự nhìn nhận lại
vai trò của người dân nông thôn cũng như sự tham gia của họ đối với chính các
quyết định liên quan trực tiếp đến đời sống của họ dưới góc độ xã hội học. Như đã
đặt vấn đề ở phần mở đầu, sự nghiệp phát triển nông thôn là công việc của chính
người dân nông thôn, với ý nghĩa đó họ phải được tham gia vào các quá trình kinh
tế xã hội diễn ra và có ảnh hưởng đến chính cuộc sống của họ bằng các phương
pháp và công cụ hiệu quả nhất.
Ngoài ra, với tỷ lệ dân cư sinh sống ở vùng nông thôn cao, nghiên cứu cũng mong
muốn góp phần xác định lại những ảnh hưởng mang tính tất yếu của các cộng đồng
dân cư nông thôn đối với toàn bộ tiến trình hình thành và phát triển xã hội nông
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
5
thôn và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập
và mở cửa.
Cuối cùng, trên cơ sở toàn bộ kết quả nghiên cứu, đề tài cũng mong muốn sẽ đóng
góp được một phần đối với chính quyền địa phương trong việc quản lý đời sống
kinh tế xã hội ở nông thôn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm chỉ ra thực trạng về sự tham gia của người dân trong việc
phát triển cở sở hạ tầng ở nông thôn.
Qua đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia, dự báo xu hướng của việc
người dân tham gia trong tương lai.
Nghiên cứu sẽ đưa ra một số kết luận và khuyến nghị cho việc huy động sự tham
gia của cộng đồng vào phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn.
Dựa vào mục đích đã nêu, nghiên cứu sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau:
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
 Làm rõ những khái niệm, những cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp

luận nghiên cứu vấn đề sự tham gia của cộng đồng.
 Khái quát một số nghiên cứu về sự tham gia của người dân và quá trình
phân cấp trên thế giới và Việt Nam.
 Phân tích thực trạng về sự tham gia của người dân trong phát triển cơ sở hạ
tầng thông qua việc làm rõ nội dung, hình thức và hiệu quả của sự tham
gia. Phân tích các nguyên nhân thành công và thất bại trong quá trình huy
động sự tham gia của người dân.
 Phân tích và làm rõ vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của
người dân trong phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, qua đó dự báo xu
hướng về sự tham gia.
 Đưa ra các kết luận, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp, các khuyến nghị
cho việc huy động sự tham gia của người dân đạt hiệu quả cao.
4. Đối tƣợng khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự tham gia của cộng đồng dân cư trong việc
phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
6
4.2 Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là những người dân nông thôn tại hai tỉnh Thanh
Hóa và Bình Phước.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: nghiên cứu được tiến hành tại xã Bù Gia Mập - Phước Long -
Bình Phước và xã Thành Minh - Thạch Thành – Thanh Hóa.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2006.
4.4 Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng dân cư trong việc phát triển cơ sở
hạ tầng. Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng dân cư là một quá trình rộng lớn và
đề tài này sẽ không đề cập đến phạm vi rộng lớn đó. Đề tài chỉ đề cập đến những

nội dung tham gia cơ bản nhất của người dân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng quy
mô nhỏ ở cấp thôn bản. Cụ thể, đề tài sẽ tập trung vào phân tích sự tham gia của
người dân trong việc xây dựng các loại hình công trình sau:
Đường giao thông nông thôn (bao gồm cả cầu và đập tràn);
Trường học;
Trạm y tế;
Nhà sinh hoạt cộng đồng/ nhà văn hóa;
Chợ nông thôn;
Công trình thủy lợi nhỏ; và
Công trình nước sạch.
Nghiên cứu sẽ tiến hành phân tích sự tham gia của người dân ở việc tiếp nhận thông
tin, họp lựa chọn công trình, tham gia vào Ban điều phối dự án xã, tham gia vào tổ
giám sát và vận hành bảo dưỡng công trình và tham gia đóng góp các nguồn lực cho
việc xây dựng các công trình. Ngoài ra, nghiên cứu cũng sẽ tiến hành phân tích một
số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tham gia như đặc điểm nhân khẩu xã hội, vai trò
của chính quyền cơ sở, của các tổ chức trung gian và một số yếu tố về thể chế chính
sách. Sự tham gia của cộng đồng trong nghiên cứu này được xem xét như một quá
trình, từ giai đoạn lựa chọn công trình cho đến khi công trình hoàn thiện và bàn giao
cho cộng đồng quản lý và sử dụng. Thông qua quá trình đó, sự tham gia của cộng
đồng sẽ được biểu hiện ra ở nhiều khía cạnh mang tính xã hội như: hình thức tham
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
7
gia, mức độ tham gia, hiệu quả tham gia và các tác động về mặt xã hội của sự tham
gia đó đối với việc cải thiện đời sống của họ.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghhiên cứu
5.1 Phương pháp luận
5.1.1 Phương pháp luận Mác – Lênin
Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử cho rằng, thực tế xã
hội có thể nhận thức được; và quá trình nhận thức này phải đi từ đơn giản đến phức

tạp, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ khía cạnh bên ngoài, không
bản chất của các hiện tượng xã hội đến khía cạnh sâu hơn của chúng. Điều đó cũng
có nghĩa rằng nhận thức xã hội cần phải bắt đầu từ những nghiên cứu thực nghiệm,
song không dừng lại ở đó. Nói cách khác, không chỉ nên dừng lại ở việc mô tả, quan
sát, phân loại các sự kiện mà phải tiếp tục đi xa hơn, sâu hơn vào bản chất của sự
kiện xã hội để chỉ ra được tính quy luật xã hội học, để tạo ra các giả thuyết mới, các
quan điểm và nhận định khoa học mới cũng như các lý thuyết mới và chính từ các
giả thuyết mới này xuất hiện sự cần thiết các cuộc nghiên cứu xã hội học mới để
kểm tra và khẳng định giả thuyết đó. Quá trình này được tiếp tục sẽ giúp chúng ta
nhận thức được ngày càng sâu sắc về bản chất của thực tế xã hội [23; 60].
Mặt khác, trong các nghiên cứu xã hội học, phương pháp luận triết học Mác xít yêu
cầu không được xem xét các hiện tượng xã hội một cách siêu hình, mà phải xem xét
chúng một cách biện chứng. Có nghía là các hiện tượng xã hội cần phải được xem
xét một cách hệ thống, chúng cần phải được đặt trong tương quan liên hệ với các sự
vật hiện tượng xã hội khác; và chúng cần phải được xem xét trong mối quan hệ có
tính quy luật, có sự phục thuộc và quyết định lẫn nhau.
Các sự kiện,hiện tượng xã hội không thể được nghiên cứu như những vật thể bất
động, hoặc chỉ có sự thay đổi về số lượng; mà chúng cần phải được nghiên cứu và
xem xét như là đang trong trạng thái vận động có tính quy luật, trong đó nhìn nhận
sự phát triển bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng Các sự vật hiện tượng cần
phải được xem xét ở cả mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài để từ đó có
thể thấy được nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Các nghiên cứu xã hội học cũng cần phải được đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Có
nghĩa là ki phân tích một sự vật hiện tượng xã hội thì cần phải xuất phát từ thực tế
lịch sử xã hội cụ thể chứa đựng sự vật hiện tượng đó. Thực tế lịch sử cần được xem
xét như cơ sở, mục tiêu, tiêu chuẩn của thông tin thực nghiệm [23; 61].
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
8
Vì vậy, đề tài sẽ xem xét sự tham gia của cộng đồng dân cư trong phát triển cơ sở

hạ tầng ở nông thôn không phải là một hoạt động mang tính đơn lẻ, mà nó có mối
liên hệ biện chứng cũng như mối liên hệ nhân quả với các quá trình kinh tế xã hội
khác. Có nghĩa là sự tham gia của người dân, một mặt sẽ tác động lên các quá trình
xã hội khác như là một nguyên nhân mang tính khách quan; mặt khác nó lại bị tác
động bởi các yếu tố xã hội khác ở ngay chính xã hội nông thôn như một hệ quả tất
yếu.
5.1.2 Một số lý thuyết được sử dung trong nghiên cứu
5.1.2.1 Lý thuyết phát triển cộng đồng
Phát triển cộng đồng như một khái niệm lý thuyết và thực hành xuất hiện vào những
năm 1940 tại các nước thuộc địa của Anh. Năm 1950, Liên hiệp quốc công nhận
khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng khái niệm
này như một công cụ để thực hiện các chương trình phát triển quốc gia với nhiều
chương trình việc trợ quy mô lớn về kỹ thuật, phương pháp và tài chính vào thập kỷ
50 – 60 của thế kỷ trước.
Lý thuyết phát triển cộng đồng dựa trên nguyên lý cho rằng mục tiêu cuối cùng của
PTCĐ là tạo ra sự chuyển biến xã hội trong đó tăng cường năng lực tổ chức, khả
năng đoàn kết xã hội, hướng tới khả năng nâng cao tính cộng đồng.
Trọng tâm của PTCĐ là con người (thành viên của cộng đồng) và phát triển con
người vì con người. Điều này có nghĩa thước đo của phát triển được hiểu theo nghĩa
rộng của khái niệm này, tăng trưởng kinh tế chỉ là một trong những khía cạnh của
phát triển. Những tiến bộ về vật chất không kèm theo sự phát triển của khả năng con
người và định chế xã hội chỉ là những thành công có tính thời hạn và không bền
vững. Do vậy, mục tiêu bao trùm của PTCĐ là góp phần mở rộng và phát triển các
nhận thức và hành động có tính chất hợp tác trong cộng đồng, phát triển năng lực
tự quản cộng đồng. Mục tiêu tổng quát trên được thể hiện dưới 4 khía cạnh sau:
- Hướng tới cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng, với sự cân bằng về
vật chất và tinh thần, qua đó, tạo những chuyển biến xã hội trong cộng đồng.
- Tạo sự bình đẳng trong tham gia của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng, kể
cả các nhóm thiệt thòi nhất đều có quyền nêu lên nguyện vọng của mình và
được tham gia vào các hoạt động phát triển, qua đó, góp phần đẩy mạnh

công bằng xã hội.
- Củng cố các thiết chế/ tổ chức để tạo điều kiện cho chuyển biến xã hội và
tăng trưởng.
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
9
- Thu hút sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình phát triển.
Hai khái niệm then chốt của phát triển cộng đồng là tăng cường năng lực và tạo
quyền lực được coi là hai trọng tâm của phát triển cộng đồng, để tạo được điều này,
phát triển cộng đồng phải là một quá trình luôn tiếp diễn. Mục tiêu cuối cùng của
một chương trình phát triển cộng đồng là giúp cho cộng đồng đi từ một tình trạng
kém phát triển, không tự mình giải quyết các vấn đề của riêng mình tới tự lực [27;
50].
Phát triển cộng đồng là một quá trình diễn ra theo các bước tuần tự từ thấp đến cao
bao gồm bước chính là thức tỉnh (nhận diện vấn đề), tăng cường năng lực (chuẩn bị
nguồn lực - tập luyên) và tự lực (tự giải quyết các vấn đề của mình). Trong đó, thức
tỉnh là giai đoạn cộng đồng nhận diện về tình trạng phát triển của mình, xác định
các khó khăn thuận lợi và xác lập những vấn đề ưu tiên. Sau đó cộng đồng sẽ được
tăng cường năng lực thông qua những hỗ trợ từ phía bên ngoài và kết hợp với khả
năng của bản thân để khắc phục những hạn chế và tăng cường kiến thức và kỹ năng
để hành động. Tăng cường hoạt động liên kết, khả năng tổ chức, lãnh đạo và quản
lý để hành động tập thể có hiệu quả hơn. Các hoạt động trong 2 bước nêu trên sẽ
giúp cộng đồng trở nên tự lực. Mục đích cuối cùng không phải là mọi khó khăn,
khủng hoảng không còn nữa, mà mỗi lần gặp khó khăn, cộng đồng có thể tự huy
động nguồn lực từ bên trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề [27; 51].
Phát triển cộng đồng tuân thủ những định hướng nhất định, đó là phát triển cộng
đồng phải dựa trên phương pháp luận từ dưới lên (bottom – up) xuất phát từ nhu
cầu của chính người dân. Muốn tự phát triển chính người dân phải tự ý thức cũng
như tự tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình. Phát triển cộng đồng phải đồng bộ
trên mọi khía cạnh của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội, văn hóa…phải cùng được

nâng lên. Chỉ tiến công vào một khía cạnh thì không thể nào phá vỡ được cái vòng
luẩn quẩn của nghèo đói, dốt nát và bệnh tật. Nguồn lực thì có hạn nhưng tính đồng
bộ của sự phát triển luôn đòi hỏi các chương trình phải có tính toán các điểm đột
phá khẩn, từ đấy tìm ra chìa khóa của sự phát triển. Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh sự
tham dự của quần chúng và coi đó là đường lối phát triển cộng đồng. Yếu tố tổ chức
là hết sức quan trọng. Các tổ chức thuộc chính quyền địa phương phải được điều
chỉnh để thực hiện chưc năng phát triển, cũng như phải hỗ trợ để xây dựng và củng
cố các tổ chức của người dân tại cộng đồng. Sự tham gia của chính quyền phải được
coi như một nhân tố bên trong, nó không phải là một lực lượng đứng bên ngoài
hoặc bên trên cộng đồng, mà là một thành phần quan trọng của cộng đồng [27; 49].
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
10
Yêu cầu đối với phát triển cộng đồng là phải tạo được những chuyển biến xã hội.
Đó là sự thay đổi nhận thức, hành vi của người dân nhằm mục đích phát triển. Đó là
việc tạo được chuyển biến trong cơ cấu tổ chức và các mối tương quan lực lượng
trong chính cộng đồng đó. Ngoài ra, phát triển cộng đồng cũng yêu cầu một sự phát
triển năng lực trên cơ sở không “làm thay”, “làm cho” người dân. Người dân
không thể hành động nếu thiếu năng lực. Họ cũng không thể hành động đơn
phương, riêng lẻ mà phải kết hợp với các cá nhân, tổ chức cùng một chí hướng và
quyền lợi để tạo thành quyền lực chung. Muốn cho người dân tự làm thì tổ chức
thông qua đào tạo, huấn luyện là then chốt. Ngoài ra hoạt động đánh giá cũng là
một bước quan trọng để “đo lường” hiệu quả xã hội của các dự án phát triển cộng
đồng và mở ra những vấn đề mới cho cộng đồng. Từ đó tăng cường tính hiệu quả
của các dự án [27; 49].
Phát triển cộng đồng phải tuân thủ theo những quy tắc hành động nhất định trên cơ
sở niềm tin rằng mọi người dân và các cộng đồng hoàn toàn có khả năng giải quyết
các vấn đề của họ trong cuộc sống. Năng lực tự quản là một năng lực tự có và tiềm
ẩn trong các cộng đồng, vấn đề của phát triển cộng đồng là cần đánh thức hoặc củng
cố năng lực đó. Phát triển cộng đồng chỉ có thể thành công trên cơ sở xuất phát từ ý

chí và nội lực từ bên trong. “Làm thay, “nghĩ hộ” là những tư duy và hành động xa
lạ với phát triển cộng đồng. Mọi chương trình hành động phải do cộng đồng tự
quyết nhằm bảo đảm tính tự chịu trách nhiệm của họ. Trong phát triển cộng đồng,
cần chú ý và đảm bảo tính dân chủ và công bằng xã hội trên cơ sở tôn trọng lợi ích
chung của cộng đồng. Tuy nhiên, dân chủ đòi hỏi một quá trình làm quen, trong đó
hình thức dân chủ nhất chính là tính tổ chức và tính kỷ luật. Hoạt động phát triển
cộng đồng là các hoạt động mang tính nhân - quả, muốn tạo ra hiệu quả mang tính
tổng thể phải có một chuỗi các hoạt động liên quan và phụ thuọc lẫn nhau. Bên cạnh
đó, phát triển cộng đồng cần ưu tiên các hoạt động mang tính đột phá cũng như các
mục tiêu ưu tiên trên cơ sở đặt trong một cách nhìn mang tính tổng thể. Phát triển
cộng đồng bao gồm các đối tượng ưu tiên là người nghèo và người thiệt thòi.
Nghèo, dân trí thấp…là các vấn đề của phát triển cộng đồng. Các hình thức hợp tác
là cơ sở để phát huy tinh thần trách nhiệm và tinh thần cộng đồng trong phát triển
cộng đồng. Song song với nó, cần xây dựng và củng cố khả năng hợp tác để cộng
đồng có khả năng ứng phó trong các tình huống nảy sinh khó khăn. Việc xác định
những hỗ trợ từ bên ngoài từ chuyên môn đến các nguồn lực vật chất – tài chính là
rất cần thiết đối với công tác phát triển cộng đồng. Tuy nhiên, các vấn đề đó chỉ
được coi là chất xúc tác. Điều quan trọng là “cách nghĩ” và “cách làm” của người
dân đã thay đổi đến mức độ nào [27; 53].
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
11
5.1.2.2 Lý thuyết về Xã hội dân sự/ xã hội công dân (civil society)
Hiện nay ở Việt Nam đang diễn ra các cuộc luận đàm về các hiện tượng và thực tế
hoạt động của các hiệp hội; người ta nhận thấy ngày càng có nhiều quan tâm tới các
tổ chức ở trong nước với thực tế là con số các tổ chức ngày càng tăng lên trong hầu
hết các lĩnh vực của cuộc sống. Thậm chí nhà nước cũng ngày càng quan tâm hơn
tới các tổ chức và làm sao để cho các tổ chức này đóng một vai trò hữu ích hơn
trong việc phát triển xã hội và hạn chế tham nhũng. Mặc dù hầu hết mọi người dân
cho rằng các tổ chức quần chúng là các tổ chức phổ biến chủ yếu ở Việt Nam, Kế

hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội 2006-2010 (SEDP) - chiến lược phát triển của
Việt Nam cho thời gian tới do Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 10 tổ chức vào tháng
4/2006 phê duyệt, đã đề cập tới sự tồn tại và khả năng tham gia của các tổ chức
khác nhau. Chỉ riêng điều đó thôi cũng là một minh chứng về sự quan tâm của chính
phủ và dân chúng đang tăng lên [9; 7].
Xã hội Dân sự là: Vũ đài nằm ngoài gia đình, nằm ngoài Nhà nước, nằm ngoài thị
trường, là nơi người dân liên kết với nhau để thúc đẩy các quyền lợi chung [9; 7].
Hình 1. Ranh giới mờ nhạt của vũ đài xã hội dân sự

[Nguồn: Irene Norlund, Khỏa lấp sự cách biệt: Xã hội dân dự mới nổi tại Việt
Nam, Hà Nội – 2007].
Như đã được trình bày bằng hình vẽ nêu trên, điểm quan trọng về định nghĩa này là
rộng và mở, và nó nhấn mạnh vào các ranh giới mờ nhạt giữa các khu vực khác
nhau, đây là một vấn đề vô cùng quan trọng ở một đất nước như Việt Nam, nơi mà
xã hội dân sự có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhà nước và không tách khỏi nhà
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
12
nước, như một số định nghĩa khác đưa ra. Định nghĩa này cũng nhằm mục đích đề
cập đến trong định nghĩa của mình các chức năng hơn là các hình thái của các tổ
chức đó, hay có thể nói là định nghĩa này bao hàm mọi nỗ lực nhằm hỗ trợ các hoạt
động và các giá trị để cải thiện phúc lợi của người dân thông qua các hoạt động từ
thiện, nhân đạo và các phương thức khác.
Luận điểm này coi các tổ chức và các hiệp hội như là cốt lõi của xã hội dân sự, do
các nhóm không chính thức và các liên minh không được tính đến. Việc này mở
rộng định nghĩa về xã hội dân sự vượt ra khỏi giới hạn chỉ là lĩnh vực hiệp hội đoàn
thể để tăng cường các hoạt động nhằm thúc đẩy các quyền lợi chung. Định nghĩa
này hàm chứa đầy đủ và đủ linh hoạt để điều chỉnh đối với các quốc gia riêng biệt,
bởi vì tiêu chí riêng cho việc định nghĩa xã hội dân sự phụ thuộc vào quan điểm
quốc gia.

Từ giữa thập niên 90, một số ít học giả Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu các tổ chức
nhân dân. Vào đầu những năm 2000, một nghiên cứu về các tổ chức công dân đã
được khởi xướng. Các học giả nước ngoài cũng đã bắt đầu viết về đề tài này từ giữa
thập niên 90, nhưng hầu hết các học giả này không xem các tổ chức quần chúng là
một bộ phận của XHDS, đúng hơn, các tổ chức này được xem là một phần của hệ
thống Đảng.
Hiện trạng của các NGO Việt Nam mới nổi cũng gây tranh cãi, do các tổ chức này
không có cơ sở hội viên và lãnh đạo của các tổ chức này đa phần xuất phát từ các cơ
quan Nhà nước hoặc cơ quan Đảng. Hầu hết các tổ chức này không được xếp loại tổ
chức độc lập. Theo tiêu chí nổi bật nhất (tân-tự do), cơ bản ở Việt Nam là không có
XHDS, cho dù một vài tổ chức có tiềm năng phát triển thành một XHDS
2
.
Một trong những thách thức căn bản để hiểu XHDS ở Việt Nam là đương đầu với
thực tế là các tổ chức không độc lập với Nhà nước và Đảng mà ngược lại gắn kết
chặt chẽ với nhau và với Nhà nước. Kể từ sau cuộc cách mạng, nhà nước đã xem
khu vực nhà nước là quan trọng bậc nhất ở Việt Nam, và theo như các học thuyết
Mác-xit Lê-nin-nít, Nhà nước trở thành một cơ quan định ra khuôn khổ cho các tổ
chức công dân hoặc XHDS. Tuy nhiên, kể từ sau công cuộc Đổi mới, các tổ chức
và các hiệp hội đã diễn ra ở các hình thức, chức năng và mục tiêu hoàn toàn khác
nhau, và không nghi ngờ gì, trong thập niên 90, họ đã có được một vai trò quan
trọng.

2
Mark Sidel là một trong những học giả đầu tiên chỉ ra số lượng lớn các tổ chức ở Việt Nam trong Sidel (1995). Sự nổi lên của khu
vực phi lợi nhuận và từ thiện tại nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong: Tadashi Yomamoto ed. (1995) Xã hội Dân sự
mới nổi trong Cộng đồng Châu á Thái Bình Dương. Singapore, ISEAS.

Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn

13
Mỗi loại hình tổ chức nổi lên trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các nhóm ở
làng xã, các nhóm dựa vào tín ngưỡng có lịch sử lâu đời nhất, đã tồn tại ở các làng
xã từ hàng thế kỷ nay. Các tổ chức quần chúng được thành lập gắn với sự thành lập
Đảng Cộng sản vào năm 1930 và cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Các tổ
chức này được xem là các tổ chức trung gian giữa Đảng và người dân tiếp sau cuộc
cách mạng và sự thiết lập quyền lực của Đảng vào năm 1954 ở miền Bắc, và 1975 ở
miền Nam. Kể từ công cuộc đổi mới, đặc biệt là cuối thập niên 80, các tổ chức
quần chúng dù sao cũng đã thay đổi về mặt hình thức. Họ ít nhận được sự quan tâm
hỗ trợ từ phía Nhà nước và phải hoạt động một cách bán độc lập với tổ chức Đảng.
Số lượng các tổ chức và các câu lạc bộ cơ sở trực thuộc các tổ chức quần chúng đã
mở rộng một cách đáng kể từ cuối thập niên 90. Hội phụ nữ và Hội Nông dân đặc
biệt phát triển mạnh, đầu tiên là ở các vùng nông thôn, và các NGO Việt Nam đã
bắt đầu nổi lên vào đầu và giữa thập niên 90 là một loại hình các tổ chức mới. Vào
giữa những năm 2000, các học giả, các nhà tài trợ và các tổ chức đã chấp thuận
rộng rãi hơn rằng trên thực tế có một xã hội dân sự đang hoạt động ở Việt Nam cho
dù chỉ có hệ thống chính trị một đảng của đất nước.
Xã hội dân sự được định nghĩa trong tài liệu này là vũ đài bên ngoài gia đình, nhà
nước và thị trường và là nơi mà người dân tụ hợp lại với nhau để thúc đẩy những
quyền lợi chung. Định nghĩa này chỉ đúng với Việt Nam với một thực tế là ranh giới
giữa nhà nước và xã hội dân sự là rất không rõ ràng. Người ta lập luận rằng nếu xét
trong bối cảnh toàn diện của xã hội dân sự, tất cả các tổ chức phải được coi là một
bộ phận của xã hội dân sự, các tổ chức này bao gồm cả các tổ chức quần chúng, mô
hình tổ chức phổ biến nhất, ở tất cả các cấp và tại hầu hết các địa phương (đặc biệt
là Hội Liên hiệp Phụ nữ và Hội Nông dân). Các tổ chức này triển khai các chiến
dịch do nhà nước khởi xướng, nhưng họ cũng thực hiện hàng ngàn dự án và chương
trình tín dụng cho người nghèo, và các chi nhánh cơ sở của các tổ chức quần chúng
này có mức độ độc lập đáng kể để đáp ứng được các nhu cầu của cộng đồng. Thứ
hai, có các hiệp hội nghề nghiệp tập hợp những người có cùng lợi ích nghề nghiệp
trong nhiều lĩnh vực tại hầu hết các tỉnh thành. Thứ ba, các NGO Việt Nam, đa số là

có trụ sở tại các thành phố nhưng lại thực hiện các dự án tập trung hơn vào một vài
lĩnh vực trên toàn quốc và thường trú trọng vào các dự án về phát triển, giới, y tế và
phát triển cộng đồng. Cuối cùng, các CBO đang phát triển nhanh chóng, trú trọng
vào các dịch vụ dân sinh ở cấp cơ sở tại nhiều tỉnh thành. Sự vững mạnh của xã hội
dân sự được thể hiện qua việc gia tăng về số lượng và tính đa dạng của các tổ chức
xã hội dân sự ở các cấp, sự tham gia tích cực vào các Đánh giá Nhiều bên của hàng
ngàn dự án trên cả nước và các cuộc thảo luận công khai trên báo chí.
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
14
Đối với các tổ chức chính thống hơn thì vai trò của nhà nước là tối quan trọng, vì
chính nhà nước thiết lập khuôn khổ chính thức cho các tổ chức này. Nếu như các tổ
chức quần chúng có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, thì hiện nay số lượng các tổ
chức dân sự thậm chí còn lớn hơn và rộng hơn về hoạt động, và đã vượt ra ngoài
tầm kiểm soát của nhà nước. Tuy nhiên, hiện có thể chưa thích hợp khi gọi các tổ
chức này là tự quản, vì vẫn có sự liên kết và sự chồng chéo về đặc tính hoạt động
với các tổ chức được nhà nước bảo trợ. Nhà nước không cấm các tổ chức, điều này
được minh chứng bằng số lượng lớn các hội viên. Mặt khác, nhà nước tham gia vào
việc lãnh đạo của Đảng nhiều hơn là trong xã hội dân sự. Dự thảo Luật về Hội đã
cho thấy nhà nước vẫn đang cân nhắc việc quản lý xã hội dân sự, điều này ngược
với tính chất của hội và tổ chức là dựa trên các sáng kiến của nhân dân.
Cho dù có sự chồng chéo giữa nhà nước, Đảng và xã hội dân sự tại Việt nam, động
lực của xã hội dân sự không thể được hiểu một cách đơn giản là vì nhà nước chống
lại xã hội dân sự. Đã có nhiều thay đổi liên quan đến các hoạt động trong phạm vi
của nhà nước. Tuy nhiên, cũng có các hoạt động diễn ra bên ngoài hoặc, ít nhất là
tại phần rìa ngoài phạm vi của nhà nước, trong các nhóm được hình thành ở cấp cơ
sở - thậm chí là cả trong các tổ chức quần chúng. Các nhóm này gồm các nhóm tôn
giáo, nhóm dân tộc thiểu số, các nhóm văn hoá nghệ thuật và các hình thức khác
nhau của hoạt động dân sinh. Điều này hoàn toàn khác với ý tưởng về các dự án của
CSI, trong đó tính tự chủ là điều quan trọng đối với các hội.

Kể từ khi bắt đầu đổi mới và đặc biệt là từ khi nền kinh tế phát triển nhanh cùng với
các thay đổi về xã hội trong thập kỷ qua, chính phủ đã phải đối mặt với các vấn đề
xã hội gia tăng cùng với phát triển và tăng dân số. Các vấn đề mới nổi lên đặt ra
nhiều thách thức mới đối với chính phủ; còn chính phủ thì chưa được trang bị đầy
đủ để tự thực hiện các nhiệm vụ này. Chính phủ chú trọng vào hỗ trợ cơ sở hạ tầng
của bệnh viện và trường học, với các chiến dịch quốc gia để kiểm soát bệnh dịch và
cung cấp dịch vụ cho trẻ em nghèo. Hệ thống y tế của Việt Nam chưa phát triển tốt,
và với việc áp dụng các chính sách .xã hội hoá., chính phủ không thể hoặc không
sẵn sàng tự mình gánh tránh nhiệm cải thiện các dịch vụ xã hội. Xã hội dân sự có
thể giúp nhận biết và xác định các vấn đề, và có thể giúp cung cấp các dịch vụ cần
thiết. Xã hội dân sự có thể giúp đỡ một cách hiệu quả hơn khi có những nhu cầu
thiết yếu hỗ trợ người nghèo, những người ốm yếu, những người tàn tật hoặc những
người ít được tiếp cận hỗ trợ xã hội, chẳng hạn như ở các khu vực nông thôn. ở
thành phố, có rất nhiều vấn đề mới đối với trẻ em đường phố, nạn mại dâm, buôn
bán trẻ em và phụ nữ, HIV/AIDS và nạn nghiện hút. Có những cách biệt và nhu cầu
mà xã hội công dân có thể thu hẹp và đáp ứng được còn nhà nước thì không thể bao
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
15
quát hết. Do đó, nhu cầu cần phải được nhận biết, và xã hội dân sự phải tham gia
tích cực hơn để xác định nhu cầu và hỗ trợ cho những nơi có nhu cầu lớn nhất.
Bằng việc tạo cho xã hội dân sự một tiếng nói rõ ràng hơn trong mọi khía cạnh của
cuộc sống, không chỉ trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mà còn trong việc nâng cao
năng lực và các hoạt động ủng hộ ở các cấp, một quốc gia sẽ đạt được sự phát triển
kinh tế và xã hội đồng đều hơn. Ngoài ra, xã hội dân sự có một vai trò tiềm tàng rất
quan trọng trong việc tăng cường tính minh bạch và chống tham nhũng.
Sức mạnh của xã hội dân sự là tính chất đa dạng dựa trên hoạt động và tính sáng tạo
của con người. Việt Nam vẫn là một nước nghèo và phải đối mặt với nhiều rào cản
để vượt qua đói nghèo và sự bất bình đẳng đang gia tăng. Việt Nam cũng phải phát
huy hết tiềm năng kinh tế xã hội và giải phóng tiềm năng con người để giúp đỡ

những người bất hạnh. Trong khi đó, nhà nước có thể hỗ trợ và khuyến khích xã
hội dân sự thông qua nhiều hình thức hợp tác khác nhau. Nhà nước là người có
trách nhiệm sau cùng đối với người dân bằng cách đảm bảo giải quyết các thách
thức mới theo cách mà có thể giúp tăng cường phúc lợi cho nhân dân, nhưng nhà
nước có thể phối hợp với xã hội dân sự, và xã hội dân sự cũng có thể đóng góp bằng
cách tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước.
5.1.2.3 Luận điểm về phát triển nông thôn bền vững
Một định nghĩa được nêu ra ở đây là: Phát triển Nông thôn là…một quá trình thay
đổi bền vững có chủ ý về xã hội, kinh tế, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao
chất lượng đời sống của người dân địa phương.
Phát triển nông thôn bền vững nhấn mạnh vào quá trình có chủ ý và bền vững. Phát
triển nông thôn không phải là một công việc làm trong một thời gian ngắn. Nó cần
phải được theo đuổi trong một thời gian dài nhiều năm và có chủ ý. Nó cũng nhấn
mạnh vào nâng cao đời sống của người dân địa phương. Một số phát triển “địa
phương” (hoặc “khu vực”) trước đây được khuyến khích do nhu cầu quốc gia (như
điện, nước hoặc quốc phòng), hơn là nhu cầu của bản thân người dân địa phương.
Nhu cầu quốc gia tất nhiên có thể được đáp ứng thông qua phát triển nông thôn, và
bất cứ sự đáp ứng thành công nào nhu cầu địa phương sẽ đóng góp gián tiếp cho sự
phồn thịnh của quốc gia. Nhưng khái niệm hiện đại về phát triển nông thôn nhấn
mạnh hàng đầu vào việc đáp ứng nhu cầu của người dân nông thôn. Phát triển nông
thôn đang được theo đuổi ở hầu hết các nước trên thế giới. Rất nhiều người tham
gia trong lĩnh vực này cho rằng phát triển nông thôn có một số đặc điểm, đó là một
sự phát triển toàn diện, dựa vào cộng đồng và mang tính bền vững.
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
16
Toàn diện nghĩa là sự phát triển đó phải là cả “từ trên xuống” và “từ dưới lên”. Nó
phải bao trùm chính sách, tiền tệ và hỗ trợ của Chính phủ (ở mọi cấp) và năng lực,
tài nguyên và sự tham gia của người dân. Quá trình đó cũng phải có sự tham gia của
mọi khu vực (nhà nước, tư nhân, tình nguyện viên) và phải dựa trên tinh thần hợp

tác và cộng tác.
Để phát triển nông thôn mang tính toàn diện, cần phải nhấn mạnh vào bốn trụ cột
của nó, đó là con người ( cùng với kỹ năng của họ), kinh tế, môi trường, ý tưởng và
tổ chức. Các yếu tố trên phải được giữ trong thế cân bằng với nhau, như các chân
của một con trâu, hoặc các cột trụ của một tòa nhà. Ví dụ, nếu một dự án phát triển
phục vụ cho nhu cầu xã hội và kinh tế của một cộng đồng nông thôn, nhưng hủy
hoại môi trường, thì như vậy sẽ không phát triển cân bằng hoặc bền vững.
Phát triển dựa trên cộng đồng. Chúng ta đã nhấn mạnh phát triển nông thôn
là…một quá trình thay đổi có chủ ý, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho
người dân địa phương.
Với ý nghĩa này, phát triển nông thôn là cho người dân. Nhưng nó cũng phải được
theo đuổi với con người, và do con người. Tóm lại phát triển phải dựa trên cộng
đồng. Điều này có nghĩa là phát triển nông thôn phải dựa trên lợi ích, sự tham gia
của cộng đồng sống trong khu vực đó. Nói "cộng đồng" chúng ta ý nói tất cả người
dân sống trong một khu vực nông thôn cụ thể - đa số và thiểu số, người già và trẻ,
đàn ông và đàn bà, người giàu và người nghèo…Họ là cơ sở cho phát triển nông
thôn bền vững vì họ biết rõ nhất những khó khăn và nhu cầu của mình. Họ quản lỳ
nguồn tài nguyên như đất đai, nhà xưởng, sản phẩm địa phương mà quá trình phát
triển phải dựa vào đó. Kỹ năng, truyền thống, kiến thức và năng lực của họ là tiềm
năng chính để phát triển; và sự cam kết của họ là sống còn (nếu như họ không ủng
hộ một kế hoạch nào, kế hoạch đó sẽ không thực hiện được). Hơn thế nữa, một cộng
đồng càng phát triển và năng động, thì càng có khả năng thu hút người dân ở lại, và
giữ họ không di chuyển đi nơi khác.
Phát triển nông thôn bền vững. Chính phủ Việt Nam đã cam kết theo đuổi những
nguyên tắc của phát triển bền vững, đã được thông qua tại "Hội nghị thượng đỉnh về
Trái đất" tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992. Những nguyên tắc này nhấn mạnh
vào một cách nhìn lâu dài về xã hội con người và việc con người sử dụng tài nguyện
thiên nhiên của Thế giới. Trong bối cảnh đấy, phát triển bền vững được định nghĩa
như sau: "Phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" (Báo cáo Brundtland

1987) .
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
17
Một định nghĩa khác về phát triển bền vững cũng được sử dụng thường xuyên là
"Phát triển tạo ra dòng chảy liên tục các lợi ích về xã hội, kinh tế và môi trường"
Các định nghĩa trên có thể là một điểm xuất phát có ích để suy nghĩ về sự bền vững
có ý nghĩa gì trong phát triển nông thôn. Nhưng chúng ta không đưa ra cơ sở để
đánh giá một chương trình hoặc một dự án cụ thể có thực sự bền vững hay không.
Chúng ta cần một định nghĩa có thể hỗ trợ cho việc đánh giá đó, và phản ánh tầm
quan trọng của cách tiếp cận toàn diện và phát triển dựa vào cộng đồng.
Quan điểm
3
của Chính phủ Việt Nam cũng cho rằng, “Phát triển nông thôn là một
công tác phức tạp. Nó đòi hỏi sự đóng góp của toàn dân, của tất cả các tổ chức
cũng như sự hỗ trợ của Nhà nước. Đó là sự cộng tác giữa Chính phủ và nhân
dân.Phát triển nông thôn là công việc chính của người dân nông thôn với sự giúp
đỡ tích cực của Chính phủ”.
Cụm từ thứ ba nêu trên là vô cùng quan trọng. Nó đặt sự chủ động trong phát triển
nông thôn với “nhân dân, với sự giúp đỡ của Chính phủ”. Tuy vậy, Chính phủ đóng
vai trò quan trọng với tư cách là người hỗ trợ cơ bản cho quá trình lớn và rộng khắp
mang tính quốc gia này. Chương trình Phát triển Nông thôn nêu rằng vai trò của
Chính phủ trong phát triển nông thôn là tổ chức, chỉ đạo và phối hợp các hoạt
động”, đồng thời công nhận vai trò chủ chốt của bản thân người dân nông thôn.Sự
cần thiết giao trách nhiệm, ở nơi thích hợp, cho các chính quyền tỉnh và cơ sở. Vai
trò của các tổ chức quần chúng, các nhóm tự giúp đỡ nhau và các hợp tác xã kiểu
mới; và hoạt động đang phát triển của khu vực tư nhân. Vai trò của Chính phủ trong
phát triển nông thôn là vai trò lãnh đạo, nhưng không phải chỉ là vai trò diễn xuất.
Chính phủ tổ chức, chỉ đạo và phối hợp hành động của hàng loạt các cơ quan, tổ
chức và các lợi ích, những người đóng góp cho quá trình phát triển nông thôn to lớn

này. Phát triển nông thôn phụ thuộc vào sự đóng góp tích cực của các tổ chức khác
nhau trong các khu vực công cộng, tư nhân và tình nguyện. Những tổ chức này có
vai trò bổ sung cho vai trò của Chính phủ và của các tổ chức viện trợ nước ngoài.
Trong bối cảnh của chính sách “đổi mới” và của việc giao một số chức năng của
Chính phủ cho địa phương, tính chất của nhiều trong số những tổ chức này, và tầm
quan trọng tương đối của vai trò của họ ở Việt Nam đang thay đổi dần. Các chính
quyền tỉnh, huyện và cơ sở, kể cả các Ủy Ban nhân dân, họ có thể đóng vai trò ngày
càng tăng không chỉ trong việc cung cấp và bảo dưỡng các cơ sở hạ tầng vật chất và
xã hội mà còn trong việc quản lý các chương trình phát triển. Các tổ chức quần
chúng, bao gồm những tổ chức đại diện cho nông dân, phụ nữ, thanh niên và cựu

3
Chương trình Phát triển Nông thôn” của Chính phủ xuất bản năm 1996
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
18
chiến binh: họ có thể giúp huy động công sức và tiền tiết kiệm của các thành viên
trong tổ chức của họ và có thể cung cấp các dịch vụ mở rộng, đào tạo và tín dụng.
Các hợp tác xã kiểu mới có thể có vai trò chủ yếu trong việc giúp đỡ các thành viên
có được những hàng hóa, và tiêu thụ sản phẩm của họ và có được các thông
tin…Các ngân hàng và hiệp hội tín dụng đang đương đầu với thách thức để có thể
huy động thêm tiền tiết kiệm và cung cấp tín dụng là những thứ thiết yếu đối với
nông dân và các doanh nghiệp nhỏ khác.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để giải quyết những vấn
đề xã hội này ở những vùng nông thôn. Chiến lược tới năm 2010 đã đề ra cần phải
nỗ lực hơn nữa để giảm nghèo và tăng mức thu nhập bình quân của cư dân nông
thôn.
Phát triển dựa vào cộng đống, theo tinh thần này, việc phát triển nông thôn là vì
dân. Nhưng nó cần được thực hiện cùng với sự tham gia của người dân và do dân.
Nói tóm lại nó cần dựa vào cộng đồng. Điều đó có nghĩa là sự phát triển nông thôn

cần dựa vào các lợi ích và sự tham gia của cộng đồng sống trong khu vực. Bởi,
“cộng đồng”, chúng tôi muốn nói tới tất cả những người sống ở vùng nông thôn nào
đó, bao gồm đại bộ dân và tất cả các dân tộc thiểu số, người già và thanh niên, đàn
ông và phụ nữ, người giàu và người nghèo v.v…
5.1.2.4 Lý thuyết về vai trò xã hội
Vai trò xã hội của các nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tương ứng.
Nó chính là mặt động của vị thế xã hội, vì nó luôn luôn biến đổi trong các xã hội
khác nhau, thậm chí trong các nhóm xã hội khác nhau.
Để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của từng vị thế xã hội, mỗi cá nhân cần phải
thực hiện những hành động nhất định; và tương ứng với mỗi vị thế sẽ có một loạt
các mô hình hành vi được xã hội mong đợi. Chính mô hình hành vi được xã hội
mong đợi là vai trò tương ứng của vị thế đó.
Trong xã hội nông thôn hiện nay, người dân nông thôn luôn đóng một vai trò nhất
định đối với cộng đồng mà họ sinh sống. Khi nào những người dân này đáp ứng
được các mong muốn mà xã hội kỳ vọng ở họ thì lúc đó họ đã góp phần vào đảm
bảo sự ổn định và phát triển của hệ thống xã hội đó. Ngược lại, khi nào những
người dân này không đáp ứng được những mong đợi từ phía xã hội thì tất nhiên sẽ
dẫn đến xung đột về vai trò.
Với vai trò là những cá nhân tạo thành cộng đồng xã hội đặc thù, từ trong lịch sử
của mình, những người dân nông thôn đã có vai trò nhất định trong bảo vệ và phát
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
19
triển đất nước. Ngày nay, vai trò của người dân nông thôn trở thành trung tâm của
các mục tiêu phát triển nông thôn. Trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn,
người dân vừa là người tham gia, vừa là người giám sát chính quá trình thực hiện
các mục tiêu đó. Do vậy, song song với những vai trò đã được xác lập một cách lâu
bền từ trong quá khứ, người dân nông thôn ngày nay còn được xã hội kỳ vọng thêm
những vai trò mới và cụ thể. Và mức độ cụ thể về vai trò này đến đâu thì trong từng
giai đoạn phát triển nhất định xã hội hiện đại sẽ xác lập.

Tuy nhiên, khi cá nhân tham gia vào nhiều quan hệ xã hội thì họ sẽ mang nhiều vị
thế, và do đó họ sẽ có nhiều vai trò xã hội khác nhau. Và mỗi vai trò sẽ có những
đòi hỏi riêng để thực hiện chúng. Nên lúc này có thể có nhiều đòi hỏi khác nhau ở
nhiều vai trò khác nhau trong cùng một có nhân. Các các nhân đôi khi có thể phối
hợp vai trò, và nhiều khi không thể phối hợp vai trò, nên dẫn đến căng thẳng và
xung đột vai trò.
Vai trò của các các nhân nông thôn hay của các cộng đồng dân cư trong việc phát
triển cơ sở hạ tầng thường có hai mặt tích cực và tiêu cực. Có đôi khi nó là tích cực
với các mục tiêu phát triển này, nhưng lại là tiêu cực với các mục tiêu phát triển
khác; là tích cực ở thời điểm lịch sử này nhưng lại mang tính tiêu cực ở một thời
điểm lịch sử, một hoàn cảnh khác. Chính vì lẽ đó, khi xem xét vai trò của người dân
chúng ta cần đặt nó trong một hoàn cảnh cụ thể với những đòi hỏi và những mục
tiêu phát triển cụ thể của phạm vi và thời kỳ nhất định.
Vận dụng lý thuyết vai trò cho phép tìm hiểu bản chất và những biểu hiện của các
quan hệ xã hội của các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng xã hội ở nông thôn, cho
phép nghiên cứu bản chất các quan hệ xã hội này ở những cấp độ khác nhau. Nhờ
vào thuyết này có thể nghiên cứu được bản chất của những lệch lạc xã hội ở nông
thôn, các xung đột xã hội trong nội bộ cũng như giữa các nhóm, các cộng đồng xã
hội ở nông thôn [28; 51].
Các luận điểm lý thuyết nêu trên sẽ được vận dụng để phân tích sự tham gia của
người dân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, qua đó xác định vai trò
của họ trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Ngoài ra, nó còn được dùng để
phân tích các vai trò của các yếu tố trung gian tác động đến khả năng và hiệu quả
tham gia của cộng đồng.
5.1.2.5 Lý thuyết vốn con người/ vốn xã hội
Ngày nay, con người được xác định là trung tâm của các mục tiêu phát triển. Phát
triển con người vừa là tiêu chí, vừa là mục tiêu cao nhất của phát triển bền vững.
Nói cách khác, phát triển con người là phát triển cấp ba, phát triển xã hội là phát
Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn

20
triển cấp hai, và phát triển kinh tế là phát triển cấp một. Bản chất của sự phát triển
con người thực chất là làm gia tăng giá trị của con người về các mặt: tinh thần, thể
chất, đạo đức, kinh tế kỹ thuật, nghệ thuật, tình cảm xã hội, trí tuệ, pháp lý…Trong
phát triển bền vững hiện nay, phát triển con người được coi là nguyên tắc hạt nhân
để dẫn đến sự thành công.
Con người được coi là một nguồn nhân lực, do đó phát triển nguồn nhân lực là
phương hướng cụ thể để phát triển con người. Tuy nhiên, phát triển con người
không đồng nghĩa với phát triển nguồn nhân lực. Phát triển con người làm gia tăng
các giá trị nói chung của con người, còn phát triển nguồn nhân lực làm gia tăng giá
trị sử dụng con người. Phát triển nguồn nhân lực chủ yếu phát triển mặt công cụ của
con người, như là một nguồn lực tài nguyên, một nguồn vốn và một động lực trong
quá trình phát triển.
Lý thuyết vốn xã hội tập trung vào nguồn lực trong xã hội cũng như cách thức tiếp
cận và sử dụng các nguồn lực đó phục vụ nhu cầu lợi ích cho hành động của cá
nhân. Cụ thể, Lý thuyết vốn xã hội tập trung vào các nguồn lực được tạo ra bởi các
mạng lưới xã hội. Nguồn lực ở đây được xem xét như là những hàng hóa có giá trị
trong xã hội và sự sở hữu nó có thể giúp cá nhân duy trì, cải thiện sự tồn tại và phát
triển của chính họ. Đối với hầu hết các xã hội, nguồn lực được đề cập đến là của cải,
uy tín và quyền lực. Lý thuyết vốn xã hội tập trung vào những hành động của con
người để đạt được và duy trì các nguồn lực này [14].
Khi nói về nguồn lực, người ta thường đề cập đến ba loại nguồn lực chính là: nguồn
lực gán cho, nguồn lực giành được và nguồn lực kế thừa. Nguồn lực gán cho là
nguồn lực được gắn liền với cá nhân đó từ khi sinh ra, như giới và chủng tộc chẳng
hạn. Nguồn lực giành được là những nguồn lực có được do sự nỗ lực phấn dấu của
cá nhân, như học vấn, nghề nghiệp, tài sản…Còn nguồn lực kế thừa là nguồn lực có
được do các cá nhân được kế thừa từ dòng họ, đẳng cấp, tôn giáo hay gia đình. Khi
những nguồn lực này được đầu tư nhằm mục đích trao đổi trong thị trường thì nó
trở thành vốn xã hội.
Người ta cũng phân chia vốn ra làm hai loại là vốn con người và vốn xã hội. Trong

đó vốn con người bao gồm những nguồn lực mà cá nhân chiếm hữu và họ có thể sử
dụng hay loại bỏ nó một cách tự do mà không quan tâm nhiều đến sự thu hồi. Vốn
xã hội bao gồm các nguồn lực được sở hữu bởi một mạng lưới hoặc hiệp hội. Vốn
xã hội không phải là nguồn lực được sở hữu bởi các cá nhân, nhưng nguồn lực đó
có thể đạt được thông qua sự ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp với cá nhân. Do đó,

×