Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu và tên thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.44 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT

----------

BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Luật Sở hữu trí tuệ
Đề tài: Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu và tên thương mại

Nhóm 2
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nguyệt
Lớp học phần: 1610PLAW2211

Hà Nội, tháng 4 năm 2016


BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ
ST Họ và tên

Chức

trách Tự

T

trong nhóm

giá

đánh Nhóm đánh GV đánh
giá



giá

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Nhóm trưởng


I. NHÃN HIỆU
1. Khái niệm
Nhãn hiệu được coi là một loại tài sản vô hình của người hoặc công ty thực hiện hoặc
sản xuất và là một trong các đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ, nhưng
tùy theo luật ở mỗi quốc gia, nhãn hiệu cần đăng ký để trở thành thương hiệu được bảo hộ
theo luật định.
* Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Quốc tế:
Tuy Công ước Paris, Thỏa ước Madrid chưa đưa ra khái niệm nhãn hiệu nhưng đã
quy định các điều khoản liên quan đến việc bảo hộ các đối tượng sỡ hữu công nghiệp
(Công ước Paris) hoặc thiết lập hệ thống quốc tế về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu (Hệ thống
Madrid). Riêng TRIPs đã có quy định về khái niệm nhãn hiệu.
Nhãn hiệu hàng hóa theo định nghĩa của WIPO là: Dấu hiệu dùng để phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc của một nhóm các

doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh,
biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt
trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố nói trên.
Nhãn hiệu hàng hóa chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc doanh
nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc nhãn hiệu đó không được
trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác được đăng ký trước
đó cho cùng loại sản phẩm.
Định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa trên đây của WIPO xác định các điều kiện về bản chất
của nhãn hiệu hàng hóa. Định nghĩa này được thể hiện trong Hiệp định về các khía cạnh
liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (được viết tắt là Hiệp định TRIPS); cụ
thể tại Khoản 1 Điều 15 của Hiệp định TRIPS quy định:
“Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh
nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ,
kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các màu sắc cũng


như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu
hàng hóa. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký
phô thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể
quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải nhìn thấy được” .
* Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quy định Việt Nam:
- Điều 785 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác
nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được
thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”.
- Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi và bổ sung 2009 quy định:
“Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân
khác nhau” .

2. Phân loại
Nhãn hiệu gồm hai loại cơ bản là nhãn hiệu dùng cho hàng hóa và nhãn hiệu dùng
cho dịch vụ.
- Nhãn hiệu dùng cho hàng hóa là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của cá nhân,
tổ chức kinh doanh khác nhau.
Nhãn hiệu dùng cho hàng hóa thường được gắn trên sản phẩm, bao bì của sản phẩm
giúp người tiêu dùng phân biệt sản phẩm cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau.
- Nhãn hiệu dùng cho dịch vụ là những dấu hiệu để phân biệt dịch vụ của cá nhân, tổ
chức kinh doanh khác nhau.
Nhãn hiệu dùng cho dịch vụ thường được gắn trên phương tiện dịch vụ, biển hiệu
giúp người sử dụng phân biệt dịch vụ cùng loại của các cơ sở kinh doanh.
Nhãn hiệu sẽ được pháp luật bảo hộ trong trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký
bảo hộ, nhãn hiệu là tài sản trí tuệ của tổ chức, cá nhân và việc đăng ký bảo hộ độc quyền
nhãn hiệu là tự nguyện.


Với chức năng của công cụ marketing - truyền đạt tới người tiêu dùng uy tín của sản
phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu được hình thành bởi trí tuệ mà doanh nghiệp đầu tư cho
sản phẩm, dịch vụ đó - nhãn hiệu được pháp luật coi là tài sản trí tuệ của doanh nghiệp.
Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc từ ngữ kết hợp với hình
ảnh, đợc thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
- Các loại nhãn hiệu khác
+ Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành
viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân
không phải là thành viên của tổ chức đó. (Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT)
+ Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá
nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc
tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp
dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch
vụ mang nhãn hiệu.(khoản 18 Điều 4 Luật SHTT)

+ Nhãn hiệu liên kết là nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự
nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại tương tự nhau hoặc có liên quan đến nhau.
(Khoản 19 Điều 4 Luật SHTT)
+ Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn
lãnh thổ Việt Nam (khoản 20 Điều 4 Luật SHTT)
3. Đặc điểm
Từ định nghĩa có thể thấy Nhãn hiệu có một số đặc điểm sau đây:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được: Với chức năng dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của tổ chức, cá nhân này với tổ chức, cá nhân khác thì nhãn hiệu phải là một dấu hiệu
nhìn thấy được. Chính vì đặc điểm này các dấu hiệu như mùi hương, âm thanh sẽ không
thể được coi là nhãn hiệu.


- Là dấu hiệu có khả năng phân biệt: Đặc điểm này của nhãn hiệu khiến cho nhãn
hiệu có thể thực hiện được chức năng của mình. Với đặc điểm này của nhãn hiệu thì các
dấu hiệu không có khả năng phân biệt sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu.
Theo đó, thứ nhất, đó phải là một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu. Các dấu hiệu đó
có thể là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình học và tổ hợp các
mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó.
Thứ hai, các dấu hiệu đó có thể là dấu hiệu nhìn thấy được, cũng có thể là bất kỳ dấu
hiệu nào có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu.
Thứ ba, các dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một
doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp khác.
4. Điều kiện bảo hộ
Theo Điều 72 Luật SHTT, để có thể được bảo hộ, nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn
thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết
hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; đồng thời, phải có khả
năng phân biệt. Theo đó, pháp luật Việt Nam hiện không bảo hộ các nhãn hiệu dạng âm
thanh hoặc mùi hương do không nhìn thấy được, ngay cả khi âm thanh hoặc mùi hương
đó có khả năng phân biệt cao.

Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình
ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;
- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá,
dịch vụ của chủ thể khác.
 Đối với Nhãn hiệu thông thường:
 Phải xúc tiến thủ tục đăng ký
 Phải nhìn thấy được;
 Phải có khả năng phân biệt và nhận biết rộng rãi


 Không được là: Quốc kỳ, quốc huy của các nước; Biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên …
của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội; Tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình
ảnh của lãnh tụ, anh hùng, danh nhân…; Dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo
hành của tổ chức quốc tế; Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính
chất lừa dối người tiêu dùng.
 Đối với Nhãn hiệu nổi tiếng:
 Không cần phải đăng ký;
 Chỉ cần đã được sử dụng và nhận biết rộng rãi.
 Tiêu chí đánh giá:
 Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến Nhãn hiệu;
 Phạm vi lưu hành sản phẩm;
 Doanh số hoặc số lượng hàng hoá hay dịch vụ đã cung ứng;
4. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu:
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân
khác nhau (Khoản 16 Điều 4) có cùng hoạt động trong cùng lĩnh vực hay nói cách khác
dựa vào nhãn hiệu có thể phân biệt được các tổ chức, cá nhân có các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ khác nhau với cũng lĩnh vực hoạt động. Vì vậy, điều kiện đặt ra đầu tiên đối với
nhãn hiệu là phải có khả năng phân biệt.
Một nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt khi nó được tạo thành từ một từ

hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng
thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ. (Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT)
Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào nhãn hiệu được tạo thành từ các yếu tố
nói trên đều được coi là có khả năng phân biệt. Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định rõ một số
trường hợp mà nhãn hiệu không được coi là có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu là các
dấu hiệu quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ.
Phân tích:


- Thứ nhất, khả năng tự phân biệt:
Pháp luật quy định nhãn hiệu được coi là có khẳ năng phân biệt được tạo thành từ các
yếu tố dễ nhận biết. Mà yếu tố dễ nhận biết ở đây chính là xuất phát từ những đặc điểm cơ
bản vốn có của nhãn hiệu. Hay còn được gọi là khả năng tự nhận biết của nhãn hiệu.
Quy định tại các Điểm a, b, c, d Khoản 2 Điều 74:
“a) Hình và hình hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông
dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh
nghĩa một nhãn hiệu;
b) Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hoá, dịch
vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết
đến;
c) Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất
lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả
hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua
quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu;
d) Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh;”
- Thứ hai, khả năng nhận biết qua sử dụng:
Một nhãn hiệu có khả năng nhận biết thông qua quá trình sử dụng. Qua quá trình
nhãn hiệu được đưa vào sử dụng thông qua sự thừa nhận nhãn hiệu của thị trường mà tạo
nên khả năng nhận biết đối với các nhãn hiệu khác.
Quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 74:

“đ) Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó
đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng ký
dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận quy định tại Luật này;”
Đây là một trong những khả năng phân biệt rất quan trọng, khả năng này chỉ được
công nhận khi nó đáp ứng được 2 điều kiện:
+ Thứ nhất: dấu hiệu đã và đang được sử dụng với chức năng nhãn hiệu


+ Thứ hai: là dấu hiệu được người tiêu dung biết đến một cách rộng rãi.
Đảm bảo 2 điều kiện này thì khả năng này mới được công nhận.
- Thứ 3, các dấu hiệu phân biệt khác:
Một nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt không chỉ dựa vào yếu tố tự phân
biệt của nhãn hiệu hay qua sử dụng mà còn dựa cào mức tương tự hay gần giống với các
nhãn hiệu khác. Với khả năng này pháp luật quy định cụ thể ở từng khía cạnh khác nhau
để đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu:
“e) Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn
với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn
đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được
hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
g) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã
được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước
ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;
h) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã
đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt
hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không
được sử dụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 95 của Luật này;
i) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi
tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hoá,
dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ không tương tự,

nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu
nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;
k) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác,
nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng
hoá, dịch vụ;


l) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu
hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của hàng hoá;
m) Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch nghĩa,
phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu dấu hiệu
được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu
vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
n) Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của người
khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn hoặc
ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu.”
Như vậy ở góc độ này hay góc độ khác, một nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt thì
mới đảm bảo được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường đối với hoạt động kinh doanh.
5. Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhãn hiệu nổi tiếng được hiểu là “nhãn hiệu
được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam” (Khoản 20 – Điều 4
– Luật SHTT 2005)
“Điều 75. Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng (Luật SHTT)
Các tiêu chí sau đây được xem xét khi đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng:
1. Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử
dụng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo;
2. Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành;
3. Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng
hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp;
4. Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;

5. Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
6. Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;
7. Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;


8. Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn
hiệu.”
Từ đó có thể rút ra:
- Đặc điểm của nhãn hiệu nổi tiếng
+ Sự nổi tiếng của nhãn hiệu
+ Giá trị thương mại cao
+ Thời gian sử dụng liên tục và lâu dài
+ Được sử dụng phổ biến
+ Là đối tượng dễ bị xâm phạm
Theo các tiêu chí quy định tại Điều 75 -LSHTT 2005, trước hết, một nhãn hiệu nổi
tiếng phải được nhiều người biết đến về các đặc điểm nhãn hiệu hàng hóa, chất lượng sản
phẩm được gắn với nhãn hiệu đó cũng như tên nhà sản xuất.
Ví dụ: Điện thoại Samsung được phần đông người tiêu dùng Việt Nam biết đó là điện
thoại có xuất sứ từ Hàn Quốc, chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp...
Nhãn hiệu nổi tiếng phải được phổ biến rộng rãi đến một số lượng lớn người tiêu
dùng thông qua mua bán, sử dụng hoặc các phương tiện truyền thông khác. Đây là một
quy định phù hợp với Hiệp định TRIPs mà Việt Nam tham gia kí kết đồng thời là căn cứ
để bảo hộ tối đa các nhãn hiệu nổi tiếng. Đồng thời, nhãn hiệu phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện như phải được biết đến rộng rãi trên rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, có uy
tín lớn trên thị trường; doanh thu mà nhãn hiệu này đem lại cho nhà đầu tư từ việc bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải lớn.
Ví dụ: CocaCola là một trong những nhãn hiệu nổi tiếng nhất thế giới với giá thị trường
thương mại năm 2008 là 66.667 tỷ USD.
Nhãn hiệu phải được sử dụng liên tục trong một thời gian dài từ khi xuất hiện trên thị
trường đến khi được công nhận và còn duy trì là nhãn hiệu nổi tiếng.



Bên cạnh đó, một nhãn hiệu nổi tiếng là một nhãn hiệu được bảo hộ bởi nhiều quốc
gia – nghĩa là có nhiều quốc gia công nhận việc bảo hộ nhãn hiệu đó; số lượng quốc gia
công nhận cũng là điều kiện cơ bản để đánh giá một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không.
Ví dụ: Nhãn hiệu sữa Vinamilk có thể coi là nhãn hiểu nổi tiếng ở Việt Nam, được
nhiều người tiêu dùng biết đến rộng rãi nhưng hoàn toàn không phải là nhãn hiệu nổi
tiếng trên thế giới vởi số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu này gần như chỉ có Việt
Nam.
Ngoài ra, yếu tố giá chuyển nhượng, chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu
tư của nhãn hiệu cũng là điều kiện quan trọng khẳng định tính nổi tiếng của nhãn hiệu.
Nhãn hiêu nổi tiếng có giá trị thương mại lớn hơn rất nhiều so với giá trị thương mại của
nhãn hiệu bình thường.
Ví dụ: P/S là nhãn hiệu có uy tín ở Việt Nam, giá trị chuyển nhượng của P/S là 7,3
triệu USD; trong khi của Malboro là 19 tỷ USD; Microsolf là 56.647 tỷ USD...
 Nhận xét : Ở Việt Nam, thuật ngữ NHNT lần đầu tiên được ghi nhận trong hệ thống
pháp luật tại Nghị định sửa đổi Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy
định chi tiết về SHCN. Trước thời điểm này, thuật ngữ NHNT chưa từng được đề cập
trong luật. Theo Nghị định 63/CP, quyền SHCN đối với NHNT phát sinh trên cơ sở quyết
định công nhận của Cục SHTT. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, do thiếu các quy định hướng
dẫn các tiêu chí đánh giá NHNT nên không có một nhãn hiệu nào được Cục SHTT công
nhận theo cách này. Năm 2005, Luật SHTT đã có quy định về NHNT. Theo quy định này
có thể hiểu, để được công nhận là NHNT, nhãn hiệu đó phải được người tiêu dùng trên
toàn lãnh thổ Việt Nam biết đến. Rất khó cho chủ nhãn hiệu có thể chứng minh được điều
này khi muốn nhãn hiệu của mình được công nhận là nổi tiếng. Quy định này dường như
đã đi xa hơn những yêu cầu quy định bởi Điều 16.2 Hiệp định TRIPS vì TRIPS chỉ đòi
hỏi "khi đánh giá liệu một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, các nước thành viên sẽ xem
xét đến sự biết đến rộng rãi nhãn hiệu của nhóm công chúng tương ứng”. Vậy liệu một
NHNT là phải được biết đến bởi tất cả mọi người hay chỉ cần được biết đến trong số
nhóm người tiêu dùng mà hàng hoá, dịch vụ đó có liên quan tới? Có lẽ diễn giải hợp lý

nội dung Điều 16.2 của Hiệp định TRIPS là để được coi là nổi tiếng nhãn hiệu thì nhãn


hiệu đó cần được biết đến bởi nhóm công chúng có liên quan hay nói cách khác là những
nhóm công chúng nhất định mà hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm hướng tới. Tức là cần phải
tập trung vào loại hàng hóa hoặc bản chất của dịch vụ có liên quan khi đánh giá NHNT.
Chẳng hạn khách hàng của những thiết bị công nghệ cao như chi tiết máy bay sẽ là số
lượng rất nhỏ những nhà sản xuất, cung cấp linh kiện máy bay và đương nhiên không thể
so sánh với số lượng khách hàng của những sản phẩm tiêu dùng hàng ngày như bột giặt.
Thực tế cho thấy, nhờ vào sự phát triển của công nghệ thông tin, của mạng
INTERNET, sự bùng nổ của các kênh truyền thông mà người ta biết đến nhiều nhãn hiệu
trong khi thậm chí sản phẩm hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu đó chưa từng bao giờ có mặt ở
thị trường của họ. Có thể nói, danh tiếng của một nhãn hiệu trong nhiều trường hợp đã
vượt ra khỏi ranh giới quốc gia nơi sản phẩm, dịch vụ mang nó tồn tại, và được biết đến ở
nhiều thị trường nó chưa có mặt. Điều này đặt ra vấn đề, có bảo hộ hay không một NHNT
ở tầm thế giới nhưng chưa có mặt ở thị trường mong muốn nhận được sự bảo hộ? Việc
một người đăng ký bảo hộ một nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với NHNT ở nước ngoài thì
có bị coi là đang xâm phạm tới quyền của một NHNT hay không? Trên thực tế, đã hơn
một lần NHNT của nước ngoài dù chưa được sử dụng hoặc đăng ký tại Việt Nam đã được
bảo hộ dù cho nguyên tắc này không thể tìm thấy ở bất kỳ đâu trong các văn bản pháp
luật của Việt Nam. Năm 1992, Cục SHTT từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu cho nhãn hiệu "McDolnald’s” cho một công ty của Úc. Vào thời điểm đó, Cục SHTT
có đủ thông tin để khẳng định "McDolnald’s” là NHNT trên thế giới cho các sản phẩm đồ
ăn nhanh và dịch vụ cung cấp đồ ăn nhanh dưới tên của McDolnald’s Corporation (Mỹ),
cho dù công ty này chưa hề đăng ký hoặc sử dụng nhãn hiệu McDolnald’s tại Việt Nam và
hành động của công ty Úc trong tình huống này bị coi là đã lợi dụng danh tiếng của
McDolnald. Tiếc rằng thực tiễn pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế này lại chưa được
đưa vào Luật SHTT khi vẫn quy định tại Điều 20 rằng, NHNT phải được người tiêu dùng
trên toàn lãnh thổ Việt Nam biết đến.
Việc ghi nhận NHNT được quy định rõ trong Khoản 4 Điều 42 Thông tư 01/2007/TTBKHCN ngày 14/2/2007, theo đó, khi NHNT được công nhận theo thủ tục tố tụng dân sự

hoặc theo quyết định của Cục SHTT thì NHNT đó sẽ được ghi nhận vào Danh mục
NHNT được lưu giữ tại Cục SHTT.


 Việc xem xét công nhận NHNT
- Thứ nhất: Sẽ chỉ có hai cơ quan tiến hành xem xét và công nhận một nhãn hiệu là
nổi tiếng, đó là Toà án và Cục SHTT.
- Thứ hai: Cục SHTT và Toà án sẽ chỉ xem xét và công nhận một NHNT khi có yêu
cầu của các tổ chức, cá nhân theo từng vụ việc cụ thể. Cục SHTT sẽ không nhận đơn đăng
ký cũng như đơn đề nghị công nhận NHNT. Vì vậy, sẽ không tồn tại, một đăng bạ quốc
gia nào về NHNT.
- Thứ 3: Yêu cầu xem xét NHNT có thể diễn ra trong các trường hợp sau:
+ Khi tổ chức, cá nhân tiến hành nộp đơn đăng ký, nhưng bị từ chối vì nhãn hiệu rơi
vào các yếu tố loại trừ hoặc bị từ chối vì tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người
khác, tổ chức, cá nhân sẽ xác lập quyền cho nhãn hiệu này thông qua việc chứng minh
NHNT.
+ Khi các tổ chức, cá nhân yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực một văn bằng bảo hộ hoặc phản
đối việc cấp giấy chứng nhận đăng ký cho một nhãn hiệu dựa trên cơ sở nhãn hiệu tương
tự gây nhầm lẫn với NHNT.
+ Khi có các tổ chức, cá nhân yêu cầu xử lý vi phạm quyền sở hữu công nghiệp liên
quan đến nhãn hiệu nổi tiếng.
+ Khi có các tổ chức, cá nhân yêu cầu xử lý về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng.
6. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Nội dung này được quy định tại khoản 1, 2 Điều 129 Luật sở hữu trí tuệ, cụ thể:
- Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu
thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
+ Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với
hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;



VD: Một trường đại học ở Bắc Ninh thành lập năm 2008 đã lấy tên “Đại học công
nghệ Đông Á”, dấu hiệu “Đông Á” đã được đại học Đông Á ở Đà Nẵng đăng ký nhãn
hiệu từ năm 2005 trong nhóm dịch vụ giáo dục, đào tạo.
+ Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự
hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu
việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
VD: 1 doanh nghiệp sản xuất tương cà chua sử dụng dấu hiệu “Thành Trung”- một nhãn
hiệu tương ớt của Công ty Thành Trung.
+ Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng,
tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn
hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
VD: dùng dấu hiệu vinacera đối với các sản phẩm gốm sứ xây dựng là xâm phạm nhãn
hiệu Viglacera
+ Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới
dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng
hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc
danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây
nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người
sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
VD: Sử dụng dấu hiệu Yamaha cho sản phẩm mì gói có thể khiến nhầm lẫn dấu hiệu
“Yamaha” cho sản phẩm xe máy.
Nhìn chung, quy định của pháp luật về các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn
hiệu là khá hợp lý. Quy định này đã liệt kê được những hành vi có thể gây bất lợi đối với
chủ sở hữu nhãn hiệu trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu
đối với nhãn hiệu.
7. Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Nội dung này được quy định tại khoản 2 Điều 136 Luật SHTT



“Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu đó. Trong trường hợp
nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì quyền sở hữu nhãn hiệu đó
bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật này.”
Cụ thể, điểm c khoản 1 Điều 95 Luật SHTT quy định chấm dứt hiệu lực của văn bằng
bảo hộ đối với nhãn hiệu trong trường hợp:
“Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử dụng
trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý
do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất
ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực.”
Có thể thấy, việc pháp luật có quy định nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu liên tục xuất
phát từ thực tiễn có nhiều doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu, tên thương mại nhưng thực
chất lại không sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại đó. Trong khi đó, các doanh nghiệp
khác muốn sử dụng lại không được vì nhãn hiệu, tên thương mại đó đã được bảo hộ. Mặt
khác, việc bảo hộ đối với nhãn hiệu, tên thương mại là nhằm bảo vệ các nhãn hiệu, tên
thương mại nổi tiếng, giúp ngăn chặn việc nhiều doanh nghiệp lợi dụng đó để thực hiện
mục đích xấu của mình, xâm phạm đến chủ thể sở hữu. Tuy nhiên, nếu nhãn hiệu, tên
thương mại ấy không được sử dụng trong thời gian dài, cụ thể là 5 năm thì có thể khẳng
định rằng, mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hay tên thương mại ấy không còn nguyên vẹn,
và cũng không doanh nghiệp nào muốn dựa vào nhãn hiệu, tên thương mại không được sử
dụng liên tục để phát triển cho sản phẩm của mình. Vì vậy, trong trường hợp này, vai trò
và ý nghĩa của việc bảo hộ nhãn hiệu, tên thương mại không được bảo toàn. Do đó, việc
quy định chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ là hợp lý.
8. Đăng ký nhãn hiệu
LSHTT không bắt buộc chủ sở hữu nhãn hiệu phải đăng ký khi sử dụng, tuy nhiên để
tránh các trường hợp có khả năng tranh chấp sau này hoặc bị các chủ nhãn hiệu khác khởi
kiện do nhầm lẫn hoặc tương tự với nhãn hiệu đã được bảo hộ, chủ nhãn hiệu nên tiến
hành xác lập quyền sở hữu của mình càng sớm càng tốt. Quyền sở hữu đối với nhãn hiệu
có thể được xác lập thông qua hai cơ chế là đăng ký với Cục sở hữu trí tuệ hoặc tự động



xác lập khi đáp ứng một số điều kiện nhất định. Hiện nay cơ chế tự động chỉ được áp
dụng đối với nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi.
Đối với nhãn hiệu thông thường quyền sở hữu chỉ được xác lập khi có đăng ký nhãn
hiệu với Cục Sở hữu trí tuệ. Cá cquy định pháp luật hiệnnay về bảo hộ nhãn hiệu áp dụng
quy tắc nộp đơn đầu tiên, để chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu của người đăng ký trước dựa
vào ngày nộp đơn.
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu là tên gọi chung, còn có các tên gọi khác như đăng ký
nhãn hiệu độc quyền, đăng ký nhãn hiệu sản phẩm.
a. Thủ tục đăng ký nhãn hiệu:
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu gồm:
- Tờ khai đăng ký nhãn hiệu (2 bản): theo mẫu 04-NH quy định tại Phụ lục A TT
01/2007/TT-BKHCN.
- 09 mẫu nhãn hiệu giống nhau: Mẫu nhãn hiệu phải được trình bày rõ ràng với kích
thước của mỗi thành phần trong nhãn hiệu không lớn hơn 80mm và không nhỏ hơn 8mm,
tổng thể nhãn hiệu phải được trình bày trong khuôn mẫu nhãn hiệu có kích thước 80mm x
80mm in trên tờ khai;
- Giấy đăng ký kinh doanh (bản sao), hợp đồng hoặc tài liệu khác xác nhận hoạt động
sản xuất sản phẩm, cung cấp dịch vụ của người nộp đơn nếu Cục sở hữu trí tuệ có nghi
ngờ về tính xác thực của các thông tin nêu trong đơn;
- Chứng từ nộp phí, lệ phí. Chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ trên và có thể nộp trực tiếp tại
Cục Sở hữu trí tuệ.
b. Quá trình thực hiện đăng ký và Chi phí đăng ký nhãn hiệu
- Quá trình thực hiện đăng ký:
Trong trường hợp nộp đơn uỷ quyền qua đại diện sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp tại
Cục Sở hữu trí tuệ, công việc của Cục sở hữu trí tuệ sẽ bao gồm:
+ Tư vấn về mọi vấn đề liên quan đến việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu;
+ Chuẩn bị Đơn đăng ký, ký đơn, nộp đơn


+ Thông báo về việc nộp đơn sau khi nộp đơn, và các thông báo liên quan khác;

+ Xử lý tất cả các thiếu sót liên quan đến Đơn;
+ Tư vấn các giải pháp để vượt qua từ chối của Cục SHTT;
+Theo dõi tiến trình của Đơn và thường xuyên cập nhật tình trạng cho đến khi có kết
luận cuối cùng của Cục SHTT về việc đăng ký nhãn hiệu;
+Tư vấn về việc sử dụng nhãn hiệu sau khi cấp bằng (nếu có Giấy chứng nhận).
- Chi phí đăng ký nhãn hiệu: Theo qui định, Đơn nhãn hiệu phải đăng ký kèm theo
danh mục sản phẩm/dịch vụ được phân nhóm theo Bảng phân loại Nice phiên bản 10. Phí
đăng ký nhãn hiệu sẽ được tính dựa trên số nhóm và số sản phẩm trong mỗi nhóm được
chỉ định trong Đơn. Vì vậy, doanh nghiệp nên cung cấp ngành nghề kinh doanh chính để
biết được sản phẩm và dịch vụ mang nhãn hiệu và tính được chi phí thực hiện công việc.
c. Thời gian đăng ký nhãn hiệu
Theo qui định, qui trình thẩm định đơn nhãn hiệu trải qua các giai đoạn sau: (i) thẩm định
hình thức (1-2 tháng), (ii) công bố Đơn trên Công báo (2 tháng); (iii) thẩm định nội dung
(9-12 tháng); (iii) cấp và công bố Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu (1-2 tháng).
Tuy nhiên, trên thực tế thời hạn này có thể nhanh hơn hoặc chậm hơn tuỳ thuộc vào
số lượng đơn nộp vào Cục tại thời điểm xét nghiệm.
d. Các tài liệu nộp đơn đăng ký nhãn hiệu:
Để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, doanh nghiệp chỉ cần cung cấp các thông tin/tài liệu
sau đây:
- Tên và địa chỉ của chủ sở hữu nhãn hiệu (nếu đăng ký dưới tên Công ty thì tên/địa
chỉ của Công ty phải trùng khớp với Giấy đăng ký kinh doanh)
- Mẫu nhãn hiệu xin đăng ký.
- Danh mục sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cần đăng ký.
- Giấy ủy quyền (Cung cấp khi sau khi nhận được thông tin đăng ký)


II. TÊN THƯƠNG MẠI
Tên thương mại là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, có vai trò quan trọng
trong hoạt động của doanh nghiệp, có thể tạo ra khả năng cạnh tranh cũng như tăng giá trị
cho doanh nghiệp.

1. Khái niệm
 Tên thương mại
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để
phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng
lĩnh vực và khu vực kinh doanh (khu vực kinh doanh là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh
doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc danh tiếng). (Khoản 21-Điều 4-LSHTT)
Tên thương mại phải là tập hợp các chữ, phát âm được và có nghĩa.
Tên thương mại bao gồm hai phần: Phần mô tả và phần phân biệt.
Phần mô tả là một tập hợp các từ có nghĩa mô tả tóm tắt loại hình doanh nghiệp và
lĩnh vực kinh doanh.
Phần phân biệt là tập hợp các chữ cái phát âm được, có thể có nghĩa hoặc không có
nghĩa. Phần mô tả không có khả năng tạo nên tính phân biệt cho tên thương mại (hai
doanh nghiệp có tên thương mại khác nhau có thể có phần mô tả giống nhau).
Ví dụ: Với tên Công ty TNHH xây dựng Thành Đô. Phần mô tả là “Công ty TNHH
xây dựng”, phần phân biệt là “Thành Đô”. Phân biệt với “Công ty TNHH xây dựng Tiến
Thành”. Phần mô tả là “Công ty TNHH xây dựng”, phần phân biệt là “Tiến Thành”. Hai
tổ chức này cùng kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng, và có khả năng phân biệt qua tên
thương mại.
 Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là việc Nhà nước thừa nhận
và bảo vệ những quan hệ xã hội phát sinh khi con người tạo ra tên thương mại thông qua
việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật về tên thương mại và tổ chức các cơ


quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sử dụng hợp pháp tên
thương mại và những chủ thể khác liên quan đến sử dụng tên thương mại.
2. Đặc điểm
Từ việc phân tích định nghĩa nêu trên, tên thương mại bao gồm các đặc điểm sau:
- Tên thương mại gắn liền với sự tồn tại của cá nhân, tổ chức. Tên thương mại được
xác lập, ra đời cùng với việc thành lập doanh nghiệp. Do đó, tên thương mại tồn tại, phát

triển theo tiến trình phát triển của doanh nghiệp đó. Khi daonh nghiệp giải thể, bị phá sản
(doanh nghiệp “chết”) thì tên thương mại cuãng bị xóa khỏi sổ đăng ký doanh nghiệp.
Chấm dứt sự tồn tại của nó.
- Tên thương mại được sử dụng thông qua hoạt động kinh doanh. Điều này thể hiện
thông qua 2 từ “thương mại”. Theo đó, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp giống như
là giấy khai sinh của doanh nghiệp, mà tên thương mại là tên của cá nhân, tổ chức tiến
hành hoạt động kinh doanh. Tên thương mại không phải là tên riêng của cá nhân, tên của
một địa danh nào đó. Nó được sử dụng thông qua hoạt động kinh doanh.
- Phải là yếu tố để phân biệt chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác. Tên
thương mại mang tính riêng biệt, cá thể của từng cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động
kinh doanh. Đây cũng chính là yêu cầu cũng như điều kiện để được bỏa hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với tên thương mại.
- Tên thương mại đầy đủ phải là tập hợp các chữ phát âm được và có nghĩa. Theo đó,
tên thương mại có thể bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Tuy nhiên nó phải đảm bảo về
mặt ngữ nghĩa. Song không thể trộn lẫn tiếng Việt và tiếng nước ngoài, ví dụ như
“Company TNHH Thành south”. Mặc dù vẫn là tập hợp của các chữ phát âm được, vẫn
có nghĩa nhưng không đảm bảo về mặt chính tả.
3. Hình thành tên thương mại
Tên thương mại được hình thành trên nguyên tắc tự do lựa chọn. Có nghĩa là tên
thương mại được hình thành dựa trên ý chí của chủ sở hữu. Tuy nhiên phải đảm bảo
không vi phạm các điều cấm trong việc đặt tên daonh nghiệp quy định tại Điều 39 Luật
doanh nghiệp 2014.


“1. Đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký được quy
định tại Điều 42 của Luật này.
2. Sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường
hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.

3. Sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần
phong mỹ tục của dân tộc.”
Tên thương mại được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành
đăng ký hoạt động kinh doanh. Tên thương mại có thể bằng tiếng Việt hoặc tiếng nước
ngoài. Việc đặt tên doanh nghiệp, tên thương mại bằng tiếng nước ngoài phải tuân thủ
theo quy định tại khoản 1,2 Điều 40 Luật doanh nghiệp 2014:
“1. Tên doanh nghiệp bằng tiếng nước ngoài là tên được dịch từ tên tiếng Việt sang một
trong những tiếng nước ngoài hệ chữ La-tinh. Khi dịch sang tiếng nước ngoài, tên riêng
của doanh nghiệp có thể giữ nguyên hoặc dịch theo nghĩa tương ứng sang tiếng nước
ngoài.
2. Trường hợp doanh nghiệp có tên bằng tiếng nước ngoài, tên bằng tiếng nước ngoài
của doanh nghiệp được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên tiếng Việt của doanh nghiệp
tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp
hoặc trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.”
4. Điều kiện bảo hộ đối với tên thương mại
Tên thương mại chỉ được bảo hộ khi đảm bảo điều kiện về khả năng phân biệt. Không
phải bất cứ tên thương mại nào cũng được pháp luật bảo hộ. Nó phải có khả năng phân
biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng
lĩnh vực kinh doanh và trong một khu vực kinh doanh nhất định. Thông qua các yếu tố
này nhằm cá thể hóa chủ thể kinh doanh. Do vậy, có thể hiểu là tên thương mại của 2 chủ
thể trùng nhau hoặc tương tự nhau đến mức có thể gây nhầm lẫn mà ở 2 khu vực kinh
doanh khác nhau thì không được pháp luật bảo hộ. Bởi 2 yếu tố cùng trong lĩnh vực kinh


doanh và khu vực kinh doanh luôn song hành cùng nhau, Thiếu 1 trong 2 yếu tố này tên
thương mại không được bảo hộ.
Khả năng phân biệt của tên thương mại được thể hiện qua các yếu tố:
- Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi: Nếu tên thương
mại chỉ có phần mô tả thì sẽ không được bảo hộ. Bởi phần mô tả không có khả năng tạo
nên tính phân biệt cho tên thương mại. Vì vậy tên thương mại bắt buộc phải có thành

phần tên riêng để tạo ra sự phân biệt giữa các chủ thể kinh doanh.
Ví dụ: có 3 tên thương mại: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển Hà Thành – Công ty
cổ phần đầu tư và phát triển Đức Thịnh – công ty TNHH may mặc Việt Tín. Phần mô tả
theo thứ tự lần lượt: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển - Công ty cổ phần đầu tư và phát
triển – công ty TNHH may mặc. Phần tên riêng dùng để phân biệt các chủ thể kinh doanh:
Hà Thành – Đức Thịnh – Việt Tín.
- Tên thương mại không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên
thương mại mà người khác đã sử dụng từ trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh
doanh. Điều 42 Luật doanh nghiệp 2014 quy định về tên trùng và tên gây nhầm lẫn:
“Điều 42. Tên trùng và tên gây nhầm lẫn
1. Tên trùng là tên tiếng Việt của doanh nghiệp đề nghị đăng ký được viết hoàn toàn
giống với tên tiếng Việt của doanh nghiệp đã đăng ký.
2. Các trường hợp sau đây được coi là tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã
đăng ký:
a) Tên tiếng Việt của doanh nghiệp đề nghị đăng ký được đọc giống như tên doanh
nghiệp đã đăng ký;
b) Tên viết tắt của doanh nghiệp đề nghị đăng ký trùng với tên viết tắt của doanh nghiệp
đã đăng ký;
c) Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp đề nghị đăng ký trùng với tên bằng tiếng
nước ngoài của doanh nghiệp đã đăng ký;


d) Tên riêng của doanh nghiệp đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của doanh nghiệp
cùng loại đã đăng ký bởi một số tự nhiên, số thứ tự hoặc các chữ cái trong bảng chữ cái
tiếng Việt và các chữ cái F, J, Z, W ngay sau tên riêng của doanh nghiệp đó;
đ) Tên riêng của doanh nghiệp đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của doanh nghiệp
cùng loại đã đăng ký bởi ký hiệu “&”, “.”, “+”, “-”, “_”;
e) Tên riêng của doanh nghiệp đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của doanh nghiệp
cùng loại đã đăng ký bởi từ “tân” ngay trước hoặc “mới” ngay sau hoặc trước tên riêng
của doanh nghiệp đã đăng ký;

g) Tên riêng của doanh nghiệp đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của doanh nghiệp
cùng loại đã đăng ký bởi từ “miền Bắc”, “miền Nam”, “miền Trung”, “miền Tây”,
“miền Đông” hoặc từ có ý nghĩa tương tự.
Các trường hợp quy định tại các điểm d, đ, e và g của khoản này không áp dụng đối với
trường hợp công ty con của công ty đã đăng ký.”
Ví dụ: 2 tên thương mại có thể gây nhầm lẫn: Công ty TNHH điện tử, điện lạnh
Thanh Hoa – công ty TNHH điện tử và điện lạnh Thanh Hoa. Hai tên thương mại này chỉ
khác biệt rất nhỏ bằng ký hiệu “,” và chữ “và”. Do vậy, rất dễ gây nhầm lẫn cho người
khác.
- Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác
hoặc chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng. Tên
thương mại và nhãn hiệu đều có chức năng chỉ dẫn cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch
vụ đó của cơ sở sản xuất kinh doanh nào, đều đưa ra một kết luận chung rằng ai là người
chịu trách nhiệm về những hàng hóa dịch vụ đó. Bởi vậy, nếu đã có nhãn hiệu thuộc
quyền sở hữu của người khác, đã được xác lập trước thời điểm tên thương mại được sử
dụng thì đương nhiên tên thương mại sẽ không được sử dụng nữa.
5. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại
Các đối tượng sau không được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại:
“Tên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc chủ thể khác


không liên quan đến hoạt động kinh doanh thì không được bảo hộ với danh nghĩa tên
thương mại”1. Bởi tên của các cơ quan tổ chức này không mang đầy đủ các đặc điểm của
tên thương mại”.
6. Xác lập quyền đối với tên thương mại
Cũng do tên thương mại thường là tên doanh nghiệp hoặc được sử dụng thường
xuyên trong hoạt động kinh doanh của mỗi chủ thể kinh doanh, nên quyền sở hữu tên
thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó tương
ứng với khu vực và lãnh thổ kinh doanh, mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký tên

thương mại đó tại cục Sở hữu trí tuệ. Doanh nghiệp có thể dùng một phần tên thương mại
của mình làm dấu hiệu chính để phân biệt hàng hóa, dịch vụ và đăng ký bảo hộ với hình
thức nhãn hiệu.
Điều này khác với việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với các chỉ dẫn đầu tư khác
như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, những đối tượng này cần phải đăng ký mới được bảo hộ.
Các hành vi quy định tại khoản 2 điều 129 Luật SHTT 2005 sửa đổi 2009 bị coi là
hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại:
“2. Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của
người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm,
dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh
doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại.”
7. Hạn chế chuyển quyền sử dụng đối với tên thương mại
Căn cứ vào khoản 1 Điều 142 luật SHTT 2005 sửa đổi 2009, tên thương mại không
được phép chuyển giao quyền sử dụng: “1. Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, tên thương mại
không được chuyển giao”. Bởi đặc trưng của tên thương mại là gắn liền với cá nhân tổ
chức, liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân tổ chức đó nên không được phép chuyển
quyền sử dụng. Mặt khác đây là yếu tố để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương
mại đó với chủ thể kinh doanh khác.

1 Xem điều 77 luật SHTT 2005 sửa đổi 2009



×