Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục trẻ 24 36 tháng tuổi nhận biết, phân biệt tốt ba màu xanh đỏ vàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.43 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1.Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có
ích, thành những con người mới.
Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục của nước ta là: Làm tốt việc chăm
sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con
người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân
cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực hiện mục tiêu trên.
Ngày nay, chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí thức có khoa học
có tình yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên những con
người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu ước mơ và sáng tạo, những phẩm chất
này, con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn bao
điều tốt đẹp trong tương lai. Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến
hành đổi mới, chương trình giáo dục trẻ mầm non, trong đó đặc biệt coi trọng việc
tổ chức các hoạt động phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ
hoạt động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi. Đồng thời, tạo điều
kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức
các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương
châm “Học mà chơi – Chơi mà học” đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách
toàn diện về mọi mặt, Mọi sự vật hiện tượng (Cây cối, trời đất, con người, động
vật…) đều có màu sắc. Màu sắc của sự vật hiện tượng sinh ra từ đâu? Câu hỏi này
không ai trả lời được, chỉ biết rằng từ khi con người sinh ra đã thấy mọi sự vật,
hiện tượng đều mang một màu sắc riêng biệt phong phú và đa dạng.
Nhờ có màu sắc mà con người nhìn nhận cuộc sống, sự vật hiện tương thêm
phong phú và đa dạng. Giả sử mọi sự vật hiện tượng chỉ có một màu duy nhất thì
cuộc sống của con người sẽ như thế nào? liệu con người có tồn tại được không? Và
nếu tồn tại được thì cuộc sống có còn phong phú đa dạng không?
Nói như thế để khẳng định: “Màu sắc trong tự nhiên rất quan trọng đối với cuộc
sống con người” Màu sắc quan trọng đối với đời sống con người, thì màu sắc lại
cũng quan trọng hơn nữa đối với trẻ nhỏ. Khi mới sinh ra, trẻ chỉ nhận ra màu đen


và trắng, nhưng càng lớn trẻ càng nhận ra nhiều màu sắc hơn. Đối với lứa tuổi nhà
trẻ 24- 36 tháng, trẻ chỉ có thể nhận biết, phân biệt được ba màu cơ bản đó là màu
xanh, đỏ, vàng.
Giúp trẻ nhận biết, phân biệt ba màu xanh, đỏ, vàng sẽ giúp trẻ nhận biết và
phân biệt đúng màu sắc xanh, đỏ, vàng của các đồ dùng, đồ chơi….Việc giúp trẻ
nhận biết phân biệt tốt ba màu cơ bản xanh, đỏ, vàng còn là bước đầu giúp trẻ phát
triển lĩnh vực nhận thức thẩm mĩ về cái đẹp, là nền tảng vững chắc để sau này trẻ
sẽ nhận biết, phân biệt được nhiều màu sắc khác ở các độ tuổi tiếp theo của trẻ.
Chính vì thế việc giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi biết nhận biết và phân biệt ba màu
xanh, đỏ, vàng là rất quan trọng và cần thiết.
1


Thông qua lĩnh vực nhận thức giáo dục trẻ tình yêu thương, gần gũi đối với
thiên nhiên, xã hội, giáo dục trẻ hành vi đạo đức tốt, từ đó giáo dục trẻ lòng yêu
con người, yêu thương loài vật, yêu quê hương đất nước, có ý thức bảo vệ cái đẹp,
giúp trẻ phát triển một cách toàn diện, hoàn thiện con người trẻ.
Chính từ những lý do trên tôi đã mạnh dạn đưa ra “ Một số biện pháp giúp trẻ 24
- 36 tháng tuổi nhận biết phân biệt tốt ba màu xanh – đỏ - vàng ”. Ở đây nhằm
giúp tôi tìm ra những phương pháp tối ưu để giúp trẻ phát triển toàn diện về đức trí - thể - mỹ và phát triển nhân cách ở trẻ .
Trong quá trình thực hiện bản thân tôi luôn cố gắng học hỏi, đi sâu vào nghiên
cứu, đúc rút kinh nghiệm tham khảo ý kiến đồng nghiệp, những thế hệ đi trước, để
thực hiện nội dung dạy trẻ phân biệt ba màu cơ bản xanh - đỏ - vàng cho trẻ đạt kết
quả cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Dạy trẻ phát triển nhận thức thông qua phân biệt ba màu cơ bản
- Giúp trẻ phát triển vốn từ, cung cấp các từ mới cho trẻ.
- Phát triển tư duy, óc sáng tạo, năng khiếu, đồng thời cũng giúp trẻ phát triển lĩnh
vực nhận thức, giúp trẻ biết yêu cái đẹp, bảo vệ cái đẹp thông qua nhận biết phân
biệt màu của các đồ dùng, đồ chơi, những đồ dùng gần gũi xung quanh trẻ.

- Giúp trẻ phát triển về Đức, trí, thể, mỹ một cách hài hòa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Năm học 2017 - 2018 tôi được nhà trường phân công dạy nhóm trẻ 24 - 36
tháng tại khu Cum vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đối tượng này để làm đề tài nghiên
cứu của mình với 12 trẻ, có 5 trẻ là nam và 7 trẻ là nữ, hầu hết trẻ là con em dân
tộc Thái, để khảo sát thực trạng về tiến độ dạy ở nội dung nhận biết, phân biệt ba
màu cơ bản xanh – đỏ – vàng cho trẻ ở lứa tuổi 24 - 36 tháng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, tài liệu
- Phương pháp đàm thoại, giảng giải
- Phương pháp trực quan, minh họa.
- Phương pháp điều tra, thống kê tổng hợp số liệu.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Là giáo viên phụ trách nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi tôi nhận thấy: Sự quan tâm
của các bậc phụ huynh về vấn đề nhận biết phân biệt màu của con em mình trong
độ tuổi nhà trẻ là không cần thiết. Đối với họ con họ đến lớp được cô giáo chăm
sóc yêu thương, đi học về biết hát một vài bài hát, đọc thuộc vài ba câu thơ như
vậy là họ đã vui rồi. Họ không nghĩ rằng việc giúp con em mình nhận biết và phân
biệt màu cũng rất quan trọng và cần thiết.
Nhưng cũng có nhiều trẻ khả năng nhận biết phân biệt màu còn hạn chế như:
Màu xanh thì lại nói là màu vàng, khi cô yêu cầu chọn đồ chơi màu đỏ thì lại chọn
đồ chơi mang màu xanh (Ví dụ: Cô cầm con cá màu xanh hỏi trẻ “Con cá này màu
gì?” Trẻ trả lời cô “Con cá màu vàng” hay khi cô yêu cầu trẻ “chọn cho cô con cá
màu đỏ” thì trẻ lại chọn con cá màu xanh…)
Trong những năm học vừa qua tôi đã cố gắng rấtt nhiều trong việc dạy trẻ nhận

biết, phân biệt ba màu cơ bản xanh, đỏ, vàng thông qua các bộ môn: “Nhận biết tập
nói”, “Nhận biết phân biệt”, “Hoạt động với đồ vật”, “Thể dục” . Tôi rèn cho trẻ kỹ
năng nhận biết phân biệt màu chủ yếu thông qua tiết nhận biết phân biệt và lồng
ghép, tích hợp nhận biết phân biệt thông qua các tiết học khác. Ngoài ra tôi còn dạy
trẻ nhận biết phân biệt màu xanh, đỏ, vàng thông qua các hoạt động ngoài tiết học.
Nhưng do sự nhận biết phân biệt ba màu này của trẻ không đồng đều, do sử dụng
đồ dùng trực quan chưa phong phú, tôi chỉ đầu tư vào lĩnh vực phát triển ngôn ngữ
mà chưa chú ý nhiều đến lĩnh vực phát triển nhận thức về nhận biết phân biệt màu
nên số trẻ nhận biết phân biệt màu chưa nhiều, do phương pháp dạy trẻ của tôi còn
hạn chế đôi khi còn mang tính áp đặt nên chưa phát huy được tính tích cực của trẻ.
Trong giai đoạn giáo dục hiện nay thì lĩnh vực phát triển nhận thức là một trong
năm yếu tố quan trọng, cần thiết đưa vào giáo dục nói chung và giáo dục cho trẻ
mầm non nói riêng. ở lứa tuổi 24 – 36 tháng nội dung phát triển nhận thức chưa
đưa vào giáo dục trẻ .Trong khi đó trẻ 24 – 36 tháng tuổi lại rất thích những đồ vật
mang màu sắc xanh, đỏ, vàng. Trẻ thường chọn những đồ dùng, đồ chơi mang
những màu sắc đặc trưng đó để chơi nhưng trẻ lại không biết được đồ vật đó là
màu gì chỉ biết rằng nó đẹp nên chọn để chơi. Như vậy tuy chưa đi vào dạy lĩnh
vực phát triển nhận thức cho trẻ 24 – 36 tháng nhưng qua việc trẻ biết chọn đồ chơi
có màu sắc nổi bật ( Xanh, đỏ, vàng) có nghĩa là trẻ đã biết nhận ra cái đẹp, đây
chính là nền tảng để dạy trẻ phát triển lĩnh vực nhận thức ở độ tuổi tiếp theo.
Để đáp ứng nhu cầu về khả năng nhận biết của trẻ về màu sắc trong chương
trình giáo dục hiện nay. Để khả năng nhận biết của trẻ ngày càng được nâng lên về
kiến thức của lĩnh vực phát triển nhận thức. Và để thế giới trong mắt trẻ càng thêm
3


phong phú và đa dạng. Nên tôi chọn “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng
nhận biết và phân biệt tốt ba màu xanh, đỏ, vàng”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
+Thuận lợi:

Trường Mầm Non Trung Tiến thuộc xã miền núi của huyện Quan Sơn với
điều kiện kinh tế xã hội đang gặp nhiều khó khăn. Nhân dân phần lớn sinh sống
bằng nghề sản xuất nông nghiệp, được sự quan tâm của lãnh đạo địa phương, của
các bậc phụ huynh trong toàn xã luôn quan tâm, chăm lo cho sự nhiệp giáo dục xã
nhà, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con em mình được học tập.
Trường có đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ, khoẻ trình độ chuẩn, nhiệt tình, yêu
nghề, mến trẻ luôn xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của mình là chăm sóc giáo dục
trẻ mầm non đạt mục tiêu yêu cầu theo từng độ tuổi.
+ Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên vẫn còn gặp một số khó khăn như nhận thức của
một số phụ huynh còn xem nhẹ việc đưa trẻ đến trường, họ cho rằng con họ vẫn
còn nhỏ chưa biết gì, đến trường các cô chỉ trông trẻ là chính chứ trẻ còn nhỏ chưa
học cái gì, phụ huynh nhận thức về bậc học mầm non còn chừng mực nhất định,
chưa thực sự giúp đỡ giáo viên tạo điều kiện trong việc dạy dỗ các cháu. Số trẻ
trong lớp 100% là con em dân tộc Thái, chưa nói được tiếng phổ thông thành thạo.
Các trẻ nhà trẻ còn bé nên chưa có nề nếp thói quen ngồi học. Mặt khác không
gian phòng học đang còn chật hẹp, phải mượn tạm phòng ở của giáo viên để học
nên trong hoạt động vẫn còn gặp nhiều khó khăn cho cả cô và trẻ.
Vì những khó khăn trên nên kết quả qua khảo sát.
*Bảng khảo sát thực trạng đầu năm học
TT

Nội dung

Tổng số khảo sát thực nghiệm: 12
trẻ
Kết quả
Đạt

Tỷ lệ


Chưa

Tỷ lệ

đạt
1

Trẻ nhận biết, phân biệt màu
thông qua hoạt động có chủ đích

2

58%

5

42%

6

50%

6

50%

Trẻ nhận biết, phân biệt màu
thông qua hoạt động ngoài tiết học


3

7

Trẻ nhận biết, phân biệt màu
4


thông qua tạo môi trường
4

58%

5

42%

5

42%

7

58%

6

50%

6


50%

Trẻ nhận biết, phân biệt màu
thông qua hoạt động quan sát trẻ

5

7

Trẻ nhận biết, phân biệt màu
thông qua phối kết hợp giữa nhà
trường và gia đình

Từ khảo sát tình hình thực trạng của lớp, kết hợp với một số phương pháp
nghiên cứu nên tôi đã tiến hành thực nghiệm đề tài bằng một số việc làm cụ thể
sau:
2.3. Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhận biết phân biệt tốt ba
màu xanh - đỏ - vàng.
Năm học 2017 - 2018 tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp nhà trẻ 24 36 tháng khu Cum. Tháng 9 bước vào năm học mới tôi chú trọng đến tình cảm, đặc
điểm, tâm sinh lý của từng trẻ, tạo sự gần gũi để trẻ thích đi học, dần dần đưa trẻ
vào nề nếp trong giờ học bởi trẻ đang còn rất nhỏ nên rất khó khăn trong việc phân
biệt màu sắc, nhất là đối với các đồ dùng, đồ chơi vật dụng sinh hoạt hàng ngày
của trẻ, vì vậy đưa trẻ đến với lĩnh vực phát triển nhận thức thì rất khó. Tôi đã
mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi nhận biết phân biệt
tốt ba màu xanh – đỏ - vàng thông qua các hoạt động sau:
a. Dạy trẻ nhận biết màu xanh, đỏ, vàng thông qua các hoạt động chủ đích:
Trong hoạt động học, ngoài việc dạy trẻ nhận biết phân biệt ba màu xanh,
đỏ, vàng trong tiết học phát triển nhận thức; nhận biết phân biệt màu xanh, đỏ,
vàng, tôi còn lồng ghép tích hợp nội dung nhận biết phân biệt màu xanh, đỏ, vàng,

vào các tiết học khác bằng cách chuẩn bị đồ dùng trực quan liên quan đến các tiết
học: tranh ảnh, đồ vật rất đẹp mắt và chủ yếu những đồ dùng đó đều có ba màu cơ
bản: Xanh, đỏ, vàng để gây sự chú ý, thích thú cho trẻ. Trẻ càng chú ý đến hình
ảnh trực quan thì việc dạy trẻ nhận biết phân biệt ba màu xanh, đỏ, vàng càng dễ
dàng và hiệu quả hơn.
*Thông qua hoạt động dạy “ Nhận biết tập nói”
Theo từng chủ đề, chủ đề tôi lựa chọn, sử dụng các đồ chơi, tranh ảnh, vật
thật có màu xanh, hoặc màu đỏ hoặc màu vàng để trẻ gọi tên đồ vật kèm theo màu
sắc. Khi cho trẻ chơi trò chơi để luyện cho trẻ phát âm tôi chọn trò chơi có đồ dùng
5


trực quan mang màu sắc xanh, đỏ, vàng cho trẻ được cầm, được chọn theo yêu cầu
của cô để trẻ phát âm.Từ đó trẻ sẽ hứng thú học hơn và việc lồng ghép, tích hợp
nhận biết màu sắc sẽ thuận tiện hơn và trẻ sẽ khắc sâu tư duy ghi nhớ hơn.
Ví dụ 1: NBTN “Các đồ dùng trong gia đình: Bát, thìa, đĩa” tôi chọn cái bát có hoa
màu đỏ, cái đĩa có hoa màu xanh cho trẻ quan sát và tập nói. Khi cho trẻ quan sát
tập nói tôi không quên hỏi trẻ câu “Cái bát (đĩa) có hoa màu gì?” và cho trẻ phát
âm nhiều lần “Hoa màu xanh” “Hoa màu đỏ” từ đó giúp trẻ nhận biết ba màu xanh,
đỏ .

Trò chơi chọn đồ dùng theo yêu cầu của cô. Tôi chuẩn bị đồ dùng gia đình cho trẻ
- đồ chơi bằng nhựa (Xoong nồi, bát, thìa, đĩa có các màu xanh, đỏ, vàng và yêu
cầu trẻ chọn cái bát, cái thìa… rồi hỏi trẻ về màu sắc và cho trẻ phát âm.

Ví dụ: “Chọn cho cô cái bát” “Cái bát có màu gì? Cho trẻ phát âm “Cái bát màu
xanh
*Thông qua giờ “ Nhận biết phân biệt”
Tôi sử dụng các đồ dùng, đồ chơi có màu sắc khác nhau, các dạng kích thước
to nhỏ khác nhau, để giúp trẻ dễ nhận biết, phân biệt và gây sự tập trung chú ý của

trẻ. Lồng ghép đan xen các trò chơi tránh sự nhàm chán thờ ơ với đồ vật.
Ví dụ:
Ở chủ đề thực vật chủ đề nhánh các loại rau, hoạt động NBPB “Quả đậu,
quả cà chua màu xanh, đỏ”. Tôi cho trẻ nhận biết quan sát quả đậu màu xanh, quả
cà chua màu đỏ (bằng vật thật). Sau đó tôi cho trẻ chơi T/C “Thi xem ai chọn
6


đúng” cô nói tên quả hoặc nói màu sắc trẻ giơ quả lên và phát âm nhiều lần “Quả
cà chua màu đỏ”, “quả đậu màu xanh”. Để củng cố nhận biết màu xanh, màu đỏ
tôi cho trẻ chơi T/C “quả rơi”: Cô chuẩn bị các quả có màu xanh, đỏ. Cô và trẻ
cùng đọc.
“Quả rơi, quả rơi
Quả rơi ở đâu ?
Quả rơi ở đây”
Cô tung quả lên cho quả rơi xuống, trẻ nhặt quả, cô hỏi: “con nhặt quả màu
gì?” “quả gì đây ?”
Hay ở nhánh “Những bông hoa đẹp”, đề tài: nhận biết phân biệt hoa hồng, hoa
cúc màu đỏ, màu vàng”. Tôi cho trẻ quan sát bông hoa hồng, hoa cúc màu đỏ, vàng
(bằng hoa thật). Để củng cố nhận biết phân biệt màu đỏ màu vàng tôi cho trẻ chơi
trò chơi “Tặng hoa cho cô giáo”, cô nói sở thích của mình về bông hoa trẻ chọn
bông hoa và phát âm về màu sắc của bông hoa. Cô nói “Cô thích hoa hồng” trẻ
cầm hoa hồng lên và nói “Hoa hồng màu đỏ”. Sau khi trẻ chơi trò chơi tĩnh tôi cho
trẻ chơi đan xen một trò chơi động “Cắm hoa vào lọ”, hoa hồng cắm vào lọ đỏ, hoa
cúc cắm vào lọ vàng, trẻ vừa lên chọn hoa cắm và kết hợp phát âm màu sắc của
bông hoa… với việc sử dụng vật thật (khi cho trẻ quan sát) và chơi các trò chơi, trẻ
trả lời nhanh, chính xác hơn về các màu sắc cô hỏi.
*Th«ng qua giê lµm quen víi v¨n häc nh kÓ chuyÖn, ®äc th¬.
Tôi gây hứng thú cho trẻ bằng nhiều thủ thuật khác nhau: Dùng tranh ảnh, vật
thật có màu sắc xanh, đỏ, vàng, câu đố, bắt chước tiếng kêu của con vật…. để lôi

cuốn trẻ vào giờ học say mê tích cực
- Thông qua tiết thơ – truyện:
Sử dụng đồ dùng trực quan gây hứng thú cho trẻ
Ví dụ : Khi dạy bài thơ “Chú gà con”
Ở lần đọc thứ hai, thay vì đọc thơ qua tranh tôi đã đọc qua mô hình: 1 mâm
tròn màu trắng, trên mâm có 5 - 6 chú gà con đang mổ thóc, trông ngộ nghĩnh,
đáng yêu những chú gà này có màu xanh và màu vàng, khi đàm thoại với trẻ tôi sẽ
chú ý lồng ghép tích hợp hỏi trẻ về màu sắc của các chú gà con: Chú gà con có
màu gì?, cho trẻ trả lời và phát âm nhiều lần: “Gà con màu xanh”, “Gà con màu
vàng”

7


* Thông qua tiết thể dục vận động:
Tôi lồng ghép tích hợp cho trẻ nhận biết màu sắc và gọi tên các dụng cụ đồ dùng
trong tiết học như: Quả bóng màu xanh(đỏ), Vòng màu vàng(đỏ), gậy thể dục màu
xanh…

*Qua hoạt động với đồ vật: Qua tiết xếp hình tôi không chỉ rèn luyện kỹ năng
như xếp chồng, xếp cạnh …mà còn tích hợp để nhận biết phân biệt màu thông qua
đồ dùng . Đặt các câu hỏi gợi mở: “khối gỗ màu gì?” “khối gỗ để làm gì?”...
Thông qua mỗi nhánh trong chủ đề tôi chọn một màu duy nhất cho trẻ hoạt
động để từ đó khắc sâu ghi nhớ về màu sắc cho trẻ về ba màu này.
Ví dụ:
Trong nhánh phương tiện giao thông đường bộ có tiết “Xếp ô tô” tôi chọn khối
cho trẻ xếp là khối màu vàng. Trong quá trình trẻ xếp tôi hỏi trẻ về màu sắc và cho
trẻ phát âm “Khối gỗ màu vàng”

8



Đến chủ đề nhánh giao thông đường sắt tôi lại chọn các khối màu đỏ cho trẻ
xếp tàu hoả. Và trong quá trình trẻ xếp cho trẻ phát âm “Khối gỗ màu đỏ, tàu hoả
màu đỏ” để khắc sâu ghi nhí về màu đỏ cho trẻ.
Đến chủ đề nhánh PTGT đường thuỷ tôi lại chọn khối màu xanh cho trẻ xếp
tàu thuỷ. Nhằm khắc sâu ghi nhớ màu xanh cho trẻ.

Qua hoạt động tạo hình tôi chọn ba màu cơ bản xanh, đỏ, vàng cho trẻ nặn
nhằm gợi hỏi trẻ về màu sắc và từ đó khắc sâu ghi nhớ về ba màu này cho trẻ.
Ví dụ: hoạt động nặn lá tôi chọn một màu xanh cho trẻ nặn, tiết nặn quả tròn tôi
chọn một màu đỏ, còn tiết nặn quả dài thì lại chọn màu vàng.

b. Dạy trẻ nhận biết phân biệt ba màu: Xanh, đỏ, vàng thông qua các hoạt
động ngoài tiết học.
*Thông qua các hoạt động vui chơi.
9


Trẻ được tiếp xúc với đồ chơi, các sự vật hiện tượng, được thể hiện mình qua
các “vai chơi”. Vì thế tôi chọn những đồ chơi có màu xanh, đỏ, vàng phù hợp với
từng góc để trẻ chơi, Và trong quá trình chơi tôi gợi hỏi trẻ về màu sắc của đồ chơi
để trẻ trả lời. Từ đó trẻ lại được khắc sâu khả năng ghi nhớ màu xanh, đỏ, vàng.
Ví dụ 1: Trò chơi: “Lắp ghép, sữa chữa, bảo dưỡng các phương tiện giao thông
đường bộ” (góc làm quen với thao tác vai – Chủ đề “Giao thông” ) Tôi luôn chú
trọng đến các đồ chơi có màu sắc xanh, đỏ, vàng chon mua, làm các ô tô bằng đồ
chơi có màu xanh, đỏ, vàng. Tôi luôn tạo ra các tình huống như đặt các câu hỏi gợi
mở : “ Con đang làm gì?” “ô tô khách có màu gì ?” “ô tô tải có màu gì? … Khuyến
khích trẻ nói nhiều các câu “ô tô khách màu vàng”, “ô tô tải màu xanh…”


Ví dụ 2: Trò chơi ở góc mở (Ai thông minh hơn)
Tuỳ vào từng chủ đề lớn và chủ đề nhánh, tôi lựa chọn trò chơi cho trẻ chủ
yếu là trò chơi nhằm giúp trẻ nhận biết phân biệt màu. Như ở chủ đề gia đình, chủ
đề nhánh “đồ dùng của bé” tôi cho trẻ chơi trò chơi chọn trang phục phù hợp với
sở thích của bé. Trên người bé đang mặc váy màu gì thì cho trẻ chọn váy có màu
đó để gắn lên mảng tường. Trò chơi này vừa kích thích tư duy sáng tạo của trẻ lại
vừa giúp trẻ nhận biết phân biệt màu tốt hơn.

Hay ở chủ đề nhánh “Con vật sống trong gia đình” cũng vậy. Tôi gắn hình ảnh ba
ngôi nhà có màu xanh, đỏ, vàng và yêu cầu trẻ chọn con vật có màu tương ứng sẽ
sống trong ngôi nhà(chuồng ) đó và gắn lên mảng tường phía tương ứng.
10


Đối với chủ đề nhánh “PTGT đường bộ” thì khó hơn một chút. Tôi gắn ba
hình ô tô tải màu xanh, đỏ, vàng lên trước và yêu cầu trẻ chọn hình vuông và hình
chữ nhật có màu tương ứng gắn lên mảng tường để ghép thành hình ô tô tải.

* Thông qua mọi lúc mọi nơi
Khi cho trẻ chơi, thấy trẻ cầm bất cứ đồ chơi nào trên tay mà có ba màu trên
thì tôi đều hỏi trẻ “ Con đang chơi đồ chơi gì?” đồ chơi có màu gì” để trẻ trả lời.
Giờ ăn, giờ ngủ, tôi vui vẻ ân cần, nhẹ nhàng trò chuyện với trẻ. Tôi giới thiệu thức
ăn và hỏi: “hôm nay con được ăn gì?” “Cháo nấu với rau(củ) gì? Rau dền màu gì?
Rau cải có màu gì? Củ cà rốt màu gì?”trẻ nhắc lại tên, màu sắc các loại rau.
Giờ đón trả trẻ, giờ chơi tự do tôi trò chuyện gần gũi trẻ để nắm bắt được tâm
lý của từng trẻ, khi trò chuyện tôi lấy một vài đồ chơi có màu xanh, đỏ, vàng để rèn
cho trẻ nhận biết. Đây là thời điểm phù hợp để trò chuyện với trẻ đặc biệt là những
trẻ có kỹ năng nhận biết phân biệt màu chưa thành thạo vì lúc này số trẻ trong lớp
đã ít đi, không đòi hỏi giáo viên phải tập trung nhiều đến trẻ khác .
Ví dụ: Vào buổi sáng tôi trò chuyện về chủ đề những bông hoa đẹp thì tôi chú ý

đến màu sắc của các loại hoa để cho trẻ nhận biết. Con biết những loại hoa gì?
Hoa… có màu gì?....
Vào buổi chiều trước khi trẻ ra về tôi hỏi trẻ về những việc trẻ làm trong ngày:
“con chơi trò chơi gì?” “nặn được cái gì?” “xếp được cái gì?” “có màu gì?”...
11


Qua dạo chơi tham quan, trẻ tiếp xúc với thiên nhiên và những sự vật, hiện
tượng xảy ra xung quanh trẻ, tôi tạo điều kiện để trẻ được quan sát, gợi hỏi để trẻ
nói lên màu sắc của sự vật, hiện tượng được nghe, nhìn thấy.
Ví dụ: Khi dạo chơi đến bên cây hoa móng tay, Tôi hỏi trẻ: “cây gì đây?” “đây là
cái gì?” “lá hoa có màu gì ?” “ Bông hoa móng tay có màu gì?…. trẻ nhận biết màu
sắc của cây và màu của bông hoa từ đó khắc sâu hơn cho trẻ về kỹ năng nhận biết
phân biệt màu xanh, đỏ, vàng.

c. Tạo môi trường giúp trẻ nhận biết tốt màu xanh, đỏ, vàng.
Trẻ sống trong môi trường tốt thì việc giúp trẻ nhận biết màu sắc thuận lợi
hơn, Tôi đã chú ý tạo môi trường phong phú, đa dạng . Đồ chơi luôn luôn thay
đổi tạo sự mới mẻ, hấp dẫn giúp trẻ lĩnh hội những gì trẻ thấy, qua đó tạo cho trẻ sự
chú ý say mê, yêu thích tìm tòi khám phá. Tuy nhiên màu của các đồ chơi vẫn chủ
yếu là các màu xanh, đỏ, vàng.
*Tạo môi trường học tập trong lớp phù hợp với chủ đề .
Tuỳ theo chủ đề tháng, tôi sắp xếp đồ chơi gọn gàng đẹp mắt, ngang tầm với
trẻ, thật hấp dẫn và thu hút trẻ. Đồ chơi phong phú với nhiều chủng loại màu sắc
chủ yếu của các đồ chơi vẫn là màu xanh, đỏ, vàng, phù hợp với từng chủ đề.
Ví dụ 1: Chủ đề nhánh: “Những con vật nuôi trong gia đình” ở các góc chơi tôi đã
làm những đồ chơi tự tạo từ những phế liệu bằng nhựa như: Con gà, con vịt, con
lợn, chó mèo.
Dùng quả bóng bàn hỏng, vỏ thạch dừa làm các chú gà xinh xắn, có màu
xanh, đỏ, vàng

Bình dầu gội đầu làm con vịt

12


Vỏ thạch dừa làm các chú lợn, ống thuốc bổ phế làm con trâu

Góc thao tác vai: Tôi sắp xếp các con vật gần gũi ngộ nghĩnh như con mèo,
con vịt, con gà, lợn, trâu… Một số thức ăn lúa, gạo, rau, cỏ, chậu đựng thức ăn…
Trẻ được nhìn ngắm, được trực tiếp chơi với con vật, trẻ được đóng vai Bác
nông dân chăm sóc con vật, ngoài ra ở mọi lúc, mọi nơi tôi gợi sự chú ý của trẻ
bằng các câu hỏi: “Trong lớp có những con vật gì?” “con mèo có màu gì?” “Con
gà kêu như thế nào?” “con gì màu đỏ…?”
Góc bé vui khoẻ: Tôi chuẩn bị các mũ múa hình con vật ngộ nghĩnh (con gà,
vịt, mèo…).. Vòng, gậy thể dục, dụng cụ xắc xô…có các màu xanh, đỏ, vàng
Góc bé khéo tay: Một số con vật có đục lỗ để trẻ xâu vòng, đồ chơi lắp ghép
hình con vật, khối gỗ để trẻ xếp chuồng gà, vịt. Ngoài ra trong lớp tôi còn trang trí
tranh ảnh con vật, cờ, hoa, bóng bay, dây xúc xích các loại, ngang tầm với trẻ. Trẻ
có thể lấy chơi một cách thoải mái, tôi gợi hỏi: “cái gì đây?” “con gì đây? “kêu như
thế nào?” “hoa này màu gì?” “đây là hoa gì?”
Môi trường trong lớp với đầy đủ đồ chơi đẹp mắt, được sắp xếp dưới dạng
mở giúp tôi rèn luyện lời nói cho trẻ thuận tiện dễ dàng hơn. Đồ chơi được thay đổi
thường xuyên để mỗi ngày đến trường phải là những “ngày hội” của trẻ.
Mảng tường chính của lớp tôi cố gắng học hỏi đồng nghiệp để tận dụng
nguyên phế liệu làm thật đẹp, thu hút sự chú ý của trẻ bằng các hình ảnh có màu
sắc chủ yếu là màu xanh, đỏ, vàng.
Ví dụ: Chủ điểm giao thông.
13



Các hoạ tiết trang trí lớp cũng được tôi chọn ba màu cơ bản trên.

*Tạo môi trường ngoài lớp.
Phối hợp với nhà trường, tôi và các cô giáo trong trường đã tạo một sân chơi
thoáng mát sạch sẽ gọn gàng, có vườn hoa cây cảnh xanh tốt rực rỡ màuu sắc, có
vườn rau củ theo mùa, có góc thiên nhiên ngoài lớp để trẻ tìm hiểu khám phá trải
nghiệm các sự vật hiện tượng… Môi trường “xanh, sạch, đẹp” là điều kiện rất tốt
để tận dụng môi trường dạy trẻ nhận biết phân biệt màu một cách nhanh, chính
xác.
Ví dụ: Tận dụng vườn rau, vườn hoa, cây cảnh cho trẻ quan sát.
d. Dạy trẻ phân biệt màu thông qua quan sát trẻ để tìm hiểu khả năng tư duy
nhận biết phân biệt màu sắc của trẻ.
Quan sát trẻ là theo dõi trẻ có mục đích, ghi lại những trẻ nhận biết phân biệt
màu tốt, chưa tốt hay mức độ phân biệt màu của trẻ. Dựa trên kết quả quan sát này
tôi thấy được khả năng nhận biết và phân biệt màu củaa từng trẻ để từ đó có biện
pháp phát triển giúp cho trẻ nhận biết phân biệt màu xanh, đỏ, vàng tốt hơn.
Mỗi ngày tôi lên kế hoạch quan sát 2-3 trẻ ở một hoạt động nào đó, sau mỗi
buổi làm việc tôi dành ra 2-3 phút ghi lại những gì quan sát được ở trẻ.
Ví dụ 1: Quan sát cháu Hà Ngọc Anh 34 tháng tuổi
14


Ngày quan sát 10/11/2017
Nơi quan sát: trong lớp
Thời gian bắt đầu từ 9h đến 9h05’
Mục đích quan sát: Khả năng nhận biết màu vàng của trẻ
Tôi cho cháu chơi ở góc mở (Ai thông minh). Tôi chọn hình ảnh bé gái mặc
váy vàng gắn lên mảng tường của góc, tôi yêu cầu cháu chọn váy áo màu vàng(ở
trong một hộp đựng lộn váy áo xanh, đỏ…)cho bạn gái và gắn lên tường tương
ứng.

+ Kết quả quan sát trẻ như sau.
- Bé hiểu được lời nói của cô
- Biết chọn đúng các váy áo màu vàng để gắn tương ứng.
- Bé nói được câu 4 từ ( Váy áo màu vàng)
Ví dụ 2:
Quan sát cháu Hà Ngọc Lương 28 tháng tuổi
Thời gian quan sát 10h đến 10h10’
Mục đích quan sát: Tìm hiểu khả năng phân biệt màu vàng, đỏ
Tôi đưa hai bông hoa có màu vàng và màu đỏ ra hỏi cháu về màu sắc của hai
bông hoa. Mới đầu cháu rụt rè không nói nhưng sau đó được sự động viên của cô
cháu mạnh dạn trả lời nhưng lại trả lời sai về màu sắc của hai bông hoa. Như vậy
khả năng nhận biết và phân biệt màu của cháu Lương còn hạn chế.
Qua các kết quả quan sát này giúp tôi biết cách điều chỉnh phương pháp dạy
trẻ nhận biết, phân biệt màu xanh, đỏ, vàng cho trẻ và lập kế hoạch chăm sóc giáo
dục trẻ phù hợp với nhu cầu của từng trẻ. Từ đó có biện pháp tiếp cận, phân nhóm
hoạt động, tạo điều kiện cho trẻ hoạt động theo sở thích , không gò bó, áp đặt trẻ.
Ví dụ: Cháu Anh thông minh, nhanh nhẹn, nhận biết và phân biệt màu tốt tôi dùng
phương pháp nêu gương khích lệ trẻ.
Cháu Lương rụt rè, khả năng nhận biết và phân biệt màu của cháu Lương còn
hạn chế tôi dùng phương pháp tình cảm động viên nêu gương, dành thời gian tiếp
cận trẻ nhiều hơn để chơi cùng trẻ , trò chuyện với trẻ để luyện khả năng nhận biết
phân biệt màu cho trẻ.
e. Phèi hîp gi÷a nhµ trêng vµ gia ®×nh ®Ó gióp trÎ nhËn
biÕt vµ ph©n biÖt ba mµu xanh, ®á, vµng tèt.
Tôi tranh thủ thời gian gặp gỡ trao đổi bàn bạc với phụ huynh tìm ra những
biện pháp giúp trẻ nhận biết phân biệt màu xanh, đỏ, vàng để giúp đỡ khi trẻ ở nhà.

15



Vào đầu chủ đề tôi lên kế hoạch các nội dung chương trình học của bé. Giờ
đón, trả trẻ, tôi nhắc phụ huynh đến xem để phụ huynh biết ở lớp con học những
gì.
Và trao đổi với phụ huynh trong chủ đề đó con hoc cần những đồ dùng gì, có
màu sắc gì? Để nếu phụ huynh có điều kiện thì mua cho con học ở nhà còn nếu
không có điều kiện thì phụ huynh có thể tận dụng đồ dùng từ thiên nhiên, đồ dùng
sẵn có ở nhà giúp con nhận biết tốt màu khi ở nhà…
Ví dụ: Chủ đề nhánh “đồ dùng gia đình”
Tôi trao đổi thống nhất với phụ huynh về một số biện pháp giúp đỡ trẻ nhận biết
màu xanh, đỏ, vàng khi ở nhà như: tận dụng thời gian ở nhà, mọi lúc mọi nơi như:
khi nấu ăn, tắm giặt, cho trẻ ăn, cho trẻ ngủ…Để hỏi trẻ về những đồ dùng có màu
sắc xanh, đỏ, vàng mà ở trong nhà sẵn có để trẻ trả lời
Ví dụ: Trước khi thái cắt rau, nấu rau bắp cải, người mẹ cho trẻ xem và hỏi trẻ:
“Rau gì đây con?” “Lá rau có màu gì?” “củ cà rốt có màu gì?...?”
Ví dụ: Trước khi ăn người mẹ trò chuyện giới thiệu về đồ dùng (bát, đĩa, thìa):
“cái gì đây con?” “Hoa trên đĩa có màu gì?” “thức ăn đựng vào đâu?” như vậy
người mẹ giúp trẻ nhận biết, gọi tên, màu sắc đồ dùng một cách rõ ràng chính xác
….
Giúp phụ huynh sưu tầm các mẫu đồ chơi đơn giản dễ làm để họ có thể tận
dụng những nguyên phế liệu có màu sắc xanh, đỏ, vàng sẵn có ở trong nhà để làm
đồ chơi cho con.
Phối hợp với nhà trường tổ chức các buổi họp phụ huynh, tổ chức các tiết dạy
mẫu mời phụ huynh đến dự để phụ huynh biết rõ hơn về khả năng phân biệt ba
màu của con em mình, từ đó để họ có kế hoạch tập luyện cho trẻ nhất là những trẻ
phân biệt màu còn yếu.
Ngoài việc tự suy nghĩ tìm tòi sáng tạo của bản thân khi dạy môn nhận biết, phân
biệt màu. Tôi thường xuyên nghiên cứu tập san học tập kinh nghiệm giảng dạy của
các đồng chí giáo viên cốt cán trong trường, để từ đó rút ra cái hay nhất, hiệu quả
nhất, trong tiến hành chương trình giảng dạy bộ môn nhận biết phân biệt nói riêng
và các môn học khác nói chung được tốt hơn.

Với những biện pháp trên tôi đã thu được một kết quả đáng mừng, đến nay bộ
môn nhận biết, phân biệt màu ở nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi lớp mà tôi phụ trách các
cháu đã nhận biết phân biệt được ba màu cơ bản tương đối tốt.
2.4. Hiệu quả của “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhận biết
phân biệt tốt ba màu xanh - đỏ - vàng” đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.

16


Trước khi chưa thực hiện các biện pháp này, khả năng nhận biết phân biệt ba
màu xanh, đỏ, vàng còn nhiều hạn chế, khả năng của trẻ không đồng đều.
Nhưng trong quá trình tìm tòi suy nghĩ và thực hiện tại nhóm trẻ 24 - 36 tháng
tôi phụ trách đã thu được kết quả rất khả quan. Trẻ hứng thú tích cực say mê
học tập, khả năng nhận biết phân biệt ba màu trên của trẻ qua từng giai đọan
đồng đều hơn. Dù tháng tuổi khác nhau, nhưng khả năng nhận biết phân biệt
màu xanh, đỏ, vàng của các cháu rất tốt.
* Kết quả khảo sát cuối năm.
TT

Nội dung

Tổng số khảo sát thực nghiệm: 12
trẻ
Kết quả
Đạt

Tỷ lệ

Chưa


Tỷ lệ

đạt
1

Trẻ nhận biết, phân biệt màu thông
qua hoạt động có chủ đích

2

8%

10

83%

2

17%

9

75%

3

25%

10


83%

2

17%

10

83%

2

17%

Trẻ nhận biết, phân biệt màu thông
qua hoạt động quan sát trẻ

5

1

Trẻ nhận biết, phân biệt màu thông
qua tạo môi trường

4

92%

Trẻ nhận biết, phân biệt màu thông

qua hoạt động ngoài tiết học

3

11

Trẻ nhận biết, phân biệt màu thông
qua phối kết hợp giữa nhà trường
và gia đình

- So sánh giữa 2 bảng: Bảng khảo sát đầu năm và cuối năm học tôi thấy sử dụng
phương pháp mới đạt kết quả cao.
- Với các biện pháp giảng dạy như vậy tôi đã rút ra cho mình một số bài học kinh
nghiệm sau:
- Muốn dạy tốt hoạt động nhận biết, phân biệt màu cho trẻ cô giáo cần đầu tư linh
hoạt sáng tạo khi giảng dạy.
17


- Khi dẫn dắt trẻ trẻ vào bài phải thật hấp dẫn, sử dụng đồ dùng trực quan minh họa
phải sống động, cần sử dụng vật thật với nhiều màu sắc khác nhau để tạo được sự
hứng thú học của trẻ, giới thiệu bài sinh động ngắn gọn, dí dỏm gây hứng thú bất
ngờ đối với trẻ nhằm thu hút trẻ vào giờ học đạt kết quả cao. Đi sâu vào rèn luyện
nề nếp cho trẻ trong giờ học uốn nắn cách trả lời câu hỏi mạch lạc, đầy đủ ý nghĩa
tiến hành thường xuyên liên tục ở mọi lúc mọi nơi.
- Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, nhận thức, sở thích của từng trẻ.
- Luôn học hỏi những người đi trước nghiên cứu tài liệu tập san truyền hình, tài
liệu giáo dục mà nhất là giáo dục mầm non. Từ đó rút ra cho mình những bài học
hay, để việc dạy bộ môn nhận biết, phân biệt màu đạt tới kết quả cao.


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
- Kết luận:
Qua thực tế công tác giáo dục trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại trường Mầm
non Trung Tiến mà trực tiếp là nhóm nhà trẻ mà tôi phụ trách.
Tôi thấy việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhận biết, phân biệt và các môn học
khác nói chung là vô cùng quan trọng tạo điều kiện để cho công tác giáo dục Mầm
non nó có tính chất quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ những
kết quả trên là do sự nỗ lực của bản thân, tôi đã tham khảo và nghiên cứu những tài
liệu có liên quan đến giáo dục mầm non. Luôn học hỏi kinh nghiệm của đồng
nghiệp, dự giờ giáo viên giỏi trong trường thường xuyên đề nghị tổ chuyên môn dự
giờ của mình và góp ý, tự mình rút ra bài học kinh nghiệm.
Ngoài ra còn có sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo. BGH trường Mầm non nhiệt tình
giúp đỡ đặc biệt là phối kết hợp giữa các phụ huynh học sinh về việc chăm sóc
giáo dục trẻ.
- Kiến nghị:
Với kết quả như trên tôi đề nghị với BGH nhà trường, địa phương đưa phương
pháp cải tiến của tôi, áp dụng vào những lớp nhà trẻ còn lại trong trường.
Rất mong được sự bổ sung góp ý của các cấp lãnh đạo, của BGH, bạn đồng
nghiệp để tôi có thêm phương pháp cải tiến mới, trong tất cả các môn học để đáp
ứng được với việc giáo dục mầm non ngày nay đó là niềm tự hào của một người
đứng trong đội ngũ giáo viên Mầm non, để trẻ trở thành người có ích trong xã hội
sau này.
Trên đây là nhưng kinh nghịêm rút ra từ bản thân.Vì điều kiện thời gian có hạn
nên kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi phần thiếu sót và hạn chế những vấn đề
đó mong muồn cấp trên giúp đỡ góp ý kiến để tôi hoàn thành tốt hơn trong quá
trình công tác của mình.
18


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG


Trung Tiến, ngày 20 tháng 4 năm 2018

ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của minh viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người Viết

Ngân Thị Nhung

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ mầm non – Trần Lan
Hương – Trần Thị Nga – Nguyễn Thị Thanh Thủy – Nguyễn Thị Thư – NXB
Giáo dục Việt Nam
2. Thiết kế các hoạt động có chủ đích, hoạt động góc và hoạt động ngoài trời
cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi – Đào Hoàng Mai – Trương Hồng Nga ( đồng chủ biên )
– NXB Giáo dục Việt Nam.
3. Thơ – truyện dành cho trẻ nhà trẻ - sưu tầm và biên soạn Nguyễn Thị Mai
Chi – NXB Giáo dục Việt Nam
4. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non – Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) –
Nguyễn Thị Như Mai – Đinh Thị Kim Thoa - NXB Đại học Sư phạm
5. Tuyển chọn giáo án cho nhóm trẻ 24 – 36 tháng, lĩnh vực phát triển nhận
thức - sưu tầm và biên soạn Lý Thị Hằng – Nguyễn Thị Thanh Giang – Nguyễn
Thanh Huyền – Hoàng Thị Dinh - NXB Giáo dục Việt Nam

19


PHỤ LỤC

1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5.Những điểm mới của SKKN
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3. Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi nhận biết, phân biệt tốt ba
màu xanh, đỏ, vàng.
2.4. Hiệu quả cuả “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi nhận biết, phân
biệt tốt ba màu xanh, đỏ, vàng đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
a. Kết luận.
b. Kiến nghị.
20


MỤC LỤC
MỤC LỤC

Trang
1

1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2
2-3
4
4
4

1.5. Những điểm mới của SKKN

4-5

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN
2.2. Thực trạng đề trước khi áp dụng SKKN
2.3. Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi nhận biết,

6
6-7
7

phân biệt tốt ba màu xanh, đỏ, vàng.

8-23

2.4. Hiệu quả cuả “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng
tuổi nhận biết phân biệt tốt ba màu xanh, đỏ, vàng đối với

23-25


hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Kết luận

26
26

- Kiến nghị

26

- Tài liệu tham khảo + Phụ lục.

27

21


22



×