Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn kinh nghiệm giáo dục tấm gương đạo đức hồ chí minh vào dạy học lịch sử việt nam lớp 8, 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.59 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng hiểu biết về tư tuởng đạo đức Hồ Chí Minh đối
với học sinh
3. Một số phương pháp lồng ghép trong bài dạy
3.1. Sự chuẩn bị của giáo viên
3.2. Tiến hành lồng ghép trong giờ học
3.2.1. Về lòng yêu nước thương dân và tư tưởng độc lập tự do
3.2.2.Giáo dục cho học sinh về tình yêu thương con người bao la
của Bác
3.2.3. Giáo dục tư tưởng: Chăm lo, bồi dưỡng cho các thế hệ trẻ
3.2.4. Giáo dục cho học sinh tinh thần vì dân vì nước của Bác
3.2.5. Giáo dục cho học sinh học tập đức tính giản dị của Hồ Chủ
Tịch
3.2.6. Giáo dục đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư
3.2.7. Giáo dục tư tưởng tinh thần đoàn kết của Bác
3. Kết quả đạt được
4. Kết luận, kiến nghị
4.1. Kết luận
4.2. Kiến nghị

Trang
2
2


3
3
3
3
3
4
5
5
5
6
7
8
9
14
15
15
17
18
18
18

1


1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Hiện nay nước ta đang trong quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một mặt đem lại thời cơ và điều kiện thuận lợi
để phát triển đất nước. Mặt khác, các thói hư tật xấu cũng lan truyền sâu rộng và
mạnh mẽ hơn ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội nước ta, đặc biệt là lứa

tuổi thanh thiếu niên nói chung và học sinh nói riêng như: vấn đề sử dụng ma
túy và hiểm họa AIDS, vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân, vấn đề vi phạm
an toàn giao thông, vấn đề bạo lực học đường, lối sống thực dụng lấy đồng tiền
làm mục đích cuối cùng của cuộc sống, lối sống hưởng thụ, tự do vô kỉ luật... đã
và đang là mối quan tâm lo lắng của mỗi người, mỗi nhà và toàn xã hội.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã và đang phát động cuộc vận
động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" một cách sâu
rộng trong toàn Đảng và toàn dân trên phạm vi cả nước. Mục đích là: khơi dậy
và phát huy các giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp; đấu tranh khắc phục sự suy
thoái về đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi các tệ nạn xã hội... hình thành và
phát triển các giá trị đạo đức của Chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người Việt
Nam Xã hội chủ nghĩa có nhân cách tốt đẹp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có lối
sống văn minh, xây dựng quan hệ xã hội lành mạnh, tiến bộ.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức của một
vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đó
đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình dị mà ai cũng có thể
học tập để làm một người công dân tốt. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng
nói: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, chói mà không rợp, mới
gặp lần đầu đã thấy quen thuộc”.
Đạo đức Hồ Chí Minh là một phần giá trị rất quan trọng trong nền văn hóa
Việt Nam. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu hướng đổi mới, hội nhập quốc tế.
Vì vậy, việc học tập, rèn luyện tư tưởng, đạo đức lối sống và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh là việc làm hết sức cần thiết. Bởi vì, tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh là nền tảng của xã hội, là động lực để giúp chúng ta vượt qua
khó khăn, thử thách để phát triển kinh tế đất nước, hoàn thiện nhân cách của mỗi
con người.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng ấy, vì vậy từ năm 2006 Bộ
chính trị đã triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”; đến ngày 15/5/2016, Bộ chính trị đã đề ra chỉ thị số 05CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh”.
Thực hiện chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ chính trị, chi bộ trường THCSDTNT Quan Sơn đã triển khai thực hiện việc “Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đến toàn thể giáo viên, cán bộ nhân viên và
học sinh trong toàn trường, đã tạo những chuyển biến quan trọng trong nhận

2


thức của giáo viên, cán bộ nhân viên và các em học sinh về ý thức tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, về việc thực hiện nề nếp, thực hành tiết kiệm.
Bản thân là một giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử, là một đảng viên, tôi
nhận thấy mình có vai trò quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh cho mỗi học sinh.
Xuất phát từ những lí do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Kinh nghiệm
giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy lịch sử Việt Nam lớp 8, 9”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Góp phần nâng cao hiểu biết, nhận thức của học sinh về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
- Nâng cao cho học sinh ý thức và ý chí học tập, rèn luyện vì bản thân, gia
đình và xã hội, chú trọng tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, hành vi ứng xử, tuân
thủ nội quy nhà trương và pháp luật của nhà nước, tích cực tham gia các công
tác xã hội, các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng.
- Việc tích hợp tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm giúp học
sinh có thêm hiểu biết về phẩm chất đạo đức của Bác từ đó hình thành ở các em
niềm tin, ý thức, tình cảm và thói quen vận dụng, phát huy các giá trị đạo đức tốt
đẹp của xã hội như: Sống có hoài bão, có lối sống trong sáng, văn minh, quan hệ
xã hội lành mạnh. Qua đó, giúp các em xác định rõ mục đích học tập và rèn
luyện của bản thân, đồng thời giúp các em có thêm nghị lực để thực hiện ước
mơ, hoài bão lập thân, lập nghiệp góp phần nhỏ bé của mình cho công cuộc Xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về: lòng yêu nước, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, lòng biết ơn, Tinh thần đoàn kết, lòng yêu thương con
người, tính giản dị...
- Học sinh lớp 8, 9 trường THCS-DTNT Quan Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu các tác phẩm:
+ Kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh.
+ Các chuyên đề về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (Nxb chính trị quốc
gia).
+ Các tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động của Bác.
+ Tài liệu tập huấn tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
- Trao đổi với học sinh.
- Khảo sát thực tế.
2. Nội dung.
2.1. Cơ sở lí luận:
Trong những năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã và đang thực
hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
trên khắp cả nước, các nhà trường đã và đang phát động tổ chức thực hiện cuộc
vận động này. Để góp phần tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động này thì việc lồng
3


ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Nhà truờng chính
là một môi trường tốt để truyền bá tư tưởng giáo dục thế hệ trẻ về tư tưởng Hồ
Chí Minh, tư tưởng Hồ chí Minh cần được tích hợp trong môn học sẽ đem đến
cho học sinh một niềm tin, nhận thức đúng đắn, tránh những tư tưởng sai lệch do
những thông tin ngoài luồng, do tác động của xã hội.
Tấm gương về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch

Hồ Chí Minh có sức mạnh to lớn trong việc giáo dục đạo đức, rèn luyện phẩm
chất cho học sinh. Cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương
sáng tuyệt vời về sự phấn đấu cho lí tưởng đạo đức cao cả nhất của con người.
Từ bản thân người, sự nghiệp cách mạng của Người luôn toả sáng một nền đạo
đức mới cao đẹp, đạo đức cách mạng. Người đã hi sinh lợi ích cá nhân, cống
hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, Người là kết tinh của những giá trị đạo đức tinh
tuý nhất của dân tộc. Nó là ánh sáng soi đường cho nhiều thế hệ người Việt Nam
hôm nay và mai sau. Vì vậy, việc nghiên cứu “học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” là nghĩa vụ đạo đức của mỗi người, bởi học theo Người,
làm theo Người là con đường ngắn nhất giúp chúng ta tự hoàn thiện đạo đức cá
nhân. Đồng thời giáo dục học sinh “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” cũng là trách nhiệm cao cả của người làm thầy cô giáo.
Là giáo viên dạy học lịch sử, tôi nhận thấy rằng việc lồng ghép giáo dục
đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh trong các bài giảng là vô cùng cần thiết nhằm
nâng cao được tư tưởng đạo đức cách mạng cho học sinh. Bởi vì cuộc đời hoạt
động cách mạng của Bác đã gắn liền với chiều dài của lịch sử dân tộc. Người đã
dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Người là kết tinh các phẩm
chất cao đẹp của dân tộc ta suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Người
đã đi xa nhưng Người đã để lại cho dân tộc một di sản tinh thần hết sức to lớn
trên mọi lĩnh vực. Những tư tưởng của Người là tấm gương sáng để mọi người
Việt Nam học tập và noi theo, tư tưởng của Người còn định hướng cho mọi hoạt
động của Đảng và nhà nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Vì vậy, để giáo dục thế hệ trẻ, có lối sống lành mạnh, tinh thần yêu nước,
yêu CNXH sâu sắc thì việc lồng ghép giáo dục đạo đức tư tưởng của Bác trong
dạy lịch sử là rất cần thiết, nhằm nâng cao được tư tưởng đạo đức cách mạng
cho học sinh. Nhưng giáo viên cần có sự uyển chuyển, linh động trong cách tích
hợp theo từng đối tượng học sinh, biến cái “cao siêu” trong suy nghĩ của các em
thành những cái “thật gần” để các em dễ dàng tiếp nhận. Từ đó việc tích hợp đạo
đức, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bài dạy thực sự có giá trị góp phần hình thành
nhân cách, lối sống, lối sinh hoạt theo đúng pháp luật, nội quy của nhà trường

cho học sinh, nhằm hạn chế vấn đề học sinh vi phạm nội quy nhà trường như
thời gian qua.
2.2. Thực trạng hiểu biết về tư tuởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với học sinh:
Sách giáo khoa môn Lịch sử có nhiều sự kiện về Hồ Chí Minh đặc biệt là
Lich sử lớp 9, hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trình bày
kỹ hơn và lồng với kiến thức lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, qua học tập các môn
khoa học xã hội, qua bộ môn Lịch sử, qua sinh hoạt đoàn đội, qua việc tiếp nhận
4


những thông tin đại chúng, ở mức độ nhất định các em cũng đã hiểu được cuộc
đời hoạt động, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức được vai trò, công lao to lớn
của Bác đối với dân tộc và nhân loại. Nhưng hiểu biết của các em về Bác Hồ
còn đơn giản, chưa sâu sắc, nặng về cảm tính, sự tiếp thu, lĩnh hội kiến thức còn
mang tính đối phó, nên tác động về tư tưởng Hồ Chí Minh đến suy nghĩ hành
động của các em chưa mạnh mẽ, chưa có hiệu quả cao, có học sinh còn cho rằng
“Tư tưởng Hồ Chí Minh quá vĩ đại, các em không đủ sức để lĩnh hội”.
Thực tế hiện nay cho thấy, chất lượng học môn lịch sử của học sinh còn
quá thấp, đặc biệt là ở miền núi. Nhiều em ở vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn,
gia đình hoàn cảnh ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập. Đa số các em vẫn còn
thói quen học vẹt, không nắm sâu được kiến thức, vì vậy sẽ mau quên kiến thức
cũ, hoặc có nhớ thì cũng không thực sự chính xác các sự kiện lịch sử. Mặt khác,
các em không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó là môn phụ, không quan
trọng lại có quá nhiều mốc thời gian và sự kiện khô khan, khó nhớ. Vì vậy, các
em không hứng thú trong học tập môn này, hoặc chỉ học qua loa đối phó. Vậy,
phải làm sao để thu hút được học sinh có hứng thú và chuyên tâm hơn trong học
môn lịch sử?
Xuất phát từ thực tế bức thiết đó, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Kinh
nghiệm giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy lịch sử Việt Nam
lớp 8, 9”.

3. Một số phương pháp lồng ghép trong bài dạy:
3.1. Chuẩn bị của giáo viên:
Đối với công việc dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, việc
chuẩn bị của giáo viên là vô cùng cần thiết. Ngoài việc xác định mục đích, yêu
cầu, đồ dùng dạy học liên quan đến bài dạy. Giáo viên còn dự kiến cho bài dạy,
dạy mục nào, chuẩn bị đồ dùng dạy học gì, kiến thức cho mục đó ra sao… Đối
với những bài dạy liên quan đến việc lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh thì giáo viên phải xác định nội dung cần lồng ghép, thời điểm lồng
ghép, cách lồng ghép như thế nào cho phù hợp với bài dạy… dùng hình ảnh tư
liệu, nội dung tài liệu liên quan đến chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi vì, tư tưởng đạo
đức của Bác là rộng, trên nhiều lĩnh vực… Cần phải chọn lọc, linh hoạt vận
dụng một tư tưởng nào đó để lồng ghép vào bài dạy. Khi áp dụng phải chú ý đến
thời gian phân bố trong tiết học. Không được “tham” kiến thức, sa đà, không
được biến giờ dạy lịch sử thành tiết kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh.
3.2. Tiến hành lồng ghép trong giờ học:
Để thực hiện việc lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử, giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức như dùng hình
ảnh, tư liệu, phim tư liệu, kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh, trích dẫn những câu
nói của Bác, của các nhà lãnh đạo, các nhà thơ, nhà văn... để giáo dục tư tưởng
của Bác đối với học sinh. Sau đây là một số phương pháp có thể thực hiện lồng
ghép trong các bài dạy:

5


3.2.1. Về lòng yêu nước thương dân và tư tưởng độc lập tự do:
Tư tưởng này xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Bác, thể hiện qua
nhiều bài dạy.
- Khi dạy bài 30 chương trình lịch sử lớp 8: Phong trào chống Pháp từ đầu thế kỉ
XX đến năm 1918. Ở mục II - 3: Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau

khi ra đi tìm đường cức nước.
Để giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm tìm con
đường cứu nước cho dân tộc, đặc biệt là tính tự lập của bản thân. Giáo viên kể
chuyện “Hai bàn tay”:
Khi vào Sài gòn Nguyễn Tất Thành gặp lại anh Tư Lê người quen cũ lúc
còn ở Phan Thiết . Người tâm sự với Tư Lê:
- Tôi muốn ra các nước phương Tây xem họ làm như thế nào sau đó trở về giúp
đồng bào chúng ta.
- Nhưng chúng ta lấy tiền đâu để đi - Tư Lê nói lại.
- Nguyễn Tất Thành giơ hai bàn tay nói: Đây tiền đây, tiền đây chúng ta làm bất
cứ việc gì để sống và để đi.
- Tư Lê không giữ lời hứa, Bác một mình làm phụ bếp trên tàu La-tu-sơ-trơ-rêvin ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Sau khi kể song giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Qua câu chuyện trên
em thấy ở Bác thể hiện đức tính gì?
Để các em trình bày nhận thức của bản thân, sau đó giáo viên kết luận:
Câu chuyện thể hiện ý chí và nghị lực, tinh thần vượt qua khó khăn và thử thách
để thực hiện khát vọng là tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc.
Thông qua việc giáo viên kể chuyện học sinh thấy được ý chí và nghị lực,
tinh thần vượt qua khó khăn và thử thách để đạt được khát vọng của mình, điều
Bác hằng nung nấu bấy lâu nay là tìm thấy con đường cứư nước cho dân tộc,
học sinh càng biết ơn Bác đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
ta để có cuộc sống như ngày nay.
Giáo viên giáo dục cho học sinh: Ngoài việc biết ơn Bác đã vượt qua gian
lao để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, để ta có được cuộc
sống như ngày nay, thì các em cần học ở người đó là tính tự lập bản thân, vượt
qua khó khăn. Vì “bàn tay ta làm nên tất cả; có sức người sỏi đá cũng thành
cơm”. Giáo viên nhắc nhở học sinh, cần phải biết cách tự chăm sóc bản thân
mình như: tự giặt ủi quần áo, các đồ dùng cá nhân và phụ giúp việc nhà...
Qua mẫu chuyện trên giáo viên phải giáo dục cho học sinh tính tự lập, ý
chí vượt khó, mọi việc đều làm nên từ chính đôi bàn tay của chính mình.

Ở phần này nếu có điều kiện, giáo viên có thể cho học sinh xem những
đoạn phim tư liệu về cuộc hành trình cứu nước của Bác sẽ khơi dậy thêm trong
các em lòng khâm phục và kinh yêu Bác Hồ trong cuộc hành trình đầy gian nan
vì độc lập tự do cho Tổ quốc.
- Khi dạy bài 16 chương trình lịch sử lớp 9. Mục I: Hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp( 1917-1923).

6


Khi dạy đến sự kiện: 7/1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương
về các dân tộc và thuộc địa” của Lê-nin. Giáo viên có thể sử dụng các trích đoạn
thơ của Chế Lan Viên “Người đi tìm hình của nước” kể cho học sinh nghe cảm
súc của Bác lúc bấy giờ để minh hoạ một cách sinh động tâm trạng, nỗi niềm
xúc động của Bác khi người tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc: Ngồi một mình trong phòng, Người sung sướng muốn phát khóc lên, Người
nói một mình như đang nói với toàn thể dân tộc “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau
khổ đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng
ta. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con
đường cách mạng vô sản”... “Lệ Bác Hồ Rơi trên chữ Lê Nin... phút khóc đầu
tiên là phút Bác Hồ cười”. Như vậy từ một người yêu nước chân chính Người
đến với chủ nghĩa Mác –Lê-nin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn đã giải
phóng cho dân tộc ta khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến.
Qua những câu thơ mô tả đó, giáo viên có thể hỏi học sinh: Tại sao Bác
khóc? những giọt nước mắt ấy nói lên điều gì?
Giáo viên gọi học sinh trả lời và củng cố: Đó là giọt nước mắt của hạnh
phúc. Bác hạnh phúc vì đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc, đó là khát
vọng lớn nhất, là mục tiêu đã khiến người bôn ba. Từ đó giáo viên có thể giáo
dục học sinh: Sống phải có mục tiêu, lí tưởng cao đẹp, phải biết hi sinh vì mọi
người. khi đạt được mục tiêu, lí tưởng ta sẽ tìm được niềm hạnh phúc.

3.2.2.Giáo dục cho học sinh về tình yêu thương con người bao la của Bác:
- Giáo dục cho học sinh về tình yêu thương con người bao la của Bác
trong hành trình tìm đường cứu nước:
Khi đến Mĩ người đã nhìn thấy Tượng Nữ thần Tự do, không giống như
những du khách khác khi đến đây người ta chỉ chú ý đến vẻ đẹp về nghệ thuật
của bức tượng. Người đã nhìn rất chăm chú hình ảnh những người phụ nữ da
đen đang bị chà đạp được khắc ở phía dưới của bức tượng. Người đã ghi lại dưới
chân tượng nữ thần tự do dòng chữ “Ánh sáng trên đầu nữ thần tự do tỏa rộng
khắp trời xanh, còn dưới chân thần tự do thì người da đen bị chà đạp, số phận
người phụ nữ bị chà đạp, đến bao giờ người da đen mới được bình đẳng với
người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Bao giờ người phụ
nữ bình đẳng với nam giới?.
Giáo viên có thể hỏi học sinh: Qua đoạn văn trên của Bác, em cảm nhận
được điều gì?
Giáo viên gọi học sinh trả lời và củng cố: Bác là người có tình yêu thương
con người bao la. Tình yêu của Bác không chỉ dành cho dân tộc ta, mà dành cho
tất cả các dân tộc trên thế giới, cho tất cả những ai bị đọa đầy đau khổ. Qua đó
giáo viên giáo dục cho học sinh tình yêu thương con người, trước tiên là hãy biết
yêu thương gia đình, người thân, bạn bè, yêu các dân tộc trên đất nước Việt Nam
ta. Có yêu thương thì mới có gắn kết với nhau, mới tạo thành khối đoàn kết dân
tộc, làm nên sức mạnh toàn dân để xây dựng đất nước, để chống lại kẻ thù...
- Hoặc khi dạy chiến dịch Biên giới Thu – Đông 1947, giáo viên có thể kể
câu chuyện: “trong một lần người đã đến thăm người tù binh Pháp, giữa mùa
7


đông giá lạnh, thấy anh rét run người, Bác đã lấy chiếc áo khoác đang mặc trên
người khoác lên người anh ta khiến cho người tù binh Pháp đã rơi lệ”.
Qua câu chuyện trên, giáo viên hỏi học sinh: Em có nhận xét gì về hành
động của Bác?

Giáo viên gọi học sinh trả lời và kết luận: Hành động đó thể hiện tình yêu
thương con người vô bờ bến của Bác, cho dù người đó có thể coi là kẻ thù của
mình. Giáo viên giáo dục cho học sinh: Với một tù binh Pháp, Bác Hồ còn dành
tình yêu thương như thể, thì tại sao chúng ta là bạn bè của nhau lại không thể
thương yêu nhau, đoàn kết với nhau. Tại sao các em lại cứ đánh nhau? hành
động đó sẽ làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Tinh thần đoàn kết dân tộc –
một trong những nguyên nhân cơ bản giúp chúng ta vượt qua khó khăn, đánh bại
kẻ thù.
Tình yêu thương con người bao la của Bác còn được thể hiện qua rất
nhiều câu chuyện khác, qua những vần thơ, câu hát làm lay động lòng người.
Tình yêu đó không chỉ dành cho quê hương, cho tổ quốc mà còn dành cho tất cả
mọi thế hệ “Bác thương các cụ già xuân về mua biếu lụa, Bác thương đàn em
nhỏ Trung thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài
rừng, Bác thương người chiến sỹ đêm gác ngoài biên cương, Bác viết thư thăm
hỏi, gửi muôn vàn yêu thương”…
3.2.3. Giáo dục tư tưởng: Chăm lo, bồi dưỡng cho các thế hệ trẻ:
Khi dạy bài 16 chương trình lịch sử 9: Thời gian Nguyễn Ái Quốc ở
Trung Quốc. Khi dạy đến nội dung: 6/1925, Người tập hợp thanh niên yêu nước
để thành lập tổ chức “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” là nhằm để chăm
lo bồi dưỡng tinh thần cách mạng cho thế hệ thanh niên, bồi dưỡng chủ nghĩa
Mác -Lênin cho thanh niên. Người mở lớp huấn luyện, đào tạo cho thanh niên
yêu nước từ trong nước sang. Những thanh niên tiêu biểu ấy sau này trở thành
những cán bộ cốt cán của Đảng như đồng chí Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai,
Lê Hồng Phong… Còn lại cử về nước hoạt động đi vào phong trào công nhân tổ
chức, giác ngộ quần chúng đấu tranh gây dựng cơ sở cách mạng.
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi: Việc người trực tiếp mở lớp huấn luyện, đào
tạo lí luận cách mạng cho thanh niên là nhằm mục đích gì? thể hiện tư tưởng gì
ở người?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên kết luận: Việc người trực tiếp mở lớp
huấn luyện, đào tạo lí luận cách mạng cho thanh niên là nhằm giúp cho thanh

niên Việt Nam giác ngộ cách mạng, định hướng tư tưởng cách mạng vô sản.
Đồng thời, thể hiện tư tưởng chăm lo bồi dưỡng đội ngũ kế cận, chăm lo giáo
dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ thanh niên, giúp cho học sinh nhận thức
được tổ chức Đoàn là cánh tay đắc lực của Đảng, Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên là tiền thân của sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng cho học sinh thấy được suốt cuộc
đời hoạt động của Bác lúc nào Người cũng chăm lo bồi dưỡng đội ngũ kế cận,
chăm lo giáo dục tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ. Từ đó giáo viên giáo dục cho
học sinh nhận thức được vai trò của thế hệ trẻ các em trong sự nghiệp xây dựng
8


và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thanh niên là lực lượng nòng cốt. Vì thanh niên là lực lượng có sức khỏe,
có hoài bão, có nghị lực, có văn hóa, dám nghĩ, dám làm… Từ việc giáo dục tư
tưởng này để cho học sinh nhận thức được vài trò của thế hệ thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ đó ra sức học tập, chiếm lĩnh đỉnh cao tri
thức nhân loại góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bác không chỉ chăm lo bồi dưỡng tư tưởng cách mạng cho thế hệ thanh
niên mà Người còn quan tâm đến các cháu thiếu niên nhi đồng:
Ngay sau khi khai trường đầu tiên sau cách mạng Hồ chủ tịch căn dặn thế
hệ trẻ “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong, chờ đợi các em rất
nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không. Chính là nhờ phần lớn
ở công học tập của các em” và Bác căn dặn thanh niên, nhi đồng “Muốn làm
người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và
nghị lực của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai đó. Ngày
nay các cháu là nhi đồng ngày mai các cháu là chủ của nước nhà, của thế giới.
Các cháu đoàn kết thì thế giới hòa bình, và dân chủ, sẽ không có chiến tranh.

Các cháu phải thi đua, tùy theo sức của các cháu, làm việc gì có ích cho kháng
chiến thì thi đua vậy”. Giáo viên liên hệ thực tế để giáo dục học sinh. Ngày nay
đất nước hòa bình. Cả nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì
mỗi học sinh phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, chiếm
lĩnh đỉnh cao của tri thức. Để sau này góp phần xây dựng đất nước.
3.2.4. Giáo dục cho học sinh tinh thần vì dân vì nước của Bác:
Tư tưởng này xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Bác, thể hiện qua
nhiều bài dạy. Suốt cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ khi ra đi tìm đường
cứu nước đến khi vĩnh biệt chúng ta Người chỉ có một ham muốn “Ham muốn
tột bậc là làm sao cho nước nhà hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành...” Bác đã từng căn
dặn các vị lãnh đạo “Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội đem lại
cơm no, áo ấm cho dân, nếu độc lập, dân còn nghèo đói thì độc lập không có
nghĩa lí gì”.
Khi dạy bài 22 lịch sử 9: Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945. Khi giáo viên giảng đến sự kiện thời cơ tổng khởi nghĩa
xuất hiện, giáo viên kể cho học sinh nghe: lúc bấy giờ, Bác đang bị bệnh rất
nặng có nguy cơ không qua khỏi. Bác cầm tay các đồng chí cách mạng căn dặn
“ Thời cơ đã đến dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng cố giành cho được độc lập”
Dù hoàn cảnh nào Bác vẫn nghĩ tới dân tộc.
Sau khi kể song câu chuyện trên, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Em
có cảm nhận gì qua lời dặn dò của Bác với các đồng chí cách mạng lúc bấy
giờ?
Giáo viên gọi học sinh phát biểu và củng cố: Qua lời dặn dò của Bác cho
chúng ta thấy, dù đang ở bất cứ hoàn cảnh nào Bác vẫn nghĩ tới dân tộc. Từ đó
9


thể hiện lòng yêu nước, thương dân và sự quyết tâm của người trong vấn đề
giành độc lập dân tộc.

Qua đó, giáo viên cần giáo dục học sinh: tinh thần yêu nước, tinh thần
quyết tâm, phải tập trung tinh thần, vượt qua khó khăn để thực hiện mục tiêu,
hoài bão, ước mơ…
Hoặc khi giảng đến đoạn sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
giáo viên kể mẩu chuyện: Khi họp ban tổ chức chuẩn bị cho ngày tuyên bố độc
lập, sau khi nghe các đồng chí trong ban tổ chức báo cáo về sự chuẩn bị cho
buổi lễ xong, Bác nhẹ nhàng nói “Bác nghe các chú báo cáo về sự chuẩn bị cho
buổi lễ khá chu đáo. Tuy nhiên, Bác không nghe chú nào báo với Bác là nhà vệ
sinh được bố trí ở đâu?”
Sau khi kể song, giáo viên hỏi học sinh: Qua câu hỏi đó của Bác, em có
nhận xét gì?
Giáo viên mời học sinh phát biểu và củng cố: Bác là người luôn tỉ mỉ,
chăm chút từng việc nhỏ. Qua đó, giáo viên giáo dục cho học sinh: Không nên
chủ quan, hãy quan tâm đến tất cả mọi việc của bản thân, gia đình, trường lớp và
xã hội; dù ở bất kì cương vị nào cũng phải lao động, phải làm tất cả mọi việc.
Hãy làm vệ sinh khi thấy nhà, trường, lớp bẩn,… đừng bao giờ nghĩ đó không
phải là công việc của mình, nhằm góp phần giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường.
Khi dạy bài 24 lịch sử 9: Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân chủ
nhân dân. Mục tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám. Giáo viên có thể
tích hợp tư tưởng nhân văn của người, thể hiện qua các biện pháp giải quyết
những khó khăn về nạn đói, nạn dốt sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Giáo
viên có thể trình bày: Để giải quyết nạn đói, trước mắt người phát động tinh thần
“nhường cơm sẻ áo”, “hũ gạo tiết kiệm”, “ngày đồng tâm” và Bác là người thực
hiện trước “cứ ba bữa nhịn ăn một bữa” lấy gạo đó cứu dân nghèo. Hoặc biện
pháp giải quyết nạn dốt, người từng nói “giặc đói, giặc dốt, nguy hiểm tựa giặc
ngoại xâm”, vì vậy người kí xác lệnh lập cơ quan “Nha bình dân học vụ”, tiến
hành xóa nạn mù chữ. Để giúp học sinh có cái nhìn chân thật, khắc sâu hơn, giáo
viên có thể sử dụng những đoạn phim tư liệu về nạn đói cuối năm 1944, đầu
năm 1945. Qua những kiến thức trên giáo viên giúp cho học sinh: Tinh thần
đoàn kết, tiết kiệm và ý thức tự giác trong học tập. Giáo viên có thể dẫn chứng

về những việc lãng phí của học sinh, trong khi đó có rất nhiều bạn gặp nhiều khó
khăn; hoặc qua đoạn phim tư liệu, ta thấy những người già, phụ nữ phải điệu con
theo đến lớp xóa mù chữ để học chữ, xóa đi những tàn tích của chế độ cai trị
thực dân, trong khi đó việc học của chúng ta ngày nay với đầy đủ thiết bị hiện
đại thì một bộ phận học sinh lại ham chơi, lười học, tự đánh mất tương lai của
chính mình.
Hoặc khi giáo viên giảng đến chủ trương của Đảng và nhà nước ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc hòa với Tưởng để tập trung đánh Pháp,
sau đó thì ta lại hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước. Đó là chủ trương “cứng
rắn về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược”, sự nhân nhượng đó là để tránh

10


cho dân tộc ta cùng một lúc phải đấu tranh với nhiều kẻ thù, tránh một cuộc
chiến tranh bất lợi.
Sau khi giảng song đoạn này, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Chính sách
nhân nhượng của Đảng và nhà nước ta lúc bấy giờ, ngoài lý do tránh cho dân tộc
ta cùng một lúc phải đấu tranh với nhiều kẻ thù trong hoàn cảnh “vận mệnh dân
tộc như ngàn cân treo sợi tóc”, thì còn lý do quan trọng nào khác?
Sau đó gọi học sinh phát biểu và củng cố: Lý do quan trọng khiến Đảng
và nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh tực hiện chính sách nhân
nhượng đó là lòng thương dân, muốn tránh cảnh bom đạn, mong muốn giải
quyết cuộc chiến tranh này bằng phương pháp hòa bình. Từ đó, giáo viên giáo
dục học sinh sự bình tĩnh, tính ôn hòa trong giải quyết vấn đề và có cái nhìn thật
đúng đắn trong chính sách ngoại giao của Đảng và Chính phủ ta hiện nay trong
việc giải quyết vấn đề Biển đông với Trung Quốc bằng phương pháp hòa bình.
Đó chính là tư tưởng vì dân, thương dân của Bác.
Hoặc trong bối cảnh kí kết tạm ước 14/9, Bác nói “Đây là sự nhân nhượng
cuối cùng. Nếu Thực Dân Pháp còn lấn tới, ta quyết tâm chiến đấu đến gọt máu

cuối cùng để bảo vệ nền độc lập tự do của tổ quốc”.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi: Câu nói trên của Bác thể hiện điều gì?
Sau đó giáo viên mời học sinh phát biểu và củng cố: Thể hiện tư tưởng
độc lập dân tộc, sự quyết tâm đánh kẻ thù xâm lược. Qua đó giáo viên giáo dục
học sinh tinh thần yêu nước: Việt Nam ta là một dân tộc nhỏ bé, nhưng những
chiến công hiển hách của ông cha ta đã làm “chấn động cả địa cầu”, ta đã lần
lượt đánh bại hai tên đế quốc hùng mạnh nhất của thế giới tư bản. Từ đó cho
thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng sức mạnh của dân tộc, bằng tinh thần
đoàn kết, ý chí quyết tâm, dân tộc ta sẽ có đủ khả năng để đánh bại bất cứ kẻ thù
xâm lược nào. Giáo viên kêu gọi học sinh luôn vững niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, luôn đoàn kết và thể hiện tinh thần yêu nước qua việc học tập, lao
động, đóng góp theo sức lực của mình để bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước.
- Khi dạy bài 26 lịch sử 9: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống Thực Dân Pháp (1950 – 1953). Mục IV: Phát triển hậu phương
kháng chiến về mọi mặt. Giáo viên tích hợp nội dung: Xây dựng và phát triển
hậu phương vững mạnh. Nhằm xây dựng hậu phương vững mạnh để chuẩn bị
cho một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Đầu năm 1953, Đảng ta tiến hành
5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở một số xã thuộc vùng tự do. Giáo
viên nhấn mạnh: Cải cách ruộng đất trong kháng chiến là một sáng tạo của cách
mạng Việt Nam trong việc kết hợp dân tộc – dân chủ.
Khi giảng giáo viên nhấn mạnh cụm từ “dân tộc – dân chủ” và đặt câu
hỏi: Tại sao cải cách ruộng đất trong kháng chiến được coi là sự sáng tạo của
cách mạng Việt Nam trong việc kết hợp vấn đề dân tộc – dân chủ?
Giáo viên gọi học sinh trả lời và chốt ý: Vấn đề dân tộc – dân chủ là tư
tưởng cốt lõi của Bác, được thể hiện trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng, đó là đánh đế quốc và phong kiến. Đánh đế quốc là giành độc lập dân tộc,
đánh phong kiến là giải quyết vấn đề bình đẳng giai cấp trong xã hội, đặc biệt là
11



giải quyết vấn đề ruộng đất. Mặc dù năm 1953, cuộc kháng chiến của dân tộc ta
đang chuyển sang giai đoạn mới nhưng vấn đề ruộng đất vẫn được Đảng ta và
Bác quan tâm và quyết định thực hiện cuộc cải cách ruộng đất nhằm chăm lo
quyền lợi cho nhân dân và cũng là chuẩn bị cho vấn đề phát triển hậu phương
kháng chiến. Đó cũng là tư tưởng vì dân, thương dân của Bác. Qua đó giáo viên
giáo dục học sinh hãy luôn sống vì mọi người, hãy đặt quyền lợi của tập thể lên
trên quyền lợi lên trên quyền lợi của bản thân mình, hãy vì lợi ích chung của xã
hội.
- Khi dạy bài 27 lịch sử 9: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân
Pháp xâm lược kết thúc (1953 – 1954).
Bài này có nhiều nội dung để giáo viên tích hợp việc giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh như: Hình ảnh Bác Hồ cùng Bộ chính trị trung ương Đảng họp
quyết định chủ trương tác chiến Đông – Xuân 1953 – 1954, hình ảnh Bác gắn
huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho những chiến sĩ đạt thành tích xuất sắc
trong chiến dịch, nhưng nội dung đáng để giáo viên chú ý nhất để đưa vào việc
giáo dục tư tưởng cho học sinh đó là lời dặn dò của Bác đối với Đại tướng Võ
Nguyên Giáp trước khi quyết định trận Điện Biên Phủ: “Bác giao cho chú toàn
quyền quyết định trận này. Chú nên nhớ, chắc thắng thì đánh, không chắc thắng
thì không đánh”. Chính lời dặn dò này của Bác là một trong những nguyên nhân
quan trọng khiến Đại tướng phải một đêm thức trắng để đưa ra một quyết định
cực kì khó khăn trong cuộc đời làm tướng của mình đó là chuyển từ “đánh
nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, thắng chắc”. Và đó là một quyết định vô
cùng đúng đắn của Đại tướng, giúp cho chiến dịch giành thắng lợi, giảm bớt sự
hy sinh sương máu của nhân dân.
Qua đó giáo viên giáo dục học sinh: Biết cách dùng người và cần phải có
niềm tin ở người mình dùng. Chính sự tin tưởng, kì vọng của Bác giành cho Đại
tướng đã tiếp thêm sức mạnh cho Đại tướng đưa ra quyết định thay đổi chiến
thuật và đã làm nên một chiến thắng “lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu”,
buộc Thực Dân Pháp phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam.

- Khi dạy bài 28 lịch sử 9: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền sài gòn ở miền Nam (1954 – 1965).
Khi dạy mục I: Tình hình nước ta sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954. Đất
nước ta tạm thời chia làm hai miền: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam chịu ách kìm kẹp của Mĩ – Ngụy.
Nhân dân hai miền thực hiện hai nhiệm vụ khác nhau: Miền Bắc hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội
đạt nhiều thành tựu; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, trực tiếp đấu tranh chống Mĩ và tay sai giành nhiều thắng lợi.
Giáo viên giáo dục tinh thần lao động của nhân dân miền Bắc và tinh thần
chiến đấu dũng cảm của nhân dân miền Nam: Miền Bắc với vai trò là hậu
phương, nhân dân miền Bắc thi đua sản xuất thực hiện mục tiêu kế hoạch 5 năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đảm bảo sự chi viện cho chiến trường miền Nam;
12


nhân dân miền Nam làm nên phong trào “Đồng khởi”; đánh bại chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của Mĩ. Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”,
Mĩ trực tiếp nhảy vào miền Nam. Bác đã kêu gọi cả nước đứng lên chống Mĩ.
Người nói: “Dù Mĩ có đưa mấy chục vạn quân vào miền Nam, nhân dân ta cũng
quyết tâm đánh bại chúng, chúng càng thua đau ở miền Nam thì chúng điên
cuồng ném bom miền Bắc. Đế quốc Mĩ giống như con thú giữ bị thương cố giãy
giụa trước hơi thở cuối cùng. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày
thống nhất ta xây dựng đất nước đoàng hoàng hơn tươi đẹp hơn...”
Qua câu nói của Bác giáo viên giúp cho học sinh thấy được khả năng dự
đoán tình hình rất chính xác của Bác (thất bại ở miền Nam, Mĩ sẽ đưa quân đánh
phá miền Bắc) và niềm tin tất thắng, tư tưởng không có gì quý hơn độc lập tự
do. Từ đó giáo viên giáo dục cho học sinh: Trong cuộc sống phải biết hoạch định
được kế hoạch, dự báo được tình hình, tin tưởng vào khả năng thực hiện, niềm
tin vào tương lai tươi sáng và hãy luôn nhớ “chính nghĩa luôn thắng hung tàn”.

- Khi dạy bài 29 lịch sử 9: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu
nước (1965 – 1973).
Cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta thời kì (1965 – 1973) là thời kì
ác liệt nhất vì Mĩ đưa quân sang trực tiếp tham chiến ở miền Nam bằng chiến
lược “chiến tranh cục bộ”. Lúc bấy giờ, tuổi Bác đã cao, sức đã yếu, nhưng mỗi
buổi sáng thức dậy Bác đều gọi các chiến sĩ bảo vệ vào hỏi miền Nam hôm nay
thắng lợi ở đâu, đồng bào ta trong đó thế nào. Bác có một ước mơ khi nước nhà
thống nhất sẽ vào thăm đồng bào miền Nam. Nhiều lúc khi còn chiến tranh Bác
đề nghị vào thăm miền Nam nhưng các đồng chí trung ương không đồng ý. Bác
vẫn thường luôn nói “miền Nam trong trái tim tôi”. Cứ mỗi độ xuân về, tết đến
người đều viết thư chúc tết đồng bào cả nước, bài thơ chúc tết cuối cùng của
Người (1968) đã căn dặn đồng bào cả nước “đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy
nhào, Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn” và rồi Bác Hồ kính yêu của chúng ta
đã yên giấc nghìn thu khi chưa một lần được vào miền Nam.
Mĩ ngày càng đẩy mạnh cuộc chiến tranh lên quy mô lớn trên khắp cả
nước, hai lần thực hiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhưng nhân dân cả nước
đã biến đau thương thành hành động, quyết tâm thực hiện di chúc thiêng liêng
của người, lập nên nhiều chiến thắng oanh liệt, đỉnh cao là trận Điện Biên Phủ
trên không cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội, Mĩ buộc phải kí hiệp định Pari,
rút hết quân về nước.
Qua nỗi lòng ấy của Bác, sự quyết tâm của nhân dân hai miền: Giáo viên
giáo dục học sinh lòng biết ơn sâu sắc đối với Bác Hồ, để đền đáp phần nào
công lao và tình yêu thương của Người giành cho đồng bào cả nước nói chung
và nhân dân miền nam nói riêng. Thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam hôm nay cần
phải ra sức học tập, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đó là trách nhiệm của mỗi công
dân Việt Nam.
3.2.5. Giáo dục cho học sinh học tập đức tính giản dị của Hồ Chủ Tịch:
13



Bởi vì thế hệ thanh thiếu niên hiện nay do bị tác động bởi nhiều yếu tố,
như phim ảnh, lối sống không lành mạnh đã suy thoái về đạo đức, lối sống, từ
trang phục, lối sống, cách cư xử với mọi người… Vì vậy, giáo dục học sinh học
tập đức tính giản dị của Bác là vô cùng cần thiết, từ đó góp phần hình thành
nhân cách cho học sinh.
Khi giảng đến chiến dịch Biên giới Thu – Đông năm 1950, giáo viên có
thể cho học sinh xem hình: Người đang theo dõi mặt trận Đông Khê (cao Bằng);
Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo chiến dịch Biên Giới năm 1950.
Sau khi học sinh xem hình ảnh, giáo viên đặt câu hỏi: Qua hình ảnh trên,
em có nhận xét như thế nào về Bác?
Sau khi học sinh nhận xét, giáo viên chốt ý: Do tầm quan trọng của chiến
dịch Biên giới Thu – Đông 1950, nên Bác không sợ hy sinh, gian khổ, trực tiếp
ra mặt trận chỉ đạo chiến dịch. Phong cách của Bác rất bình dị, Bác luôn gần gũi
với các chiến sĩ. Bác chưa bao giờ tự cho mình có quyền được hưởng những đặc
quyền, đặc lợi. Từ những phẩm chất cao quý đó của Bác, giáo viên giáo dục học
sinh về ý chí, không sợ hy sinh, gian khổ, sự bình dị, không nên đua đòi, lối
sống chan hòa, tình cảm với mọi người sung quanh.
Để nói thêm về tính bình dị, giáo viên có thể minh họa bằng câu nói sau
của Bác: “Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà
hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành. Nếu nhân dân tín nhiệm tội đứng ra gánh vác công
việc nước, không được nhân dân tín nhiệm thì tôi về làm bạn với trẻ chăn trâu
và cụ già hái củi...”. Trong bữa ăn các món ăn rất giản dị, thịt gà do Người nuôi,
cá bắt dưới hồ, có khi Người để lại đĩa thịt gà mà ăn trọn những quả cà xứ nghệ.
Giáo viên có thể dùng câu chuyện: Nhà nước đề nghị phong tặng huân
chương và tạc tượng Bác. Bác nói: “Đất nước có chiến tranh các chú để đồng
đúc đạn để đánh giặc”.
Qua câu nói trên cho thấy, Bác Hồ của chúng ta vô cùng giản dị, Dù ở
cương vị nào lối sống của Người cũng giản dị, một đôi dép cao su, bộ đồ ka ki
đã ngả màu theo thời gian. Người sống giản dị nhưng không tầm thường, trên

thế giới không có vị lãnh tụ nào mà suốt cuộc đời với bộ đồ kaki đã ngả màu với
đôi dép cao su đã mòn gót, sống trong ngôi nhà sàn. Người sống thanh bạch
không ham địa vị, không màng danh lợi. Đức tính giản dị của Bác được nhà thơ
Tố Hữu ca ngợi: “Mong manh áo vải hồn muôn trượng, hơn tượng đồng phơi
những lối mòn”. Có một nhà báo nước ngoài khi nhận xét về Người: “Người
giống một thầy giáo ở nông thôn hơn là vị chủ tịch nước”.
Qua đó, giáo viên giáo dục cho học sinh tính giản dị, không đua đòi. Vì
đua đòi, trưng diện là lãng phí, tiêu tốn tiền bạc nhiều cho những khoản chi tiêu
vô bổ, trong khi các em còn đang đi học, sống phụ thuộc vào gia đình, gia đình
phải lao động vất vả mới làm ra đồng tiền. Vì vậy, các em phải tiết kiệm.
3.2.6. Giáo dục đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư:
14


Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một tám gương đạo đức của một vĩ
nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại nhưng đó đồng
thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình dị mà ai cũng có thể học tâp
để làm một người công dân tốt. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng tứng nói: “ Hồ
Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, chói mà không rợp, mới gặp lần
đầu đã thấy quen thuộc”.
Để giáo dục cho học sinh đức tính giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công
vô tư của Bác, giáo viên sử dụng bài thơ “Cần, kiệm, liêm, chính” (Bác viết vào
6/1947).
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiêm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người. ”...
Qua bài thơ đó giáo viên hỏi học sinh: Bác đã xác định muốn thành người

thì phải hội tụ những đức tính nào? Bản thân em nhận thấy mình đã hội tụ đủ
những đức tính đó chưa?
Giáo viên hướng dẫn học sinh cần làm gì để trở thành người “Cần kiệm,
liêm, chính”.
Để thực hiện đức tính “Cần”: Khi thấy trường lớp mất vệ sinh thì các em
hãy tự giác dọn vệ sinh, thấy rác thì nhặt; về nhà phải biết phụ giúp việc nhà,
tham gia dọn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
Để thực hiện đức tính “Kiệm”: Các em chỉ cần thực hiện những việc làm
rất thiết thực như: Vào buổi sáng tiết trời còn mát, vì vậy các em không nên bật
quạt nhằm tiết kiệm điện; các em ở khu tập thể nội trú cần sử dụng nước vừa đủ
cho hoạt động cá nhân, không nên xả nước quá nhiều khi không cần thiết.
Để thực hiện đức tính Liêm: Không được tham lam, dối trá, trong thi cử
không được quay cóp, xem bài của bạn, hãy nỗ lực học tập và lao động bằng
chính sức lực của mình, hãy sống thanh cao và liêm khiết.
Để thực hiện đức tính Chính: Phải chân thành, thẳng thắn góp ý khi thấy
bạn sai trái, luôn đấu tranh vì lẽ phải, chống biểu hiện tiêu cực.
3.2.7. Giáo dục tư tưởng tinh thần đoàn kết của Bác:
- Giáo dục tư tưởng tinh thần đoàn kết quốc tế, “Bốn phương vô sản đều
là anh em” của Bác:
Sau khi sang Pháp Người nhận xét: “Người Pháp ở Pháp tốt hơn người
Pháp ở Đông Dương”, ở đâu cũng có hai loại người người bóc lột và người bị
bóc lột. Để thấy được chúng ta chống bọn thực dân Pháp kẻ đã gây bao đau
thương, tang tóc cho các dân tộc thuộc địa chứ người Pháp tiến bộ là bạn chúng
ta. Phải tranh thủ sự giúp đỡ của họ. Sau khi dùng lược đồ giới thiệu hành trình
cứu nước của Bác. Từ năm 1911-1917 Bác đi khắp thế giới Bác từng đi thăm
khu phố Hac-lem nơi ở của người da đen ở Mĩ, Người hiểu rõ được bản chất tàn
bạo của chủ nghĩa thực dân. Vì vậy, muốn đánh đổ đế quốc thực dân thì vô sản
15



quốc tế phải đoàn kết lại. Qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng tình đoàn kết
quốc tế “ Bốn phương vô sản đều là anh em” từ đó hình thành cho học sinh
cách nhìn nhận “bạn” “thù” một cách rõ ràng, rành mạch. Chúng ta căm thù
chủ nghĩa đế quốc, thực dân kẻ đã xâm lược đất nước ta, gây bao nỗi đau khổ
cho dân tộc ta chứ nhân dân tiến bộ các nước là anh em, như nhân dân Pháp, Mĩ
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ họ đã tích cực ủng hộ cuộc kháng
chiến của ta. Như anh Hăng-ri-mác tanh không chịu sang Đông Dương giết hại
nhân dân Đông Dương, chị Ray-mông -điêng nằm trên đường ray để cản đoàn
tàu chở vũ khí sang Đông Dương của Pháp. Anh Mo-ri-xơn tự thiêu trước nhà
quốc hội Mĩ để phản đối cuộc chiến tranh của đế quốc Mĩ ở Việt Nam, và bao
nhiêu thanh niên Mĩ đốt thẻ quân dịch không chịu sang Việt Nam tàn sát đồng
bào ta… Ngày nay, đất nước đã thống nhất, Nhà nước ta thực hiện đường lối đối
ngoại tích cực quan hệ giao lưu với thế giới, nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Chúng ta “hòa nhập chứ không hòa tan, Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước trên thế giới”. Cả dân tộc ta khép lại quá khứ hướng tới tương lai để
xây dựng đất nước. Chúng ta khép lại quá khứ chứ không bao giờ quên quá khứ,
“Ai bắn vào quá khứ bằng phát súng lục, thì tương lai sẽ trả lời bằng đại bác”.
Vì vậy, trong dạy học lịch sử lồng ghép tư tưởng này để học sinh nhìn nhận
đúng đắn đường lối đối ngoại của Đảng ta.
- Ngoài ra về tinh thần đoàn kết, khi dạy bài 20 lịch sử 9: Cuộc vận động
dân chủ trong những năm 1936 - 1939. Khi giảng đến đoạn thành lập Mặt trận
Nhân dân phản đế Đông Dương, giáo viên có thể nói cho học sinh biết tại sao
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế
Đông Dương và vai trò của Mặt trận là tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân,
tạo nên sức mạnh của toàn dân nhằm chống kẻ thù chung.
Từ đó, giáo viên giáo dục học sinh tinh thần đoàn kết dân tộc, không phân
biệt “Bắc – Nam; Lương – Giáo; Người Kinh hay dân tộc ít người”. Đó mãi là
mục tiêu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay, nhằm tạo nên sức mạnh của
toàn dân trong xây dựng và phát triển đất nước, chống âm mưu diễn biến hòa
bình của các thế lực thù địch.

- Khi dạy bài 25 lịch sử 9: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống Thực dân Pháp (1946 – 1950).
Khi dạy nội dung: Mặc dù đã kí hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm
ước ngày 14/9/1946, Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích, tiến công ta ở
nhiều nơi, ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu, giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng. Trước tình hình đó, ngày
19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
định ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“...Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh Thực
Dân Pháp để cứu Tổ quốc.
16


Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng
cuốc, xuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống Thực Dân Pháp cứu
nước.
... Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh,
thì thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”
Để giúp các em cảm nhận được ý chí quyết tâm của Bác, tình cảm của
Bác, giáo viên nên sử dụng đoạn ghi âm lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do
Bác Hồ phát động.
Sau khi học sinh nghe song đoạn trích trên, giáo viên đặt câu hỏi: Em có
cảm nhận gì qua lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác?
Giáo viên gọi học sinh trả lời và củng cố: Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến thể hiện ý chí quyết tâm đấu tranh bảo vệ nền độc lập của nước nhà; lời
kêu gọi đã thể hiện rõ tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm của mọi công dân.
Qua đó, giáo viên giáo dục học sinh ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc, tinh

thần đoàn kết dân tộc để chống kẻ thù chung trong bất cứ hoàn cảnh nào, thể lực
nào.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất rộng trải dài trên nhiều lĩnh vực. Vì
vậy, việc lồng ghép giáo dục tư tưởng của Bác vào dạy học để góp phần giáo
dục đạo đức, tư tưởng cách mạng cho học sinh là rất nhiều, có thể áp dụng lồng
ghép vào nhiều tiết dạy.
Trên đây là một vài phương pháp lồng ghép giáo dục đạo đức, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử mà tôi đã đưa ra trong đề tài của mình. Có
thể nói rằng: Dạy học là việc làm sáng tạo, giáo viên được mệnh danh là “kĩ sư
tâm hồn, là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa”. Vì vậy, để dạy tốt và gây hứng thú
cho học sinh, góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh qua tiết học lịch sử thì
mỗi giáo viên cần phải sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp tùy theo nội
dung bài học, tùy theo đối tượng học của từng khối, lớp. Đối với việc lồng ghép
giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh trong tiết học lịch sử, thì giáo viên phải biết linh hoạt, phân bố
thời gian, kiến thức cho phù hợp với từng bài. Tránh tình trạng giáo viên quá sa
đà dẫn đến việc biến tiết học lịch sử thành tiết kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh.
Không truyền thụ hết nội dung trong bài học.
3. Kết quả đạt được:
Khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào dạy học, giáo dục học sinh,
tôi nhận thấy đạt được rất nhiều lợi ích.
- Bản thân tôi hiểu nhiều hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Việc tiến hành tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài dạy trở nên đơn giản
hơn.
- Học sinh tiếp nhận tư tưởng Hồ Chí Minh một cách chủ động hơn, hứng thú
hơn trong học tập bộ môn lịch sử và tiến hành làm theo tấm gương đạo đức của
Bác bằng những việc làm thiết thực như: thực hành tiết kiệm, giữ gìn vệ sinh,
đoàn kết với bạn bè...
Qua khảo sát trắc nghiệm từ 2 khối lớp, tôi nhận được kết quả như sau:
17



1

8A


số
31

2

8B

32

3

9A

30

4

9B

26

TT Lớp


Giỏi
SL
%
10 32.
3
7
21.
9
9
30.
0
6
23.
1

Khá
SL
%
15 48.
4
17 53.
1
16 53.
3
13 50.
0

TB
SL
6

8
5
7

%
19.
3
25.
0
16.
7
26.
9

Yếu
SL %
0
0

Kém
SL %
0
0

0

0

0


0

0

0

0

0

0

0

0

0

Qua kết quả đạt được đó cho thấy rằng các em đã yêu thích bộ môn lịch
sử, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của lịch sử và thấm nhuần đạo đức tư
tưởng của Hồ Chí Minh.
4. Kết luận, kiến nghị:
4.1. Kết luận:
Ở bất kì thời đại nào, xã hội nào thì đạo đức vẫn được xem là gốc, là nền
tảng của sự phát triển nhân cách của con người. Vì vậy, ở mọi quốc gia, dân tộc,
vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức luôn được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của tất cả các tổ chức xã hội, đoàn thể. Nhưng trong đó, vai trò của ngành
giáo dục là quan trọng nhất. Bởi sản phẩm đặc thù của ngành giáo dục là đào tạo
con người, như Bác Hồ đã từng nói: “có tài mà không có đức là người vô dụng”.
Từ đó, công tác giáo dục đạo đức học sinh là một trong những nhiệm vụ quan

trọng trong nhà trường hiện nay.
Để hoàn thành sứ mệnh, tạo ra những “sản phẩm” hoàn hảo hơn thì mỗi
giáo viên cần phải thực hiện nghiêm túc việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho học sinh để giúp mỗi học sinh luôn kính yêu Bác và ra sức học tập, rèn
luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức làm theo lời Bác dạy. Đồng thời để thực hiện
việc lồng ghép giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua việc giáo dục tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh trong tiết học lịch sử thật sự đi vào chiều sâu thì mỗi giáo
viên phải biết linh hoạt, phân bố thời gian, kiến thức cho phù hợp với từng bài,
sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp tùy theo nội dung bài học, tùy theo
đối tượng học sinh của từng lớp. Cần giáo dục học sinh những nội dung gần
nhất, cụ thể nhất, thiết thực nhất, để học sinh luôn cảm nhận được tư tưởng Hồ
Chí Minh luôn rất gần với mình, không cao siêu, không vĩ đại, ai cũng có thể
học tập và làm theo được. Giáo viên cần tránh tình trạng quá sa đà dẫn đến việc
biến tiết học lịch sử thành tiết kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh, không truyền
thụ hết nội dung trong bài học.
4.2. Kiến nghị:
Từ kết quả thu được trong quá trình vận dụng thực hiện các giải pháp lồng
ghép trên để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử cần:
- Tổ chức cho học sinh thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh qua các
buổi ngoại khóa.
18


- Các bài dạy có liên quan giáo viên phải phát động cho học sinh sưu tầm ảnh, tư
liệu lịch sử về Bác.
- Chú trọng sử dụng thiết bị dạy học hiện đại để thông qua các kênh hình, kênh
chữ để trực quan cho học sinh thấy và dễ hiểu, dễ nắm bắt.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị nội dung bài học ở nhà, sau đó
kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm học sinh yếu, kém, tuyên dương,
động viên kịp thời nếu những học sinh này làm tốt nhiệm vụ mà giáo viên giao

để khuyến khích các em phát huy tạo niềm say mê cho các em yêu thích môn
học.
- Phải thường xuyên tìm đọc những mẫu chuyện về cuộc đời, hoạt động hoặc
những câu chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Thư viện nhà trường cần phải trang bị nhiều tư liệu, sách về cuộc đời hoạt
động của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Phòng giáo dục và đào tạo cần tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề để giáo
viên học tập, trao đổi kinh nghiệm, phương pháp dạy học, nâng cao trình độ
năng lực dạy học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Hà Minh Tuấn

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hà Minh Tuấn
Chức vụ và đơn vị công tác:Trường THCS – DTNT Quan Sơn.
Kết quả
Cấp đánh

đánh giá
giá xếp loại
Năm học đánh
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng, Sở,
giá xếp loại
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Sử dụng đồ dùng trực quan
2006 - 2007
1
Phòng
B
trong dạy học lịch sử
Một số vấn đề về phương
2008 - 2009
pháp sử dụng hộp hiện vật cổ
2 phục chế trong bộ môn lịch
Phòng
B
sử 6 nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh
Phòng
3 Phương pháp ôn tập lịch sử 9
2010 - 2011
C
Sử dụng đồ dùng trực quan

2011 - 2012
4 tạo hình trong dạy học lịch sử
Phòng
B
9
Phương pháp khai thác, sử
2013 - 2014
5 dụng kênh hình trong SGK
Phòng
B
để dạy học lịch sử lớp 9
Sử dụng hiệu quả kênh hình
2014 - 2015
6
Phòng
B
trong dạy học lịch sử
kinh nghiệm vận dụng kiến
7 thức liên môn trong dạy học
Phòng
B
2015 - 2016
lịch sử

20



×