Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vấn đề nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.76 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------***--------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
VẤN ĐỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Sinh viên thực hiện:
Mã số sinh viên:
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn:

Hà nội, tháng 12 năm 2014


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Con người là sản phẩm tiến hoá, phát triển lâu dài của tự nhiên . Con người
trong quá trình tồn tại, không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên
mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất con người. Xã hội ngày càng
phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, của cải vật chất ngày càng nhiều, tạo
điều kiện phát triển những mặt tự nhiên như sức khỏe, trí tuệ, con người. Khi con
người được chăm sóc đầy đủ, có sức khoẻ, có khả năng trí tuệ, có trình độ học vấn sẽ
có điều kiện cống hiến cho xã hội ngày càng nhiều. Bất kì quốc gia nào muốn thoát
khỏi đói nghèo, lạc hậu, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, phát triển cơ sở vật
chất lên trình độ cao thì tất yếu phải trải qua quá trình công nhiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước.
Trong các nguồn lực của công nghiệp hóa-hiện đại hóa, con người được coi


vừa là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
vừa là đối tượng mà chính quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa phải hướng vào
phục vụ. Mặt khác, với thực trạng nguồn lực con người Việt Nam hiện nay, việc khai
thác, sử dụng và phát triển nguồn lực đó sao cho có hiệu quả nhất, đáp ứng được yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa cũng đang là những vấn đề bức xúc
mà sự nhận thức và giải quyết tốt những vấn đề đó sẽ là điều kiện tiên quyết, bảo đảm
cho sự thành công của của công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Vì vậy việc tìm hiểu vấn đề con người và hiện đại hóa đất nước là hết sức quan
trọng, đòi hỏi phải hiểu bản chất và vị trí của con người trên mọi phương diện. Xuất
phát từ sự bức xúc trên em đã chọn đề tài “Vấn đề xây dựng nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta”.
Như đã nói, việc nghiên cứu vấn đề con người trong công nghiệp hóa- hiện đại
hóa đất nước là nhiệm vụ hết sức quan trọng của mọi thành viên trong xã hội. Sở dĩ
vấn đề đó lại được quan tâm một cách đặc biệt như vậy vì một số lí do chủ yếu sau:
Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo
đức, trình độ tri thức, vị thế xã hội,…tạo nên năng lực con người của cộng đồng có thể
sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và trong
những hoạt động xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ góp phần làm tăng năng
suất lao động hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã hội.

3


Hiện nay, do yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước và
việc phát triển kinh tế- xã hội nhanh và bền vững thì việc đi lên bằng nguồn lực con
người được coi là động lực chủ yếu, quyết định sự phát triển. Do đó, các chính sách
phát triển đất nước phải hướng vào mục tiêu tổng quát là phát triển con người, xuất
phát từ con người, do con người và vì con người, Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng:
“Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thực chất là chiến lược phát triển con người,
phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm đích cao nhất của mọi

hoạt động”.
Mục tiêu chính của công nghiệp hóa- hiện đại hóa là tạo ra tiềm lực to lớn đủ
khả năng tiến tới thủ tiêu nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, hay nói chung là tất cả đều nhằm mục đích
phục vụ con người, coi con người là yếu tố trọng tâm số một của mọi hoạt động. Có
giải quyết tốt vấn đề đó với những chính sách về người lao động hợp lí thì mới có
được những thành công của công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Đặc biệt là trong thế kỉ 21,
việc nhận thức rõ bản chất của vấn đề con người trong công nghiệp hóa- hiện đại hóa
có ý nghĩa cực kì quan trọng.
Trong nội dung tiểu luận này gồm những phần cơ bản sau:
I.
II.

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công

nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta.
Các mục này có mối liên hệ chặt chẽ tạo nên một chỉnh thể thống nhất để làm
rõ vấn đề: tầm quan trọng của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa- hiện đại hóa là một vấn đề có nội dung rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được sự góp ý quý báu từ thầy.
Sinh viên thực hiện
Phan Thị Na

4


NỘI DUNG
I.Quan điểm của triết học Mác- Lênin về con người

1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về
sự tiến hóa của các loài. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới
tự nhiên cũng “ là thân thể vô cơ của con người”.
Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên,
nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét trong
mối quan hệ của các cộng đồng xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, con người là khái niệm chỉ những cá thể người như
một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người
là sự tiến hóa lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật
học cùng tồn tại và tác động đến con người.
2. Quan điểm hiện đại của Mác- Lênin về con người trong bản chất của nó
a) Con người là một thực thể sinh vật xã hội
Với tư cách là con người xã hội, con người hoạt động thực tiễn, con người sản
xuất ra của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là chủ thể
cải tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc vào tự nhiên
và tác động vào tự nhiên. Chỉ có con người mới khắc phục được tự nhiên bằng cách
tạo ra của cải vật chất, không như tự nhiên vốn có, bằng cách đó con người đã biến đổi
bộ mặt của tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ con người. Một điếu chắc chắn rằng
con người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt chính các quy
luật của chính bản thân nó.
Nếu không có con người với tư cách là chủ thể sinh động nhất của xã hội thì
không thể có xã hội, không thể có sự vận động xã hội mà vượt lên tất cả chính là của
cải vật chất.
Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự
chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng. Các


5


quy luật tự nhiên tác động tạo nên phương diện sinh học con người. Các quy luật tâm
lý ý thức, hình thành nên các mặt xã hội trong con người. Hệ thống quy luật trên cùng
tác động vào con người tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh giữa cái sinh học với cái xã
hội trong con người.
b) Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải tiêu dùng một lượng nhu yếu phẩm cần
thiết đảm bảo nhu cầu sinh học. Song những thứ ấy không phải là quà tặng của tạo hoá
ban cho mà nó là sản phẩm của quá trình lao động của con người. Vì thế, quá trình sản
xuất ra của cải vật chất là hoạt động tất yếu của loài người. Chính lao động đã phân
định danh giới giữa người với động vật khác, lao động là hoạt động xã hội, nên mọi sự
khác biệt giữa con người và động vật đều là kết quả của cuộc sống con người trong xã
hội. Phần “xác” là bộ phận sinh học trong con người cũng nhờ có lao động mà khác
con vật. Một cá thể sinh học muốn tồn tại và phát triển được thì nhất thiết phải sống
trong xã hội và được xã hội đào luyện. Như vậy, cá nhân là một thực thể xã hội và bản
chất của con người có tính lịch sử cụ thể. Vì lẽ đó mà bản chất của con người là tổng
hoà các mối quan hệ xã hội, không chỉ tổng hoà các mối quan hệ trong hiện tại mà cả
trong quá khứ.
Luận điểm của Mác cho rằng “bản chất con người là tổng hòa của các mối quan
hệ xã hội”, Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố là đặc điểm sinh
học con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như là một phần của
giới tự nhiên, còn bỏ qua không nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác định bản
chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không thể thiếu và có tính
chất quyết định làm cho con người trở thành một con người.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng
đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn nữa,
con người còn đóng vai trò là chủ thể của quá trình hoạt động lịch sử. Thông qua hoạt

động sản xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã hội loài
người. Từ quan niệm đó Mác khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có
ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con người.
Theo quan điểm của Mác-Lênin, bản chất của con người là:

6


Thứ nhất: Bản chất chung nhất và sâu sắc nhất của con người là tổng hoà các
mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra cả trong hiện tại và trong quá
khứ.
Thứ hai: Bản chất con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử
cụ thể.
Thứ ba: Bản chất cuả con người nhất thiết phải xem xét trong mối quan hệ cá
nhân và xã hội.
Chủ nghĩa xã hội do con người, và vì von người. Do đó hình thành mối quan hệ
đúng đắn về con người và về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội nói
chung, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không thể thiếu trong thế giới quan
Mác- Lênin.
Con người là những khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong
sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số tính sinh học của con người thì không giải thích được
bản chất của con người, con người là một thực thể hoạt động có ý thức, có khả năng
sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và trong chính quá trình hoạt động đó những quan hệ
xã hội được hình thành có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách, bản chất
con người. Mác đã viết “bản chất con người là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã
hội”.

II.Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa ở nước ta
1. Nguồn lực con người

Khái niệm “nguồn lực con người” đã được sử dụng khá lâu nhưng cho đến thời
điểm này vẫn chưa có tài liệu chính thức nào đưa ra được định nghĩa về khái niệm
“nguồn lực con người”, mặc dù các bài viết về nguồn lực con người không phải là ít.
Dưới dạng tổng quát, có thể hiểu rằng “nguồn lực con người” là khái niệm chỉ số dân,
cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của
nó trong sự phát triển xã hội.
Sức mạnh của nguồn lực con người biểu hiện qua sức mạnh của thể lực, trí lực,
đạo đức, niềm tin, ý chí, …ở sự thống nhất biện chứng giữa sức mạnh vật chất và sức
mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng không chỉ trong thực tế mà còn ở
dạng tiềm năng. Vì vậy, khi xem xét nguồn lực con người đòi hỏi phải có quan điểm

7


toàn diện, phải nhìn nhận con người với tất cả hiện trạng, tiềm năng, đặc điểm và sức
mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội ở cả phương diện là chủ thể lẫn phương diện
là khách thể.
Nguồn lực con người là nguồn lực quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các
nguồn lực khác để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Là
khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác triệt để cho sự thành công của
công nghiệp hóa-hiện đại hóa, đồng thời chính con người được thụ hưởng những thành
quả của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đó. Vì vậy, ngày nay, con người được
coi là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên, giữ vị trí trung
tâm trong toàn bộ quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa . Công nghiệp hóa- hiện đại
hóa là do con người và vì con người.
2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa
đất nước
Trong các quan niệm trước đây ở nước ta về quá trình công nghiệp hóa- hiện
đại hóa, vai trò của con người mặc dù đã được đề cao ở mức độ đáng kể, song con

người với tất cả tiềm năng, hiện trạng và sức mạnh của nó thì lại chưa được nhìn nhận
như là một nguồn lực của bản thân quá trình công nghiệp hóa.
Con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích
cực cải biến tự nhiên và xã hội; con người là điểm khởi đầu và là điểm kết thúc của
mọi quá trình biến đổi lịch sử,…con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng
sản xuất, là lực lượng sản xuất của toàn nhân loại,…
Để thấy rõ vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hóa- hiện đại hóa, cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác để
qua đó thấy được mức độ chi phối của nó đến sự thành, bại của công nghiệp hóa-hiện
đại hóa. Đồng thời phải đặt công nghiệp hóa trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng
và đã trở thành yêu cầu khách quan, xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp
hóa gắn với hiện đại hóa mà cốt lõi là hiện đại hóa lực lượng sản xuất.
Như chúng ta đã biết, xét đến cùng, yếu tố giữ vai trò chi phối, quyết định sự
vận động và phát triển của xã hội chính là lực lượng sản xuất. Mà yếu tố quan trọng
nhất, giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất chính là con người.

8


Dưới góc độ công nghệ, con người cũng là thành tố giữ vai trò chi phối, quyết
định kết cấu, sự vận hành và hiệu quả trong công nghệ.
Xem xét dưới góc độ nguồn lực, trong quan hệ với các nguồn lực khác, nguồn
lực con người cũng tỏ rõ vai trò quyết định của mình. Điều này thể hiện ở chỗ các
nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí, …tự nó chỉ tồn tại dưới
dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa khi được kết hợp với
nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Trước đây, sự giàu có của một quốc gia được hiểu là giàu có về tài nguyên thiên
nhiên, giàu có của các nguồn tài lực… Còn ngày nay, nhờ những thành tựu to lớn của
công nghệ, sự giàu có ấy không chỉ đơn giản được đo bằng sự giàu có bằng tài nguyên

thiên nhiên; một nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên vẫn có thể trở thành một nước
giàu mạnh, nếu ở đó có được một chiến lược phát triển đúng cùng với nguồn lực con
người chất lượng cao và được khai thác hợp lí.
Điển hình như trường hợp của Israel. Bằng cách nào mà một dân tộc chỉ với 14
triệu dân lại có thể sản sinh ra vô số chủ nhân Nobel, khoa học gia lỗi lạc và những
nhà chính trị- kĩ nghệ đại tài để kiểm soát các lĩnh vực then chốt của thế giới? Làm
thế nào mà một dân tộc 2000 năm vong quốc lại có thể chi phối hành tinh? Làm thế
nào mà một quốc gia 8 triệu dân, với chỉ 65 năm tuổi lại làm chủ được cuộc chơi, luôn
nắm thế thượng phong trước khối thù địch tôn giáo với hơn 350 triệu người bủa vây?
Israel có tài nguyên thiên nhiên bằng không, hai phần ba diện tích là hoang mạc, còn
lại là đồi núi, sỏi đá cằn cỗi; nước ngọt thiếu trầm trọng. Vốn liếng duy nhất mà họ có
được là con người!
(Quốc gia khởi nghiệp)
Một lần nữa khẳng định, nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự giàu mạnh
của một quốc gia, đó chính là con người. Tóm lại, mặc dù có được nguồn lực tự nhiên
như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí, hay cơ sở vật chất- kỹ thuật được tạo ra trong
các giai đoạn trước đó, hoặc nguồn lực nước ngoài dưới dạng vốn, công nghệ, kinh
nghiệm, ...thì xưa nay nguồn lực lâu bền nhất và quan trọng nhất của mỗi quốc gia vẫn
là con người.
Nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất mà nhờ nó , các nguồn lực khác
mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với quá trình công nghiệp hóahiện đại hóa. Với ý nghĩa đó nguồn lực con người là tất yếu không thể thay thế được.

9


Có thể nói, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó
nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, lại có tiềm năng vô tận.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, trong khi nhấn mạnh vai trò quyết định của nguồn lực
con người, chúng ta không bao giờ được tuyệt đối hóa nó, không được tách nguồn lực
con người ra khỏi mối liên hệ hữu với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Trái

lại, khi khẳng định nguồn lực con người giữ vai trò quyết định thì điều đó có nghĩa là
đã đặt nguồn lực con người trên cơ sở của các nguồn lực khác hiện có với tư cách là
tiền đề, là điều kiện cho sự hoạt động và phát triển của con người trong thực tiễn.
3. Thực trạng nguồn lực con người tại Việt Nam
Từ vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại
hóa đất nước, vấn đề đặt ra là phải xem xét, đánh giá một cách toàn diện thực trạng và
đặc điểm của nguồn lực Việt Nam hiện nay để từ đó có hướng khai thác và phát triển
hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con người, bảo đảm cho sự thành công của công cuộc
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng cao đội ngũ những
người lao động nước ta lên một tầm cao chất lượng mới. Hơn nữa, đó cần dược coi là
động lực mạnh mẽ nhất để giúp chúng ta mau chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và
xây dựng xã hội ta thành một xã hội công bằng nhân ái, một xã hội thực sự tốt đẹp và
tiến bộ, mang bản sắc dân tộc và hiện đại . Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ IX đã khẳng định : “Nâng cao dân trí , bồi dưỡng và phát triển nguồn lực
to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công
nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta”.
Tại hội nghị lần thứ tư BCH TW khoá VII Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị
quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là động lực của sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: “Đó là con
người phát triển cao về trí tụê, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần , trong
sáng về đạo đức”. Phát triển con người Việt Nam toàn diện- đó cũng chính là động lực,
là mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước mà chúng
ta đang từng bước tiến hành.
Việc đánh giá đúng thực trạng nguồn lực con người là cơ sở thực tiễn quan
trọng để tìm ra phương hướng, giải pháp phát triển và sử dụng hữu hiệu nguồn lực con
người trong quá trình phát triển đất nước. Những năm qua, kinh tế-xã hội Việt Nam

10



ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng
kể đời sống nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn. Điều kiện
ăn, ở, đi lại, học hành của nhân dân đã được cải thiện so với trước . Đảng và Nhà nước
ta đã tạo những điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến trong
quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như kế
hoạch phát triển kinh tế của từng địa phương, từng cơ sở sản xuất kinh doanh. Trong
nhiều đơn vị kinh tế đã động viên mọi người dân đóng góp tài năng trí tuệ, thực hiện
cải tiến kỹ thuật, thay đổi quy trình sản xuất nhằm tạo ra năng suất lao động và hiệu
quả kinh tế cao.
Nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu, đang trong quá trình phát triển, sự phân hoá
giàu nghèo, thiếu việc làm, chất lượng giáo dục đào tạo, phục vụ y tế còn thấp, tình
trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, văn hoá phẩm độc hại đang còn lan tràn và các tệ
nạn xã hội phát triển. Ưu điểm nổi bật của con người Việt Nam là mang trong mình
những phẩm chất truyền thống quý báu: Anh dũng trong chiến đấu, cần cù, bền bỉ, dẻo
dai trong lao động , có khả năng sáng tạo thích ứng nhanh, ... Tuy nhiên, lực lượng lao
động dồi dào cùng với lòng nhiệt tình cách mạng, thì chưa đủ tiến hành công nghiệp
hóa- hiện đại hóa.Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo, đã đưa tỉ lệ số người biết
chữ từ 5% trước đây, tới nay đã gần 90% dân số biết chữ. Trình độ dân trí đã có tiến bộ
nhiều so với trước đây. Hiện nay ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục năm sau cao
hơn năm trước. Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm ngày càng tốt
hơn. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
tạo ra điều kiện thuận lợi để “Cả nước trở thành một xã hội học tập”. Trong quá
trình giảng dạy, học tập , đã tìm mọi biện pháp để thực hiện “Phát huy tinh thần độc
lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện
học vấn và tay nghề”. Nhìn chung, số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao còn
quá ít , còn thiếu nhiều cán bộ Khoa học-Công nghệ và chuyên gia giỏi. Trong khi đó,
do nhiều nguyên nhân, tình trạng hẫng hụt về kiến thức, bất cập về năng lực chuyên
môn, nhiệp vụ trong đội ngũ cán bộ, viên chức còn khá phổ biến. Đang có tình trạng
lão hoá cả về tuổi tác và tri thức ở đội ngũ cán bộ khoa học, sự yếu kém về kỹ năng

thực hành, khả năng ứng dụng kiến thức vào cuộc sống của tuổi trẻ. Bên cạnh đó, quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường và mở rộng giao
lưu quốc tế đang mang cả mặt tích cực và tiêu cực vào quá trình chuyển biến tâm lý, ý

11


thức tư tưởng, đạo đức của con người Việt Nam. Những điều kiện sống và làm việc
còn khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần, vấn đề vệ sinh môi trường và bảo
hộ chưa tốt ... đã dẫn đến tình trạng ốm đau, thiếu dinh dưỡng, bệnh nghề nghiệp và tai
nạn vẫn còn ở mức cao .
Việc chăm sóc sức khoẻ cho các tầng lớp nhân dân đã được quan tâm. Những
cơ sở khám bệnh được xây dựng tới tận các xã, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuổi thọ
trung bình của người Việt Nam đã tăng lên nhiều so với trước đây. Thể lực của người
Việt Nam đã được cải thiện hơn trước. Trang thiết bị trong các bệnh viện, trong các cơ
sở khám chữa bệnh ngày càng đầy đủ, ngày một hiện đại .
Nhìn chung, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo tới việc
bồi dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khoẻ, tri thức, năng lực, phẩm chất đạo
đức; tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được khả năng của mình đóng góp cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa .
4. Một số giải pháp và kiến nghị
Thứ nhất, cần phải rút đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Khoa học- Công
nghệ, nhất là cán bộ đầu đàn, để chúng ta không bị hẫng hụt về số lượng và về chất
lượng nguồn nhân lực.
Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở tất cả các bậc học để từng bước đạt
trình độ khu vực quốc tế. Cần phát hiện sớm các tài năng, có các hình thức đào tạo phù
hợp để nhanh chóng bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Phải cấp tốc có chính sách lựa
chọn và gửi người có tài đi tiếp thu Khoa học-Công nghệ ở các nước tiên tiến .
Thứ hai, tạo công bằng văn minh trong sử dụng nguồn nhân lực là yếu tố cơ
bản để phát triểnvà đào tạo nhân tài. Để có đội ngũ cán bộ Khoa học-Công nghệ trẻ, đủ

năng lực, cần có chính sách động viên kịp thời thanh niên học tập và rèn luyện vươn
lên tầng cao mới của Khoa học-Công nghệ.
Thứ ba, tăng cường đầu tư tài chính của Nhà nước cho hoạt động tạo nguồn
nhân lực cho công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa, đồng thời phải tăng cường
công tác quản lý, tuần tra tổ chức sử dụng một cách hợp lý .
Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đó là việc
làm vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược để đảm bảo thành công của công
cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa.

12


Năm là, nói đến năng lực công tác là nói đến tay nghề và đạo đức-cái giúp cho
con người trở thành động lực của sự phát triển. Mác đã chỉ ra rằng, trong bất cứ hình
thái kinh tế xã hội nào, con người luôn thể hiện ra là người sản xuất, người lao động ,
phải chăm lo đến lợi ích của người lao động , người sản xuất , đó là một quy luật của
sự phát triển con người, phát triển kinh tế-xã hội. Lợi ích tạo ra động lực quan trọng
bậc nhất của con người. Tất nhiên, lợi ích ở đây bao gồm cả lợi ích tinh thần, giải
quyết vấn đề phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo phải nhằm mục tiêu công bằng xã
hội. Công bằng xã hội cũng tạo động lực không nhỏ cho hoạt động của con ngừơi và
xã hội .
Sáu là ,tăng cường giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu
cao trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Cần làm
cho mọi người thấy được trách nhiệm của mình phải lao động nghiêm túc, có chất
lượng, có hiệu quả , tạo ra hàng hoá tốt, nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều đó vừa tạo
điều kiện cho xã hội phát triển, vừa là điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả. Phê phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm bừa, làm ẩu; ngăn chặn làm ăn phi
pháp, phi đạo lý .
Bảy là, từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu,
những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa người với người trên tinh

thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, trong đời sống xã hội . Xây
dựng quan hệ bình đẳng hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc
gia.
Tám là,tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm; trên
cơ sở đó, người lao động mới có điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề,
mới có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến sức mình cho đất nước, cho xã hội.

13


KẾT LUẬN
Con người trong công nghiệp hóa- hiện đại hóa là nhân tố quan trọng trong thời
đại ngày nay để hiểu và dùng con người sao cho đạt hiệu quả cao nhất thì vấn đề tìm
hiểu con người và đào tạo con người là “sợi chỉ đỏ” dẫn tới thành công của một quốc
gia , một dân tộc . Muốn vậy chúng ta phải tạo một môi trường tốt cho phát huy nguồn
lực con người . Công tác dự báo kế hoạch đào tạo , tổ chức , xây dựng , ưu đãi và bảo
vệ nguồn nhân lực . Tìm tất cả các giải pháp để xây dựng đất nước bằng nội lực về
khoa học công nghệ vì một đất nước giàu mạnh , xã hội công bằng, dân chủ văn minh,
… Việc đào tạo con người không chỉ là nhiệm vụ của riêng ai mà là của toàn Đảng
toàn dân , đòi hỏi sự phối hợp giữa các nghành , từng thành phần kinh tế trong nền
kinh tế toàn dân . Là một sinh viên của trường Đại học Ngoại Thương, thấm nhuần tư
tưởng của Đảng và Nhà nước, em tự thấy mình phải gắng sức học tập và rèn luyện
thật tốt để sau này góp phần vào sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước .

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NXB Chính trị Quốc gia, 2014, “Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ

nghĩa Mác- Lênin”.
2. TS. Đoàn Văn Khái, 2005, “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam”.
3. Vũ Gia Hiền, “Con người Việt Nam với triết học Đông Tây”
4. Quốc gia khởi nghiệp, Câu chuyện về nền kinh tế thần kì của Israel.

15



×