Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một số giải pháp dạy văn bảntiếng nói của văn nghệ nguyễn đình thi(tiết 96,97 ngữ văn 9, tập 2) theo hướng phát triển năng lực học sinh ở trường PTDTBT THCS trung tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.06 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU. ……………………………………………………………………..1
1.1. Lý do chọn đề tài:.............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu…....................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................2
1. 4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................2
2. NỘI DUNG..........................................................................................................3
2.1.Cơ sở lí luận.......................................................................................................3
2.2. Thực trạng việc dạy học văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”- Nguyễn Đình
Thi............................................................................................................................3
2.3. Các giải pháp dạy văn bản Tiếng nói của văn nghệ - Nguyễn Đình Thi (tiết
96,97-Ngữ văn 9, tập 2) theo hướng phát triển năng lực học sinh”........................ 5
2.3.1. Tuân thủ nguyên tắc: Giáo viên là người hướng dẫn, học sinh phải tự mình
khám phá kiến thức..................................................................................................5
2.3.2. Hướng dẫn học sinh cách tiếp cận văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”Nguyễn Đình Thi theo đặc trưng kiểu văn bản........................................................5
2.3.3. Chú trọng xây dựng câu hỏi, tạo tình huống phù hợp để phát huy tối đa
phẩm chất và năng lực học sinh...............................................................................6
2.3.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực vào các hoạt động
học............................................................................................................................
8
2.3.5. So sánh, đối chiếu với một số bộ môn khoa học khác để thấy được sự tác
động
đặc
thù
của
văn
nghệ
đến
với
con
người.........................................................8


2.3.6. Sử dụng hợp lí, hiệu quả thiết bị, đồ dùng dạy học.......................................9
2.3.7. Lồng ghép vào bài dạy dẫn chứng các tác phẩm văn nghệ, những mẩu
chuyện cụ thể để học sinh thấy được sự tác động của tác phẩm ấy đối với bản thân
các em....................................................................................................................10
2.3.8. Ra bài tập cho học sinh luyện ở nhà đúng với tinh thần đổi mới kiểm tra
đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh.................................................10
2.4. Hiệu quả của việc áp dụng đề tài Một số giải pháp dạy văn bản Tiếng nói của
văn nghệ - Nguyễn Đình Thi (tiết 96,97-Ngữ văn 9, tập 2) theo hướng phát triển
năng lực học sinh................................................................................................. .10
3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..................................................................................11
3.1. Kết luận...........................................................................................................11
3.2.
nghị.........................................................................................................12

Kiến
0


1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lý do chọn đề tài:
Từ xưa đến nay, văn chương nghệ thuật là một trong những hoạt động tinh
thần hết sức lí thú và bổ ích trong cuộc sống của con người. Qua văn chương con
người cảm nhận và ý thức được cái đẹp và sự hài hịa của cuộc sống tiếp cận và tự
nâng mình lên với những tư tưởng tình cảm sâu sắc, tinh tế; văn chương bồi
dưỡng về ngôn ngữ - thứ ngôn ngữ phong phú, sống động và giàu sức biểu cảm
của dân tộc .Với vai trị quan trọng đó của văn học, trong những năm gần đây việc
đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục nói chung và mơn Ngữ
văn Trung học cơ sở nói riêng là một vấn đề cấp thiết luôn được đặt lên hàng đầu
với nhiệm vụ đặt ra cụ thể cho những người làm công tác giáo dục là phải
“chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển

toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn
với thực tiễn cuộc sống”. Điều này đã đi đến một sự thống nhất là phải đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh. Chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung vốn đã cũ mòn sang tiếp cận năng lực người học.
Giáo viên từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì (kiến thức hàn lâm)
chuyển sang quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Do đó trong
các tiết học, giáo viên cần chú trọng dạy học sinh cách học, cách vận dụng kiến
thức, rèn luyện kĩ năng thực hành, hình thành năng lực, phẩm chất cho các em.
Để thực hiện tinh thần đổi mới ấy đòi hỏi các cấp lãnh đạo chuyên môn đến
các giáo viên trực tiếp giảng dạy phải thật sự hiểu rõ và tích cực áp dụng phương
pháp dạy học mới vào các hoạt động giáo dục. Đối với môn Ngữ văn đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh phải được giáo viên
dạy văn thực hiện đồng bộ ở cả 3 phân mơn: Tiếng việt, tập làm văn, văn bản.
Trong đó đối với những tiết dạy văn bản, giáo viên phải ln đóng vai trị là người
hướng dẫn cho học sinh cách học. Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi
gợi sự liên tưởng, tưởng tượng và tư duy cho các em, làm sao để tiết dạy phải phát
huy tính tích cực, chủ động, tự giác, phát triển năng lực tự học của học sinh.
Chương trình Ngữ văn 9, tập 2 có bốn văn bản nghị luận: “Bàn về đọc
sách” (Chu Quang Tiềm), “Tiếng nói của văn nghệ” (Nguyễn Đình Thi), “Chuẩn
bị hành trang vào thế kỉ mới”( Vũ Khoan), “Chó Sói và Cừu trong thơ ngụ ngơn
của La- phơng- ten” (Hi-pơ-lit- ten). Trong đó văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” Nguyễn Đình Thi là một văn bản nghị luận thường được đánh giá là nhiều kiến
thức lí luận trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh. Điều này địi hỏi giáo viên phải
có phương pháp dạy học mới làm sao để phát huy năng lực, khơi gợi được sự tích
cực, chủ động, sáng tạo của các em khi học văn bản này.
Là một giáo viên nhiều năm được phân công giảng dạy bộ môn Ngữ văn
nhất là Ngữ văn 9, cũng như những đồng nghiệp khác, trong những năm đầu tôi
rất lúng túng khi dạy văn bản này. Tham gia dự giờ thăm lớp tại trường, dự giờ
chuyên đề cụm tại trường bạn, bản thân cũng đã thao giảng giáo viên dạy giỏi về
tiết dạy văn bản này và nhận được sự trao đổi, góp ý quý giá của nhiều giáo viên
cùng chuyên môn . Với niềm đam mê nghề nghiệp, cùng những lo lắng, trăn trở,

1


tìm tịi, thử nghiệm ở nhiều lớp, nhiều năm,... tơi đã dần tìm ra hướng đi cho mình
trong việc dạy văn bản này đạt hiệu quả. Đặc biệt tôi vui mừng hơn nữa vì được
tiếp thu tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo hướng
phát triển năng lực học sinh trong đợt học tập chuyên đề do Phịng giáo dục và
đào tạo tổ chức. Tơi lại càng tự tin hơn nữa khi hướng đi trong bài dạy của mình
đã đáp ứng tinh thần đổi mới ấy. Vì thế bản thân mạnh dạn trao đổi với đồng
nghiệp qua sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp dạy văn bản “Tiếng nói của
văn nghệ”- Nguyễn Đình Thi ( tiết 96, 97- Ngữ văn 9, tập 2) theo hướng phát
triển năng lực học sinh ở Trường PTDT BT THCS Trung Tiến mà tôi đã đúc rút
được từ nhiều năm giảng dạy. Đề tài hi vọng sẽ mở ra một hướng đi mới trong
việc dạy văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”- Nguyễn Đình Thi theo đúng với tinh
thần đổi mới phương pháp dạy học mà ngành giáo dục đang chỉ đạo hiện nay.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài: Một số giải pháp dạy văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”Nguyễn Đình Thi ( tiết 96, 97- Ngữ văn 9, tập 2) theo hướng phát triển năng
lực học sinh ở Trường PTDT BT THCS Trung Tiến dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của giáo viên học sinh có cơ hội biết thêm một văn bản nghị luận văn chương
nhưng lại là nghị luận chuyên sâu về một lĩnh vực văn học nghệ thuật. Đây là một
văn bản hiếm gặp trong chương trình Ngữ văn bậc Trung học cơ sở. Vì thế học
xong văn bản các em có thêm kiến thức lí luận văn học. Đây chính là cơ sở để
chuẩn bị tốt cho các cấp học tiếp theo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số giải pháp dạy văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”- Nguyễn Đình
Thi ( tiết 96, 97- Ngữ văn 9, tập 2) theo hướng phát triển năng lực học sinh ở
Trường PTDT BT THCS Trung Tiến.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra.

- Phương pháp giải quyết vấn đề
- Phương pháp đàm thoại, phân tích, gợi mở
- Phương pháp kiểm tra đánh giá.
2. NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lí luận
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ngày càng địi hỏi
nguồn nhân lực khơng những đủ về số lượng mà còn đảm bảo về chất lượng đào
tạo. Điều này đòi hỏi phải đào tạo nên nguồn nhân lực có trình độ đảm bảo được
các u cầu của cơng cuộc đổi mới. Muốn vậy phải đổi mới giáo dục từ nền giáo
dục mang tính hàn lâm, xa dời thực tiễn sang nền giáo dục hiện đại phát huy tính
chủ động sáng tạo của người học. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
2


vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học đã được áp dụng trong những năm gần
đây trong hệ thống giáo dục các cấp.
Tiếp thu định hướng đổi mới đó trong những năm gần đây ngành giáo dục
đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ chương trình giáo dục
tiếp cận nội dung quan tâm đến việc học sinh học được cái gì sang chỗ học sinh
vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện
chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách
học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm
chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh
theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên
cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn
cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên mơn nhằm phát triển năng lực giải
quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn đời sống mà môn văn học phản ánh bằng
nghệ thuật ngôn từ.
Hơn nữa mơn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu

chung của nhà trường THCS; là mơn học hình thành những con người có ý thức
tự tu dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn; có lịng u nước, u
chủ nghĩa xã hội; biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lịng nhân
ái, biết tơn trọng lẽ phải, sự cơng bằng, căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con
người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực
cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật.
2.2. Thực trạng việc dạy học văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”Nguyễn Đình Thi.
Là một trường thuộc vùng núi cao của tỉnh Thanh Hóa - Trường PTDTB
THCS Trung Tiến có tỉ lệ học sinh người dân tộc thiểu số chiếm phần đông số học
sinh tồn trường điều này gặp nhiều khó khăn trong công tác giảng dạy của nhà
trường bởi phần lớn các em chưa xác định được nhu cầu học tập, việc học cịn
mang tính đối phó, chưa hứng thú, chưa nỗ lực phấn đấu vươn lên thông qua việc
đọc thêm sách, tìm hiểu, khám phá mở rộng bài học. Kiến thức về thực tế cuộc
sống còn nghèo nàn nên khi thực hành viết văn vẫn còn làm bài sơ sài, qua
loa. Học sinh chưa nắm chắc kiến thức, còn nhiều lỗ hổng; kĩ năng vận dụng
chậm, phương pháp học tập chưa tốt. Nhiều học sinh còn thụ động, ngại “động
não”; chủ yếu ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khn những gì giáo
viên giảng. Hơn nữa phần lớn học sinh trong nhà trường kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tế cuộc sống còn hạn chế nhất là việc các em tiếp cận với các văn
bản nghị luận văn học lại gặp khơng ít khó khăn vướng mắc cụ thể như việc dạy
học các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn 9 như văn bản “Tiếng nói
của văn nghệ”. Đây là văn bản ít được các giáo viên lấy dạy thử nghiệm theo
phương pháp đổi mới của bộ môn Ngữ văn để các giáo viên có thể dự giờ tham
khảo, học tập, trao đổi và đúc rút kinh nghiệm. Nhiều năm trước đây, khi được dự
giờ tiết dạy văn bản này tại trường mình và trường bạn, tơi nhận thấy tình trạng
chung của các tiết dạy văn bản này vẫn chưa được đánh giá là giờ dạy giỏi vì học
sinh vẫn chưa phát huy hết năng lực của mình dẫn đến tiết dạy chưa thành công.
3



Giáo viên vẫn còn sa vào lối truyền thụ kiến thức một chiều, học sinh tiếp thu
kiến thức một cách thụ động. Sau các tiết dạy, trao đổi với nhiều đồng nghiệp ở
các trường, họ bày tỏ mong muốn có một tiết dạy văn bản này theo phương pháp
mới để giáo viên có thể tham khảo, học tập. Tham khảo ý kiến của nhiều giáo
viên khi dạy văn bản này, họ đều có chung một kết luận: Văn bản thực sự khó dạy.
Kể cả những giáo viên được chọn dạy thực tập chuyên đề cụm và giáo viên dạy
thao giảng các kỳ thi giáo viên giỏi các cấp, họ cũng có khơng ít băn khoăn. Cái
khó này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Có thể là do một số giáo viên cịn non về
kiến thức lí luận văn học mà yêu cầu đổi mới trong nhiều năm trở lại đây là giáo
viên phải nắm chắc kiến thức lí luận văn học hoặc có nhiều giáo viên kiến thức rất
chắc nhưng họ lại chưa tìm ra được hướng đi mới cho tiết dạy hay có thể là do
ngơn từ văn bản trừu tượng đối với học sinh mà xu hướng của các em là thích học
những văn bản tự sự hoặc văn bản trữ tình hơn. Hay do tâm lí người dạy cho rằng,
văn bản khó truyền thụ, khó khơi dậy sự hứng thú, tích cực học tập ở các em nên
dẫn đến giờ dạy kém hiệu quả, chưa đạt kết quả như mong muốn .
Dù là nguyên nhân nào thì cuối cùng cũng đi đến một kết luận, cứ đến bài
dạy này là giáo viên tỏ ra ngán ngẩm, rồi loay hoay, xoay sở không biết làm sao
để thu hút, tạo hứng thú cho các em trong hai tiết dạy bài này. Rồi các kĩ năng,
những phương pháp nào là tốt nhất để hướng dẫn, rèn luyện cho các em cách
học ? Làm cho học sinh hiểu rằng các em phải tự mình hồn thành nhiệm vụ nhận
thức dưới sự tổ chức, dẫn dắt của giáo viên ? Quả thực đây đúng là một vấn đề
nan giải và cần trao đổi, bàn bạc để tìm ra hướng đi cho giáo viên khi dạy văn bản
này.
Sau nhiều năm giảng dạy tiếp cận, trao đổi với học sinh các lớp, các trường
khi được hỏi về vấn đề học văn bản này, các em tỏ ra khơng mấy hứng thú vì đây
là một văn bản thuộc về nghị luận văn chương - lĩnh vực khoa học chuyên sâu mà
kiến thức về chuyên ngành lí luận văn học thì các em chưa được học. Vốn kiến
thức văn học nghệ thuật cịn hạn chế vì các em chưa có điều kiện để đọc nhiều
cũng như trải nghiệm cuộc sống. Các em chia sẻ với tôi rằng: khi đọc một câu văn
trong văn bản phải mất khá nhiều thời gian suy nghĩ, nghiền ngẫm thì mới hiểu

được cái cốt lõi sâu xa đằng sau những câu chữ ấy tác giả muốn nói gì mặc dù văn
bản có đưa ra một số dẫn chứng về văn học như dẫn chứng tác phẩm “An-na Carê-nhi-na” hay tác phẩm chèo,... các em chưa có cơ hội đọc và xem những tác
phẩm này. Điều kiện sống hiện đại ngày nay các em ít được tiếp xúc với nghệ
thuật sân khấu, nhất là học sinh vùng khó khăn miền núi chúng tơi ... Những gợi ý
trong phần chú thích (SGK) cịn ít hoặc của giáo viên vẫn còn hạn chế bởi do thời
gian tiết dạy chi phối. Vì thế trong bài học này các em thiếu tập trung, tiếp nhận
kiến thức một cách thụ động, gượng ép, ý thức xây dựng bài kém, khơng hứng thú
vì văn bản q trừu tượng.
Xuất phát từ thực trạng nói trên tơi cụ thể về kết quả của học sinh khối lớp
9 trong năm học 2014 - 2015 do tôi giảng dạy khi chưa áp dụng đề tài này vào
công tác giảng dạy văn bản “ Tiếng nói của văn nghệ” – Nguyễn Đình Thi bằng
bài kiểm tra kiến thức của học sinh sau tiết học như sau:
4


Lớp
9

Sĩ số
37

Giỏi

Khá

Trung bình

SL

%


SL

%

0

0

3

8.1

SL
25

Yếu-Kém

%

SL

%

67.6

9

24.3


2.3. Một số giải pháp dạy văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”- Nguyễn
Đình Thi (tiết 96, 97- Ngữ văn 9, tập 2) theo hướng phát triển năng lực học
sinh:
2.3.1. Tuân thủ nguyên tắc: Giáo viên là người hướng dẫn, học sinh
phải tự mình khám phá kiến thức.
Tiết học văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” nói riêng và mọi tiết học khác
nói chung phải ln đúng với tinh thần đổi mới. Thầy cơ ln đóng vai trị là
người hướng dẫn thông qua việc tổ chức liên tiếp các hoạt động học. Học sinh tự
khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức
được sắp đặt sẵn. Giáo viên chú trọng hơn trong việc rèn luyện cho học sinh cách
đọc, cách tự học, tự nghiên cứu tài liệu, suy luận, tìm tịi và phát hiện ra nhiều
kiến thức mới. Ngoài ra tiết dạy cần tăng cường cho các em sự phối hợp giữa học
cá thể với học hợp tác theo phương châm: “tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều
hơn, tự trình bày ý kiến nhiều hơn” giúp học sinh vừa cố gắng tự học một cách
độc lập, vừa hợp tác chặt chẽ với nhau, phát huy được tính tích cực, chủ động, của
các em.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh cách tiếp cận văn bản “Tiếng nói của văn
nghệ”- Nguyễn Đình Thi theo đặc trưng kiểu văn bản.
Tác phẩm “Tiếng nói của văn nghệ” thuộc kiểu văn bản nghị luận vì thế
giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hướng đọc - hiểu văn bản này theo đúng
với đặc trưng kiểu văn bản. Đó là từ việc học sinh tự mình tìm ra cách đọc một
văn bản nghị luận dưới sự dẫn dắt khéo léo của giáo viên, sau đó các em thể hiện
bằng việc đọc văn bản, tóm tắt hệ thống luận điểm, luận cứ, dẫn chứng, cách lập
luận của tác giả, biết cách khám phá kiến thức theo hệ thống luận điểm ấy để thấy
được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Bên cạnh đó, để dạy tốt văn bản này giáo viên cần nắm chắc các kiến thức
lí luận văn học có liên quan đến văn bản như: Thế nào là tác phẩm văn học? Nội
dung của tác phẩm văn học, chức năng của tác phẩm văn học, đặc trưng của tác
phẩm văn học ... Chẳng hạn:
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần 1: Nội dung của văn nghệ, giáo viên

cần cung cấp thêm cho học sinh những kiến thức về tác phẩm văn nghệ bằng cách
hỏi: Em hiểu như thế nào thì được gọi là một tác phẩm văn nghệ? Học sinh tự
trình bày bằng những hiểu biết của các em trong cuộc sống. Sau đó giáo viên nhận
xét, bổ sung thêm: các tác phẩm hội họa, điêu khắc, bài thơ, bài hát, vở chèo,...
được gọi là tác phẩm văn nghệ. Tác phẩm văn nghệ phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng. Chất liệu thể hiện của tác phẩm văn học là ngôn từ hay nói cách khác
“văn học là nghệ thuật của ngơn từ”. Nội dung đặc thù của tác phẩm văn nghệ là
phản ánh thực tại khách quan thơng qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ.
5


Thực tại khách quan ấy chính là những gì diễn ra trong cuộc sống. Tác giả lấy đề
tài trong cuộc sống. Những đề tài ấy được đưa vào tác phẩm để thể hiện cách
nhìn, cách nghĩ, cách cảm của người nghệ sĩ. Thông qua tác phẩm ấy tác giả gửi
đến người đọc những điều mới mẻ.
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần 2: Sức mạnh của văn nghệ, giáo viên
hỏi: Thông qua sức mạnh của văn nghệ, tác giả muốn khẳng định vai trị, chức
năng gì của văn học? Bằng việc hướng dẫn học sinh về nhà tìm đọc tài liệu lí luận
văn học từ cuối tiết trước để chuẩn bị cho tiết học này, học sinh sẽ nhận ra được
văn học có chức năng giáo dục con người. Giáo viên có thể cung cấp thêm: Văn
học có nhiều chức năng (tính đa chức năng của văn học): chức năng thẩm mỹ,
chức năng nhận thức, chức năng khêu gợi tư tưởng, tình cảm (chức năng giáo
dục), chức năng giao tiếp và giải trí...chức năng nào cũng giúp người đọc khi
thưởng thức tác phẩm văn nghệ thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, hiểu
được thông điệp nhà văn muốn gửi gắm, giáo dục con người hướng thiện, biết
vui, buồn, yêu, ghét, giận, hờn, biết phê phán cái xấu, cái ác.
Khi tìm hiểu phần 3: Con đường để văn nghệ đến với người đọc, giáo viên
hỏi: Thông qua con đường của văn nghệ đến với người đọc, tác giả muốn khẳng
định một đặc trưng nào của văn nghệ? Học sinh sẽ nhận thấy: Đặc trưng của văn
nghệ là tác động đến con người bằng tư tưởng, tình cảm. Bằng cách dẫn dắt như

trên của giáo viên, các em sẽ biết cách tiếp cận văn bản này theo đúng đặc trưng
kiểu văn bản. Các em sẽ tự mình khám phá ra giá trị nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm. Học sinh sẽ khơng cịn bỡ ngỡ khi gặp những văn bản cùng kiểu loại
tương tự. Qua đây các em cũng sẽ có thêm nhiều hiểu biết về kiến thức lí luận văn
học chuẩn bị tốt cho các cấp học tiếp theo.
2.3.3. Chú trọng xây dựng câu hỏi, tạo tình huống phù hợp để phát huy
tối đa phẩm chất và năng lực học sinh.
Yêu cầu đặt ra trong tiết dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh là
các em phải được hình thành những phẩm chất, năng lực cần có trong q trình
học. Những phẩm chất đó có thể là tình u thương, lịng đồng cảm, sẻ chia,
khoan dung, vị tha, tự tin, nghị lực trong cuộc sống,... Năng lực là khả năng vận
dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động
một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đặt ra. Năng lực gồm hai
nhóm: Năng lực chung và năng lực chuyên biệt của môn học. Nắm vững yêu cầu
đó trong hai tiết dạy văn bản này, tôi chú trọng hướng dẫn và đặt các câu hỏi, tình
huống để nhằm phát huy tối đa phẩm chất năng lực của các em cụ thể như sau:
a. Về phát huy phẩm chất:
Trong phần 2: Sức mạnh của văn nghệ, giáo viên hỏi “Hãy lấy một tác
phẩm văn học và chứng minh “ánh sáng” của tác phẩm ấy đã làm thay đổi cách
nghĩ, cách sống của em? (Gợi: HS có thể lấy tác phẩm: “Chiếc lá cuối cùng”- O
Hen-ri). Câu hỏi này sẽ hình thành cho các em những phẩm chất: yêu thương,
đồng cảm với nỗi đau của nhân vật, biết hi sinh vì người khác,...

6


Trong phần 3: Con đường để văn nghệ đến với người đọc, Giáo viên đặt ra
cho học sinh tình huống: ? Học xong tác phẩm “Cô bé bán diêm”- An-đéc-xen,
em sẽ xử sự như thế nào khi gặp một em bé lang thang cơ nhỡ ở ngồi đường?
Tình huống này tiếp tục cho học sinh có cơ hội được bộc lộ những phẩm chất tốt

đẹp vốn có của các em.
b. Về phát huy năng lực:
Tôi chú trọng phát huy cả năng lực chung và năng lực riêng của bộ môn Ngữ văn
cho các em.
- Năng lực chung:
+ Năng lực hợp tác: Học sinh hoạt động nhóm tóm tắt hệ thống luận điểm
và tìm dẫn chứng thể hiện sức mạnh của văn nghệ.
+ Năng lực tự học và sử dụng công nghệ thơng tin: Giáo viên hướng dẫn
học sinh tự tìm đọc sách “Lí luận văn học” (GS Phương Lựu chủ biên) và tác
phẩm An-na-ca-rê-nhi-na (L. Tônxtôi) trên mạng in-te-net hoặc ở các quầy sách,
lưu ý học sinh về cách chọn và đọc sách ở cuối tiết dạy.
+ Năng lực giải quyết vấn đề: Giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề ?So
sánh với các môn khoa học xã hội khác, em thấy sự tác động của văn nghệ có
khác các mơn này như thế nào? Học sinh có năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề
ngay trong một tình huống học tập.
+ Năng lực tư duy: Phần tổng kết bài, giáo viên đặt câu hỏi: ?Qua hai tiết
học, em hãy khái quát lại những nét đặc sắc về nghệ thuật và nội dung của văn
bản bằng việc thể hiện một sơ đồ tư duy trên bảng. Với câu hỏi này, sẽ phát huy
được năng lực tư duy của các em.
- Năng lực riêng của môn văn:
+ Năng lực giao tiếp: Được thể hiện trong toàn tiết dạy, học sinh có cơ hội
giao tiếp bằng việc trả lời câu hỏi, trình bày chính kiến, quan điểm. Giao tiếp giữa
các học sinh với nhau trong hoạt động nhóm hoặc đánh giá, nhận xét nhóm khác.
+ Năng lực tạo lập văn bản: Dạy văn bản giáo viên có thể định hướng cho
các em học tập cách viết văn nghị luận của tác giả Nguyễn Đình Thi với hệ thống
luận điểm rõ ràng, luận cứ chính xác, cách lập luận chặt chẽ, lời văn, giọng văn
chân thành say sưa,... giúp các em nắm chắc hơn những yêu cầu cần thiết để tạo
lập những văn bản nghị luận trong các bài viết hay trong văn bản nói. Kết thúc bài
học, giáo viên tiếp tục ra bài tập về nhà để rèn luyện thêm cho học sinh sự thành
thạo trong việc tạo lập đoạn văn nghị luận.

+ Năng lực cảm thụ thẩm mĩ: Câu “Nghệ thuật khơng đứng ngồi trỏ vẽ
cho ta đường đi. Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta khiến chúng ta phải
tự bước lên đường ấy”. Giáo viên gợi cho học sinh chú ý vào những điểm sáng
nghệ thuật trong câu ấy. Đó là các từ “trỏ vẽ”, “đốt lửa” để từ đó học sinh cảm
nhận được cái hay, cái đẹp trong việc sử dụng ngôn từ, giọng văn chân thành say
sưa của tác giả để từ đó các em hiểu được cái ẩn ý sâu xa đằng sau những từ ngữ
ấy tác giả muốn nói gì.
7


2.3.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực vào các
hoạt động học.
Khi dạy văn bản này giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp
dạy học như:
Phương pháp trực quan: Dùng băng đĩa nhạc cho học sinh nghe đoạn ca
khúc để giới thiệu bài dạy một cách hấp dẫn, sinh động, cuốn hút. Sử dụng ảnh
chân dung Nguyễn Đình Thi, hình ảnh tập tiểu luận “Mấy vấn đề văn học”, một số
tác phẩm thuộc nhiều thể loại của tác giả. Từ đó kiến thức phần tìm hiểu tác giả,
tác phẩm sẽ được củng cố ,khắc sâu...
Phương pháp thảo luận nhóm: Tóm tắt các luận điểm, tìm các dẫn chứng
trong văn bản để thấy rõ sức mạnh của văn nghệ.
Phương pháp nêu vấn đề: Cuối phần 3: Con đường để văn nghệ đến với
người đọc, giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề, học sinh thực hiện.
Phương pháp vấn đáp- gợi mở: được sử dụng trong toàn tiết dạy.
Phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy: trong phần tổng kết bài.
Các phương pháp ấy tôi thấy thực sự phù hợp với các hoạt động dạy, học.
Giáo viên có thể lồng ghép vào tiết dạy một cách tự nhiên. Nó sẽ tạo điều kiện
cho học sinh được suy nghĩ, tư duy độc lập, hoạt động, trình bày chính kiến, quan
điểm nhiều hơn. Mặt khác các phương pháp này góp phần làm cho tiết dạy sinh
động, đặc biệt phương pháp sơ đồ tư duy giúp cho giáo viên chốt ý một cách

nhanh chóng, khoa học hơn dễ hiểu, dễ nhớ.
2.3.5. So sánh, đối chiếu với một số bộ môn khoa học khác để thấy
được sự tác động đặc thù của văn nghệ đến với con người.
Một trong những yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là giáo
viên cần đưa ra những tình huống có vấn đề. Học sinh có khả năng phát hiện vấn
đề từ một tình huống trong học tập hoặc trong thực tiễn. Vì “Tư duy chỉ bắt đầu
khi xuất hiện tình huống có vấn đề” (Rubinstein). Bước quan trọng tiếp theo là
học sinh có thể giải quyết hợp lí tình huống đặt ra. Như vậy học sinh sẽ có khả
năng hoạt động một cách tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn
đề thơng qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được mục đích học
tập khác.
Nắm được tinh thần đó, theo tơi khi dạy văn bản này, giáo viên có thể đưa
ra tình huống cho học sinh giải quyết vấn đề để từ đó các em thấy được sự tác
động đặc thù của văn nghệ so với một số bộ môn khoa học xã hội khác. Ví dụ: ?
So sánh với các bộ môn khoa học xã hội khác như: Giáo dục cơng dân, lịch sử,
địa lí...để các em thấy sự tác động của văn nghệ có khác các mơn học này như thế
nào? Từ tình huống đó, học sinh sẽ phải vận dụng kiến thức môn học Giáo dục
công dân (môn học này thường hô khẩu hiệu bắt mọi người phải làm như thế này,
đừng làm thế kia, nặng về áp đặt, giáo dục đạo đức con người kiểu như: phải tiết
kiệm, phải giản dị, khiêm tốn, năng động, sáng tạo,.... Mơn Lịch sử, Địa lí tác
động đến con người cách ghi nhớ máy móc các sự kiện, diễn biến, vấn đề, tái hiện
8


sự vật, hiện tượng một cách khách quan. Còn tác phẩm nghệ thuật, đúng như
Nguyễn Đình Thi đã nói: “Nghệ thuật khơng đứng ngồi trỏ vẽ cho ta đường đi,
nghệ thuật đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta phải tự bước lên con
đường ấy” Bằng cách nói giàu hình ảnh “trỏ vẽ”, “đốt lửa”, tự bước lên đường
ấy”, tác giả đã gián tiếp khẳng định sự tác động đặc thù của văn nghệ đến người
đọc thông qua con đường tư tưởng, tình cảm (đặc trưng của văn học), văn học tác

động đến con người bằng cảm xúc (vui, buồn, yêu, ghét,...) và bằng tư tưởng
(những suy nghĩ “mung lung” sau khi đọc tác phẩm) để người đọc tự tìm hướng đi
cho mình chứ khơng phải bằng cách như một số môn khoa học xã hội khác. Tác
phẩm nghệ thuật cảm hóa con người thơng qua tâm hồn, trái tim, tình cảm, văn
nghệ bằng những hình tượng nghệ thuật sống động tác động vào cảm xúc mỗi
người. Những cảm xúc ấy giúp con người hướng tới cái thiện, cái mỹ, tránh xa
những điều tội lỗi. Sự ảnh hưởng ấy của văn nghệ quyết định hành động của mỗi
người. Như vậy văn nghệ không bắt ép con người như một số môn học xã hội
khác mà văn nghệ định hướng cho con người cách sống tự giác. Đặt ra tình huống
như trên không những rèn luyện cho học sinh cách tư duy, phát hiện và giải quyết
vấn đề mà các em cịn có cơ hội củng cố, so sánh, đối chiếu một số môn học khác
nhau. Các em biết liên hệ kiến thức liên môn để phát hiện kiến thức mới về mơn
học chính đang học, tạo cho giờ học thêm hấp dẫn, lôi cuốn. Đặc biệt hơn, giáo
viên sẽ có cơ hội để bồi dưỡng tình u bộ mơn Ngữ Văn khi dùng câu hỏi liên
hệ: Với sức mạnh kì diệu của Văn nghệ (trong đó có tác phẩm văn học), nếu ai đó
khun em chỉ nên học Tốn ,Lý , Hố.. khơng nên học Văn, em sẽ trả lời như thế
nào? Tôi chắc rằng câu trả lời của các em sẽ giúp cho chính bản thân học sinh,
phụ huynh và cả xã hội nhìn nhận lại vai trị của văn học nghệ thuật trong cuộc
sống hôm nay...
2.3.6. Sử dụng hợp lí, hiệu quả thiết bị, đồ dùng dạy học.
Tiết học nào cũng vậy, đồ dùng dạy học là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho
giáo viên trong các hoạt động dạy. Nó kích thích sự hứng thú cho các em trong
việc tự mình khám phá kiến thức bài học. Vì thế khi dạy bài này giáo viên cần
tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, bởi máy chiếu sẽ giúp cho giáo viên có
thể trình chiếu các tranh, ảnh về tác giả, tập tiểu luận “Mấy vấn đề văn học’, các
đoạn văn quan trọng trong văn bản để học sinh dễ quan sát và phát hiện kiến thức,
trình chiếu sơ lược các dẫn chứng trong văn bản, sơ đồ tư duy tổng kết nội dung,
nghệ thuật của văn bản. Ngồi ra giáo viên có thể sử dụng băng đài ca khúc “Mùa
xuân ơi” của nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện ngay từ đầu bài học (tiết 96) cho học
sinh thưởng thức ca khúc này để cuốn hút các em vào bài học, gây sự tò mò cho

các em, gợi cho các em ý thức tìm hiểu: vì sao tác phẩm văn nghệ lại thu hút mọi
người như vậy?
Sử dụng đồ dùng dạy học trong mơn Ngữ văn nói chung và tiết dạy văn bản
này nói riêng là một công việc cần làm và phải được diễn ra thường xuyên. Tuy
nhiên điều quan trọng là giáo viên cần phải lựa chọn các đồ dùng phù hợp với bài
dạy, thao tác nhuần nhuyễn trong việc đưa ra các thiết bị, đồ dùng. Sử dụng và cất
một cách hợp lí, tránh sự phân tán của học sinh.
9


2.3.7. Lồng ghép vào bài dạy dẫn chứng các tác phẩm văn nghệ, những
mẩu chuyện cụ thể để học sinh thấy được sự tác động của tác phẩm ấy đối
với bản thân các em.
Luận điểm là linh hồn của văn nghị luận. Để làm sáng rõ luận điểm phải có
hệ thống luận cứ phong phú (dẫn chứng và lí lẽ). Dạy văn bản nghị luận, ngồi
những dẫn chứng có trong văn bản, giáo viên dẫn dắt để đưa thêm nhiều dẫn
chứng ngoài văn bản gây hứng thú cho các em. Nhiều dẫn chứng minh họa cụ thể
giúp các em hiểu bài hơn. Dạy văn bản này giáo viên có thể gợi dẫn cho học sinh
phát hiện ra nhiều dẫn chứng các tác phẩm văn học mà các em đã được học ở cấp
dưới và kì 1 của năm học này để học sinh từ việc học tác phẩm các em biết liên hệ
bản thân. Các em đã rút ra được điều gì khi học tác phẩm ấy? Tác phẩm ấy đã
đem lại cho em những gì? Từ đó các em thấy được sức mạnh kì diệu của tác phẩm
văn nghệ? Học sinh biết liên hệ thực tế bày tỏ chính kiến, quan điểm, rèn cho các
em ý thức sống đẹp, sống có ích trong xã hội. Ngồi ra giáo viên có thể hướng
dẫn cho học sinh những địa chỉ tin cậy để tìm đọc những tác phẩm văn nghệ có
giá trị, hướng dẫn cho các em phương pháp đọc sách hiệu quả, tránh việc học sinh
đọc nhiều mà không thu nhận được điều gì hoặc tránh cho việc học sinh sa vào
việc đọc những cuốn sách có nội dung xấu, ảnh hưởng đến nhân cách các em.
2.3.8. Ra bài tập cho học sinh luyện ở nhà đúng với tinh thần đổi mới
kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh.

Đây là bài tập giúp cho giáo viên có những đánh giá khách quan, chính xác
về năng lực học sinh nhưng không phải là đánh giá bằng việc kiểm tra khả năng
tái hiện, ghi nhớ lại kiến thức các em đã học một cách máy móc mà giáo viên nên
ra bài tập đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực các em. Tức là
chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong một tình huống thực tiễn. Ví
dụ: Giáo viên có thể đưa ra một tình huống: Thử hình dung trong thế kỉ XXI
khơng cịn tồn tại văn nghệ, các nghệ sĩ khơng cịn sáng tác và biểu diễn, các thư
viện biến mất, ti vi và đài phát thanh im tiếng, báo chí ngừng xuất bản,... Thế giới
và mọi người sẽ như thế nào? Em hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ về
hiện tượng trên?
Dạng bài tập như vậy sẽ giúp học sinh biết vận dụng những gì các em đã
học được để giải quyết tình huống thực tiễn. Các em sẽ được tự do trình bày suy
nghĩ, chính kiến của mình về một tình huống đặt ra trong cuộc sống bởi đích cuối
cùng của văn học là cuộc sống.
2.4. Hiệu quả của việc áp dụng đề tài “ Một số giải pháp dạy văn bản
Tiếng nói của văn nghệ - Nguyễn Đình Thi (tiết 96,97-Ngữ văn 9, tập 2) theo
hướng phát triển năng lực học sinh”.
Tiếp thu tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng
lực học sinh từ những năm gần đây bản thân đã khơng ngừng nỗ lực, tìm tịi,
nghiên cứu để tìm ra những hướng đi mới cho các tiết dạy Ngữ văn nhất là dạy
văn bản “ Tiếng nói của văn nghệ” từ việc dạy thực nghiệm tại nhà trường để
đồng nghiệp góp ý và bổ sung và đến năm học 2016 – 2017 và năm học 2017 –
2018 mới chính thức áp dụng các giải pháp mà sáng kiến kinh nghiệm đã trình
10


bày như trên vào hai tiết dạy văn bản này, tôi đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp,
chất lượng giáo dục được nâng lên rõ dệt theo từng năm. Giờ dạy đảm bảo đúng
thời gian, học sinh học tập một cách tích cực, chủ động. Các em đã ý thức được
tiết học theo phương pháp dạy học mới là phải tự mình khám phá kiến thức dưới

sự dẫn dắt của giáo viên. Các em được làm việc nhiều hơn, có nhiều cơ hội để
trình bày suy nghĩ, chính kiến của mình. Khi chấm bài làm ở nhà của học sinh, tôi
thấy chất lượng bài của các em đáng ghi nhận, đa số các em làm đúng hướng nên
đạt điểm cao. Các đồng nghiệp khi dự giờ tiết dạy cũng thừa nhận các giải pháp
đưa ra là hợp lí.
Với việc áp dụng đề tài này tôi đã nghiên cứu và dạy thử nghiệm trong
nhiều năm và đạt được những con số cụ thể về kết quả học tập của học sinh sau
khi học xong văn bản “ Tiếng nói của văn nghệ” tôi đã chấm một cách khách
quan đối với học sinh khối lớp 9 năm học 2016 – 2017 và năm học 2017 - 2018
như sau:
Năm học 2016 – 2017:
Lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

Trung bình

SL

%

SL

%

SL


Yếu-Kém

%

SL

%

9a

24

1

4.2

5

20.8

18

75

0

0

9b


24

1

4.2

6

25

17

70.8

0

0

Năm học 2017 – 2018:
Lớp
9

Sĩ số

Giỏi

Khá

Trung bình


SL

%

SL

%

3

13.1

7

30.4

23

SL
13

Yếu-Kém

%

SL

56.5


0

%
0

Những đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm đã mở ra một hướng đi cho
giáo viên khi dạy văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” - Nguyễn Đình Thi theo
phương pháp mới. Hy vọng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các cấp quản lí
chun mơn và các đồng nghiệp đón nhận, tham khảo để bản thân được góp một
phần cơng sức nhỏ bé vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học theo đúng với
tinh thần chỉ đạo hiện nay.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học
sinh khi dạy văn bản “ Tiếng nói của văn nghệ” là điều vơ cùng cần thiết trong
q trình dạy học; giáo viên có cơ hội để tự học, tự bồi dưỡng, củng cố thêm kiến
thức lí luận văn học, các phương pháp, kĩ năng dạy học tích cực nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới dạy học trong nhiều năm trở lại đây. Hơn nữa dạy học văn bản
“Tiếng nói của văn nghệ” theo phương pháp đổi mới này đã kích thích giáo viên
nỗ lực hết mình để tìm ra hướng đi mới cho các bài dạy về văn bản nghị luận tiếp
theo. Đối với học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, các em có cơ hội
11


được tiếp cận với phương pháp dạy học tích cực là văn bản nghị luận văn chương
- văn bản nghị luận chuyên sâu về một lĩnh vực văn học nghệ thuật. Vì thế học
xong văn bản các em có thêm kiến thức lí luận văn học, có thêm kĩ năng để tìm
hiểu các văn bản nghị luận tiếp theo. Đặc biệt học sinh đã tích cực, chủ động
trong việc khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên, hình thành năng
lực ứng dụng những điều đã học được vào thực tiễn cuộc sống.

3.2. Kiến nghị đề xuất.
3.2.1. Đối với phòng giáo dục:
Phòng giáo dục nên tổ chức cho giáo viên một số buổi chuyên đề với nội
dung dự giờ của những giáo viên có chun mơn giỏi, dạy mẫu một số tiết khó
theo hướng phát triển năng lực học sinh. Như vậy giáo viên sẽ có cơ hội học tập,
trao đổi từ việc soạn bài, đến cách thức tổ chức các hoạt động trên lớp.
3.2.2.Đối với giáo viên:
Cần nắm vững tinh thần đổi mới dạy học theo hướng phát triển năng lực
học sing và tích cực ứng dụng phương pháp dạy học này trong bài dạy của mình
từ khâu soạn bài cho đến việc tổ chức các hoạt động trên lớp, tránh tình trạng bài
khó, dạy qua loa cho hết giờ.
3.2.3.Đối với học sinh:
Phải tích cực, chủ động trong việc khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, phải có năng lực ứng dụng những điều đã học được vào cuộc sống.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Trung Tiến, ngày 20 tháng 03 năm 2018
(Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết khơng sao chép nội dung của người khác)

Người viết

Nguyễn Thị Mai

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 2 – Nhà xuất bản Giáo dục do Nguyễn Khắc Phi

tổng chủ biên.
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn THCS, tập 2 –
Nhà xuất bản Giáo dục của nhiều tác giả:Nguyễn Thị Hà, Trần Thị Nga, Phạm Thị
Ngọc Trâm, 2010
3. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9, tập 2 – Nhà xuất bản Hà Nội do TS Nguyễn Văn
Đường chủ biên, 2005.
4. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn, lớp 9 – Nhà xuất bản
ĐHSP.
5. Kiến thức bổ trợ Ngữ văn 9 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam do Nguyễn Văn
Long chủ biên, 2011
6. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9 theo hướng tích hợp – Nhà xuất bản Giáo dục của
Hoàng Hữu Bội viết năm 2005.
7. Sách giáo viên Ngữ văn 9 – Nhà xuất bản Giáo dục do Nguyễn Khắc Phi tổng
chủ biên 1992.
8. Đổi mới phương pháp dạy học – Nhà xuất bản giáo dục do Trần Đình Sử chủ
biên.

13


14



×