Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.55 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
----------

BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Luật Sở hữu trí tuệ

Đề tài: Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với sáng chế
Nhóm 2
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nguyệt
Lớp học phần: 1610PLAW2211

Hà Nội, tháng 4 năm 2016

NHÓM 2

Page 1


BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ
S
T
T

Họ và tên

Chức trách
trong nhóm

Tự đánh


giá

Nhóm
đánh giá

GV đánh
giá

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Nhóm trưởng

NHÓM 2

Page 2


CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ
I.1. Khái niệm
I.1.1. Định nghĩa
- Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao

gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
quyền đối với giống cây trồng1.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh2.
- Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải
quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên3.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy được bản chất của sáng chế là giải pháp kỹ
thuật. Chỉ những giải pháp kỹ thuật mới do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng
những nhu cầu cần thiết trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Giải pháp
kỹ thuật được hiểu là một phương thức để giải quyết một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực
kỹ thuật. Nói một cách khác, giải pháp kỹ thuật hướng đến mục tiêu làm chủ thiên
nhiên của con người. Giải pháp kỹ thuật có thể dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình và
đó phải là những sản phẩm hoặc quy trình do con người tạo ra chứ không phải là
những gì tồn tại trong tự nhiên và được con người phát hiện ra.
I.1.2. Đặc điểm
a. Đặc điểm của sáng chế
- Do con người sáng tạo ra mới hoàn toàn mà không phải tìm thấy trong tự
nhiên.
- Đáp ứng nhu cầu cần thiết trong hoạt động lao động sản xuất của con người.
- Thuộc tính cơ bản của sáng chế là đặc tính kỹ thuật.
1 Xem khoản 1 điều 4 LSHTT
2 Xem khoản 4 điều 4 LSHTT
3 Xem khoản 12 điều 4 LSHTT

NHÓM 2

Page 3



- Sáng chế phải có tính mới so với trình độ kỹ thuật và mỹ thuật trên thế giới.
b. Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
- Về bản chất, quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế là quyền của chủ sở
hữu sáng chế được độc quyền khai thác sáng chế của họ và ngăn cản người khác sử
dụng sáng chế có tính năng tương tự trong một thời gian nhất định và trên một lãnh thổ
nhất định.
- Việc công nhận danh hiệu sáng chế được thực hiện thông qua cấp bằng. Bản
thân việc cấp bằng bảo hộ dựa trên nguyên tắc có đi có lại: chủ sở hữu sáng chế, giải
pháp hữu ích phải mô tả đầy đủ sáng chế, giải pháp hữu ích của mình để thế giới có
kiến thức áp dụng sau khi hết thời hạn bảo hộ. Ngược lại, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích được độc quyền khai thác các
đối tượng này một thời gian để có một khoản lợi nhuận từ việc sáng tạo.

NHÓM 2

Page 4


CHƯƠNG II. PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ
II.1. Điều kiện bảo hộ
Điều kiện bảo hộ sáng chế là tổng hợp có chọn lựa các yêu cầu, chuẩn mức về
mặt kỹ thuật, bản chất do hệ thống pháp luật quy định để xem xét khả năng xác lập,
bảo vệ, phát huy quyền sở hữu đối với một đối tượng là sáng chế. Cụ thể hơn, điều
kiện bảo hộ sáng chế là những yêu cầu của Nhà nước đặt ra đối với nội dung, hình
thức và giá trị của giải pháp kỹ thuật được bộc lộ và đề cập tới trong sáng chế.
Điều kiện bảo hộ được quy định tại Điều 58 Luật SHTT 2005 sửa đổi 2009:
“Điều 58. Điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ
1. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng

các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có trình độ sáng tạo;
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
2. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu
không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có khả năng áp dụng công nghiệp.”
Như vậy, sáng chế được bảo hộ dưới hai hình thức. Đó là cấp bằng độc quyền
sáng chế và cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích. Nhìn nhận một cách khái quát, hai
hình thức này khác nhau ở hai điều kiện: trình độ sáng tạo và có phải là hiểu biết thông
thường hay không.
a.Về tính mới
Ở đây “mới” có nghĩa là không trùng với những giải pháp kỹ thuật đã nộp đơn
hoặc được bảo hộ; chưa bị bộc lộ công khai ngoài ý muốn của chủ thể, dưới hình thức
sử dụng hoặc mô tả tới mức một người trung bình trong lĩnh vực tương ứng có thể
thực hiện được giải pháp đó. Thời điểm xác định tính mới là ngày ưu tiên (đó là ngày
NHÓM 2

Page 5


nộp đơn hợp lệ, hoặc ngày ưu tiên theo Công ước Paris. Trình độ kỹ thuật trên thế giới
là tất cả những gì đã được công bố vào ngày được hưởng quyền ưu tiên (là ngày nộp
đơn hoặc ngày được hưởng quyền ưu tiên theo yêu cầu của chủ thể).
Để đánh giá tính mới của giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn yêu cầu bảo hộ, Cục
Sở hữu trí tuệ phải tiến hành tra cứu thông tin từ ba nguồn bắt buộc:
(i)Tất cả các đơn khác đã được Cục Sở hữu trí tuệ tiếp nhận có cùng chỉ số
phân loại, tính đến chỉ số phân lớp (chỉ số hạng thứ ba) và có ngày ưu tiên sớm hơn.
(ii) Các đơn sáng chế và các patent do các Tổ chức, quốc gia khác công bố hoặc

cấp trong vòng 25 năm trước ngày ưu tiên của đơn.
(iii) Trong trường hợp cần thiết và có thể, việc tra cứu được mở rộng đến các
báo cáo khoa học, báo cáo kết quả của các chương trình, đề tài nghiên cứu…thuộc
cùng lĩnh vực kỹ thuật được công bố và lưu giữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu khoa
học và công nghệ quốc gia.
Điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 2009 quy định về cách xác định tính
mới của sáng chế4.
“Điều 60. Tính mới của sáng chế
1. Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử
dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước
ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp
đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
2. Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được
biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường hợp sau
đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày
công bố:
a) Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng
ký quy định tại Điều 86 của Luật này;

4 Xem Điều 60 LSHTT sđ 2009

NHÓM 2

Page 6


b) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này công bố
dưới dạng báo cáo khoa học;
c) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này trưng

bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính
thức hoặc được thừa nhận là chính thức”.
Mục đích của chủ sở hữu sáng chế khi xin đăng ký bảo hộ là hướng tới việc họ
có thể độc quyền khai thác đối tượng được bảo hộ, đảm bảo thu hồi vốn đầu tư, thu lợi
một cách hợp pháp và tái đầu tư để tạo ra các sản phẩm mới. Điều này có nghĩa là chủ
sở hữu sáng chế muốn được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, và
việc pháp luật quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ cho sáng chế cũng nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho chủ sở hữu sáng chế, rộng hơn nữa là bảo vệ cho lợi ích của
đất nước, tuy nhiên ở Khoản 2 Điều 60 được đề cập ở trên, sáng chế được coi là có
tính mới khi “Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người
có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó”, và không được coi là có
tính mới theo điểm a và điểm c Khoản 3 Điều này. Vấn đề đặt ra là trong thực tế xảy ra
trường hợp chủ sở hữu sáng chế thực hiện mọi biện pháp nhưng không thể kiểm soát
được việc sáng chế bị mất tính mới do hành vi của người thứ ba thì rõ ràng là quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bị xâm hại. Nhóm 2 nhận định rằng quy định tại
Khoản 2 và điểm a, c Khoản 3 Điều 60 là chưa thực sự hợp lý bởi tính mới của sáng
chế trong trường hợp này mất đi là do yếu tố khách quan chứ không phải do yếu tố chủ
quan từ phía chủ sở hữu sáng chế, kết quả của việc sáng chế mất tính mới trong trường
hợp này nó không được pháp luật bảo hộ,lúc đó mục đích bảo hộ cho chủ sở hữu sáng
chế của pháp luật không đạt được. Nhưng chúng tôi cũng chưa tìm được phương án tối
ưu cho vấn đề này bởi việc pháp luật không bảo hộ cũng không phải là không có căn
cứ bởi một giải pháp kỹ thuật mà đã công khai mọi người đều biết thì sẽ không đảm
bảo tính mới chưa xét đến việc tính mới bị mất đi có phải do lỗi chủ quan của chủ sở
hữu sáng chế hay không.
b.Về trình độ sáng tạo
Theo Điều 61 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 20095, sáng chế được coi là có
trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới
5 Xem Điều 61 LSHTT 2005 sửa đổi 2009

NHÓM 2


Page 7


hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong
nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký
sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế
đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có
hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
c.Về khả năng áp dụng
Theo Điều 62 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 20096, sáng chế được coi là có
khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng
loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu
được kết quả ổn định. Để thoả mãn các điều kiện này, các thông tin về bản chất của
giải pháp cùng với các chỉ dẫn về điều kiện kỹ thuật cần thiết phải được trình bày một
cách rõ ràng đầy đủ đến mức cho phép người có trình độ hiểu biết trung bình trong
lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể tạo ra, sản xuất ra và có thể sử dụng, khai thác giải
pháp đó nhiều lần với kết quả như nhau và giống với kết quả nêu trong đơn. Như vậy,
giải pháp kỹ thuật bị coi là không có khả năng áp dụng nếu chúng đi ngược lại các
nguyên lý cơ bản của khoa học (ví dụ giải pháp kỹ thuật về động cơ vĩnh cửu không
tuân theo nguyên lý bảo toàn năng lượng); đối tượng có chứa mâu thuẫn nội tại; để có
thể thực hiện được giải pháp, người thực hiện phải có kỹ năng đặc biệt và kỹ năng đó
không thể truyền thụ hoặc chỉ dẫn được cho người khác; hay thiếu các chỉ dẫn quan
trọng nhất để thực hiện giải pháp.
II.2. Các đối tượng không được bảo hộ
Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế được quy định tại Điều
59 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 2009:
“Điều 59: Các đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế:
1. Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học;
2. Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn

luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính;
3. Cách thức thể hiện thông tin;
4. Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ;
6 Xem Điều 62 LSHTT 2005 sửa đổi 2009

NHÓM 2

Page 8


5. Giống thực vật, giống động vật;
6. Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không
phải là quy trình vi sinh;
7. Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật.”
Cụ thể:
- Các đối tượng không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn ứng dụng công
nhiệp của sáng chế như: phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học; giải
pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ mà không mang đặc tính kĩ thuật (Khoản 1, Khoản 4
Điều 59).
Ngoài ra, vì một số điểm tương đồng mà sáng chế thường dễ bị nhầm lẫn với
phát minh. Nhưng trên thực tế đấy là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Về bản chất,
phát minh là việc nhận ra quy luật tự nhiên vốn tồn tại, trong khi sáng chế là tạo ra
phương tiện mới về mặt kỹ thuật chưa từng tồn tại. Phát minh không thể trực tiếp áp
dụng vào đời sống mà phải thông qua sáng chế. Cùng với thời gian, sáng chế có thể
suy giảm, tiêu vong theo tiến độ của khoa học công nghệ, kỹ thuật, còn phát minh luôn
tồn tại trong lịch sử nhân loại.Vì vậy, Luật Sở hữu trí tuệ không bảo hộ phát minh với
danh nghĩa sáng chế mà có cơ chế pháp lý khác.
- Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động tri óc,
huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính; cách
thức thể hiện thông tin (Khoản 2 Điều 59)

Các đối tượng này chỉ thuần tuý là sự thể hiện thông tin chứ không là một giải
pháp kỹ thuật. Do đó, không thể có khả năng áp dụng chúng vào sản xuất công nghiệp
trong thực tiễn được. Các đối tượng “sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực
hiện các hoạt động tri óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh, chương
trình máy tính được” bảo hộ theo quy định quyền tác giả. Vì vậy, các đối tượng này
không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.
- Giống thực vật, giống động vật; Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ
yếu mang bản chất sinh học mà không phải quy trình vi sinh (Khoản 5, Khoản 6
điều 59).

NHÓM 2

Page 9


Các đối tượng này được bảo hộ trong lĩnh vực khác bởi những đặc điểm khác
biệt của các đối tượng này. Ví dụ như Quy trình để tạo ra một giống cây trồng mới
thường mất rất nhiều thời gian và tiền bạc. Trong khi đó, việc sao chép giống cây trồng
lại có thể được thực hiện nhanh chóng theo nhiều cách thức khác nhau, như: chiết cây,
giâm cây hoặc gieo hạt … Việc thời hạn hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế (tối đa
chỉ 20 năm) lại không phù hợp đối với đối tượng giống cây trồng mới (thời gian khai
thác giống cây trồng có thể kéo dài đến 25 năm hoặc hơn thế). Do vậy, đòi hỏi các cần
phải xây dựng cơ chế bảo hộ hữu hiệu, riêng biệt cho đối tượng giống cây trồng mới,
đảm bảo cho người tạo giống cây trồng có thể khai thác lợi nhuận và tái đầu tư cho các
hoạt động sáng tạo của mình.
- Phương pháp phòng ngừa, chuẩn đoán, chữa bệnh cho người và động vật.
(Khoản 7 Điều 59).
Loại trừ đối tượng này ra khỏi phạm vi sáng chế được bảo hộ bởi vì việc tìm ra
phương pháp phòng và chữa bệnh cần phải mở rộng phạm vi áp dụng vì mục đích
nhân đạo có tầm quan trọng rất lớn đến lợi ích cộng đồng, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và không thể đưa ra để tư nhân hóa hoặc thương mại hóa được.

II.3. Đăng ký sáng chế
II.3.1. Quyền đăng ký sáng chế
Theo quy định tại Điều 86, 89 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 2009 và Điều
9 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, các tổ chức, cá nhân sau đây có quyền
đăng ký sáng chế do mình sáng tạo ra hoặc do mình đầu tư tạo ra sáng chế:
- Tác giả tạo ra sáng chế bằng công sức và chi phí của mình;
- Tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình
thức giao việc, thuê việc để tạo ra sáng chế, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác
và thỏa thuận đó không trái với quy định của pháp luật;
- Trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra
sáng chế thì các tổ chức, cá nhân đó đều có quyền đăng ký sáng chế và quyền đăng ký
đó chỉ được thực hiện nếu được tất cả các tổ chức, cá nhân đó đồng ý;

NHÓM 2

Page 10


- Trường hợp sáng chế được tạo ra do sử dụng cơ sở vật chất – kĩ thuật, kinh phí
từ ngân sách nhà nước :
+ Trong trường hợp sáng chế được tạo ra trên cơ sở Nhà nước đầu tư toàn bộ
kinh phí, phương tiện vật chất - kỹ thuật, quyền đăng ký sáng chế thuộc về Nhà nước.
Tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư có trách nhiệm đại diện Nhà
nước thực hiện quyền đăng ký nói trên;
+ Trong trường hợp sáng chế được tạo ra trên cơ sở Nhà nước góp vốn (kinh
phí, phương tiện vật chất - kỹ thuật), một phần quyền đăng ký sáng chế tương ứng với
tỷ lệ góp vốn thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước là chủ phần vốn đầu tư
của Nhà nước có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện phần quyền đăng ký nói
trên;

+ Trong trường hợp sáng chế được tạo ra trên cơ sở hợp tác nghiên cứu - phát
triển giữa tổ chức, cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân khác, nếu trong thoả thuận
hợp tác nghiên cứu - phát triển không có quy định khác thì một phần quyền đăng ký
sáng chế tương ứng với tỷ lệ đóng góp của tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc hợp
tác đó, thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước tham gia hợp tác nghiên cứu phát triển có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký nói trên.
Như vậy, các chủ thể có quyền đăng ký sáng chế sẽ tiến hành nộp đơn lên cơ
quan nhà nước có thẩm để xin cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế của mình. Sáng
chế chỉ được pháp luật về sở hữu trí tuệ bảo hộ khi đã đăng ký sáng chế.
(1)Nộp đơn đăng ký
Nộp đơn đăng ký là cách để các chủ thể xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối
với sáng chế.
Cách thức nộp đơn được tiến hành như sau:
- Tổ chức, cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam, tổ
chức, cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn đăng ký
xác lập quyền sở hữu công nghiệp trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt
Nam.

NHÓM 2

Page 11


- Cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước
ngoài không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn đăng ký xác lập
quyền sở hữu công nghiệp thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam7.
Trong quá trình nộp đơn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để đảm bảo cho
việc bảo hộ tối ưu nhất, pháp luật đã quy định hai nguyên tắc. Đó là nguyên tắc nộp
đơn đầu tiên và nguyên tắc ưu tiên.
 Về nguyên tắc ngày nộp đơn đầu tiên được áp dụng như sau:
+ Khi có nhiều đơn đăng ký các sáng chế trùng hoặc tương đương với nhau, các

kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc không khác biệt đáng kể với nhau; các nhãn hiệu
trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ
trùng hoặc tương tự với nhau hoặc trường hợp có nhiều đơn của cùng một người đăng
ký các nhãn hiệu trùng dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau.
+ Văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho những đối tượng trong một đơn duy nhất
hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các
điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.
+ Nếu có nhiều đơn đăng ký cùng đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng
bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ
được cấp cho đối tượng của một đơn duy nhất trong số các đơn đó theo thỏa thuận của
tất cả những người nộp đơn; nếu không thỏa thuận được thì các đối tượng tương ứng
của các đơn đó bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ8.
+ Ngoài ra, trong trường hợp đã nộp đơn đầu tiên tại Việt Nam hoặc tại các
quốc gia là thành viên của Công ước Paris về sở hữu công nghiệp, Công ước PCT về
bảo hộ sáng chế thì người nộp đơn có quyền yêu cầu hưởng quyền ưu tiên cho đối
tượng đã được nộp trong đơn đầu tiên trong thời hạn nhất định (theo công ước Paris,
thời hạn hưởng quyền ưu tiên đối với sáng chế là 12 tháng tính từ ngày nộp đơn đơn
đầu tiên)
 Về nguyên tắc hưởng quyền ưu tiên:

7 Xem điều 89 LSHTT
8 Xem điều 90 LSHTT

NHÓM 2

Page 12


Quyền ưu tiên là quyền là quyền của người nộp đơn trên cơ sở một đơn hợp lệ
lần đầu tiên đã được nộp tại một quốc gia khác là thành viên điều ước quốc tế có quy

định về quyền ưu tiên, trong một thời hạn nhất định, người nộp đơn có thể nộp đơn
yêu cầu bảo hộ sáng chế đó tại một quốc gia thành viên khác và đơn nộp sau đó được
coi như nộp cùng ngày với đơn đầu tiên.
Ví dụ: Ngày 02/02/2004 một công dân Việt Nam nộp đơn đăng ký bảo hộ một
kiểu dáng công nghiệp là X' tại Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam. Ngày 02/05/2004 một
công dân Pháp cũng nộp đơn đăng ký chính đối tượng X' đó tại cơ quan sở hữu trí tuệ
của Pháp. Ngày 05/05/2004 công dân Việt Nam đó mới nộp đơn đăng ký bảo hộ đối
tượng này tại Pháp. Theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên thì đơn của công dân Pháp nộp
ở Pháp sẽ hợp lệ (vì đơn nộp sớm hơn tại Pháp).
Tuy nhiên trong trường hợp này công dân Việt Nam có thể xin hưởng quyền ưu
tiên trên cơ sở đơn đã nộp sớm hơn tại Việt Nam (nộp ngày 2/2/2004). Do đó đơn của
công dân Việt Nam nộp ở Pháp sẽ được tính là ngày 2/2/2004. Nguyên tắc quyền ưu
tiên được quy định tại Điều 91 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 2009 về nguyên tắc ưu
tiên:
“Người nộp đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu có quyền
yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đầu tiên đăng ký bảo hộ cùng một đối
tượng nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Đơn đầu tiên đã được nộp tại Việt Nam hoặc tại nước là thành viên của điều
ước quốc tế có quy định về quyền ưu tiên mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cũng là thành viên hoặc có thỏa thuận áp dụng quy định như vậy với Việt Nam;
b) Người nộp đơn là công dân Việt Nam, công dân của nước khác quy định tại
điểm a khoản này cư trú hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam hoặc tại
nước khác quy định tại điểm a khoản này;
c) Trong đơn có nêu rõ yêu cầu được hưởng quyền ưu tiên và có nộp bản sao đơn
đầu tiên có xác nhận của cơ quan đã nhận đơn đầu tiên;
d) Đơn được nộp trong thời hạn ấn định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

NHÓM 2


Page 13


Ngoài ra, Quyền ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế cũng được quy định tại Điều
10 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp như sau:
“Quyền ưu tiên đối với đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu quy
định tại Điều 91 của Luật Sở hữu trí tuệ được áp dụng như sau:
1. Trong trường hợp người nộp đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn
hiệu muốn hưởng quyền ưu tiên theo quy định của Công ước Paris, yêu cầu hưởng
quyền ưu tiên của người nộp đơn sẽ được chấp nhận nếu đáp ứng các điều kiện sau
đây:
a) Người nộp đơn là công dân Việt Nam hoặc công dân của nước Thành viên của
Công ước Paris hoặc cư trú, có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam hoặc tại nước
Thành viên Công ước đó;
b) Đơn đầu tiên đã được nộp tại Việt Nam hoặc tại nước Thành viên của Công ước
Paris và đơn có chứa phần tương ứng với yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của đơn đăng
ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu;
c) Đơn đăng ký được nộp trong thời hạn sau đây kể từ ngày nộp đơn đầu tiên: sáu
tháng đối với đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp hoặc đơn đăng ký nhãn hiệu, mười
hai tháng đối với đơn đăng ký sáng chế;
d) Trong đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, người nộp đơn có
nêu rõ yêu cầu hưởng quyền ưu tiên và có nộp bản sao đơn đầu tiên nêu tại điểm b
khoản này trong trường hợp nộp tại nước ngoài, trong đó có xác nhận của Cơ quan
nhận đơn đầu tiên;
đ) Nộp đủ lệ phí yêu cầu hưởng quyền ưu tiên.
2. Trong trường hợp người nộp đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn
hiệu muốn hưởng quyền ưu tiên theo điều ước quốc tế khác, yêu cầu hưởng quyền ưu
tiên sẽ được chấp nhận nếu đáp ứng các điều kiện về quyền ưu tiên quy định trong
điều ước đó.”

Việc quy định quyền ưu tiên mang lại lợi ích thiết thực cho người nộp đơn khi
đơn này muốn đạt được sự bảo hộ của nhiều quốc gia khác nhau, họ không phải nộp
NHÓM 2

Page 14


đồng thời tất cả các đơn tại nước xuất xứ và các nước khác nhau mà có thời hạn nhất
định để xem xét lựa chọn việc nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại quốc gia nào thiết thực nhất
vì các đơn nộp sau này sẽ có ngày ưu tiên là ngày nộp đơn đầu tiên. Nó ngăn chặn hữu
hiệu người khác lợi dụng đăng ký đối tượng đó tại các quốc gia khác khi người nộp
đơn chưa kịp làm việc này và cũng tránh được tình trạng người nộp đơn phải nộp
nhiều đơn khác nhau tại một thời điểm.
 Đơn đăng ký sáng chế phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Tài liệu xác định sáng chế cần bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế bao gồm
bản mô tả sáng chế và bản tóm tắt sáng chế. Bản mô tả sáng chế gồm phần mô tả sáng
chế và phạm vi bảo hộ sáng chế.
+ Phần mô tả sáng chế phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
(i) Bộc lộ đầy đủ và rõ ràng bản chất của sáng chế đến mức căn cứ vào đó
người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện được
sáng chế đó;
(ii)Giải thích vắn tắt hình vẽ kèm theo, nếu cần làm rõ thêm bản chất của sáng
chế;
(iii) Làm rõ tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp của
sáng chế.
+ Phạm vi bảo hộ sáng chế phải được thể hiện dưới dạng tập hợp các dấu hiệu
kỹ thuật cần và đủ để xác định phạm vi quyền đối với sáng chế và phải phù hợp với
phần mô tả sáng chế và hình vẽ.
+ Bản tóm tắt sáng chế phải bộc lộ những nội dung chủ yếu về bản chất của
sáng chế9.

Đơn đăng ký sáng chế phải đảm bảo các yêu cầu trên, nếu không đáp ưng được
các yêu cầu đó, đơn đăng ký có thể bị hủy bỏ hoặc từ chối.
(2)Văn bằng bảo hộ
a.Khái niệm

9 Xem điều 102 LSHTT

NHÓM 2

Page 15


Định nghĩa thế nào là văn bằng bảo hộ được quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật
Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi 2009:
“Văn bằng bảo hộ ghi nhận chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí, nhãn hiệu (sau đây gọi là chủ văn bằng bảo hộ); tác giả sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí; đối tượng, phạm vi và thời hạn bảo hộ”.10
Văn bằng bảo hộ bằng chứng xác nhận quyền độc quyền của chủ sở hữu trong
một tời hạn do pháp luật quy định.
Văn bằng bảo hộ bao gồm: Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải
pháp hữu ích, Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và Giấy chứng
nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý11.
b.Hiệu lực của văn bằng bảo hộ
- Về mặt không gian, văn bằng bảo hộ nói chung có hiệu lực trên toàn lãnh thổ
Việt Nam. Điều này đảm bảo nguyên tắc chung của Luật Sở hữu trí tuệ là bảo hộ theo
lãnh thổ.
- Về mặt thời gian, tùy vào từng loại văn bằng bảo hộ mà có thời gian bảo hộ
khác nhau. Thời gian bảo hộ ngắn hay dài phụ thuộc vào đối tượng được bảo hộ có thể
mang lại giá trị về kinh tế cũng như đảm bảo tính mới về kỹ thuật và mỹ thuật trong

bao lâu.
+ Bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến 20 năm kể
từ ngày nhận đơn.
+ Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết
10 năm kể từ ngày nộp đơn12.
Tuy nhiên, thời hạn có hiệu lực của văn bằng bảo hộ không bắt đầu tính kể từ
khi nó được cấp mà có hiệu lực kể từ ngày nộp đơn. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy
là do vào thời điểm nộp đơn đăng ký, sáng chế đã được coi là “bộc lộ công khai”, do
đó phải bảo hộ từ thời điểm công khai đó. Nếu chờ văn bằng bảo hộ có hiệu lực mới
10Xem khoản 1 điều 92 LSHTT
11 Xem khoản 3 điều 92 LSHTT
12 Xem điều 93 LSHTT

NHÓM 2

Page 16


bảo hộ thì nguy cơ bị sao chép là rất lớn. Điều này không đảm bảo được quyền độc
quyền của chủ sở hữu.
Để duy trì hiệu lực văn bằng bảo hộ, chủ văn bằng bảo hộ phải tiến hành nộp lệ
phí duy trì hiệu lực. Mức lệ phí do Chính phủ quy định 13. Khác với quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp phải nộp lệ phí duy trì. Sở dĩ có sự khác biệt này là do
quyền sở hữu công nghiệp có tính thương mại cao, chủ yếu dùng để phục vụ cho sản
xuất kinh doanh trong khi quyền tác giả chỉ phục cho các nhu cầu về giải trí là chủ
yếu.
Tuy nhiên, bằng độc quyền sáng chế sẽ bị chấm dứt hiệu lực trong các trường
hợp sau:
+ Chủ bằng độc quyền sáng chế không nộp lệ phí duy trì hiệu lực.
+ Chủ bằng độc quyền sáng chê từ bỏ quyền sở hữu đối với sáng chế.

+ Chủ bằng độc quyền sáng chế không còn tồn tại14.
Bằng độc quyền sáng chế hết hiệu lực sẽ đương nhiên chấm dứt, nên sẽ không
nằm thuộc các trường hợp “bị” chấm dứt hiệu lực. Với cụm từ “không còn tồn tại” đối
với chủ bằng độc quyền sáng chế không được quy định rõ ràng, có thể hiểu là người
đó đã chết, bị tuyên bố mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.
II.4. Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
Quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu không phải là quyền tuyệt đối mà bị
giới hạn bởi các yếu tố được quy định cụ thể trong pháp luật sở hữu trí tuệ. Các yếu tố
tạo nên giới hạn của quyền sở hữu được ghi nhận tại Điều 132 Luật Sở hữu trí tuệ
2005, sửa đổi 2009:
- Quyền của người sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp;
- Các nghĩa vụ của chủ sở hữu, bao gồm:
+ Trả thù lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
+ Sử dụng sáng chế, nhãn hiệu.

13 Xem điều 94 LSHTT
14 Xem điều 95 LSHTT

NHÓM 2

Page 17


- Chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Với từng yếu tố trên, pháp luật đã quy định chi tiết tạo điều kiện cho các cơ
quan, tổ chức, cá nhân hiểu rõ phạm vi quyền và giới hạn của mình trong sở hữu công
nghiệp.
- Quyền sử dụng trước đối với sáng chế: Trường hợp trước ngày đơn đăng ký
sáng chế được công bố mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết

để sử dụng sáng chế đồng nhất với sáng chế trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một
cách độc lập (sau đây gọi là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi văn bằng bảo
hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế trong phạm vi và khối
lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền
đền bù cho chủ sở hữu sáng chế được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng
trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở
hữu sáng chế.
- Người có quyền sử dụng trước sáng chế không được phép chuyển giao quyền
đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao quyền đó kèm theo việc chuyển giao
cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp. Người có quyền sử dụng trước không được mở rộng phạm vi, khối lượng
sử dụng nếu không được chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp cho phép.
- Chủ sở hữu có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả sáng chế với mức thù lao được
quy định cụ thể: 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu thu được do sử dụng sáng chế;
15% tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán do
chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Với trường hợp có đồng tác giả thì chủ sở hữu
trả mức thù lao quy đinh như trên cho tất cả các đồng tác giả, các đồng tác giả tự thỏa
thuận việc phân chia tiền thù lao do chủ sở hữu chi trả. Nghĩa vụ này tồn tại trong suốt
thời gian bảo hộ.
- Đồng thời, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ sử dụng sáng chế nhằm đáp ứng nhu
cầu an ninh quốc phòng, phòng bệnh, chữa bệnh, nhu cầu cấp thiết khác của xã hội.
- Chủ sở hữu phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quyết định của cơ
quan Nhà nước trong trường hợp phục vụ vì mục đích công cộng, phi thương mại,
NHÓM 2

Page 18


quốc phòng an ninh, phòng bệnh, chữa bênh, dinh dưỡng cho nhân dân và đáp ứng các
nhu cầu cấp thiết khác của xã hội.

- Ngoài ra, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ cho phép người khác sử dụng sáng chế
cơ bản để phục vụ cho việc sử dụng sáng chế phụ thuộc trong trường hợp sáng chế phụ
thuộc được coi là bước tiến quan trọng về mặt kĩ thuật so với sáng chế cơ bản và có ý
nghĩa kinh tế lớn. Nếu chủ sở hữu không đáp ứng yêu cầu mà không có lí do chính
đáng thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế
đó cho chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc.
II.5. Bắt buộc chuyển giao quyền sở hữu đối với sáng chế
II.5.1. Căn cứ bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế
 Cơ sở pháp lý:
Nội dung này được quy định tại Điều 145 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi
2009. Theo đó:
1. Trong các trường hợp sau đây, quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao cho tổ
chức, cá nhân khác sử dụng theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
quy định tại khoản 1 Điều 147 của Luật này mà không cần được sự đồng ý của người
nắm độc quyền sử dụng sáng chế:
a) Việc sử dụng sáng chế nhằm mục đích công cộng, phi thương mại, phục vụ quốc
phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc đáp ứng các
nhu cầu cấp thiết của xã hội;
b) Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế
quy định tại khoản 1 Điều 136 và khoản 5 Điều 142 của Luật này sau khi kết thúc bốn
năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký sáng chế và kết thúc ba năm kể từ ngày cấp Bằng độc
quyền sáng chế;
c) Người có nhu cầu sử dụng sáng chế không đạt được thoả thuận với người nắm độc
quyền sử dụng sáng chế về việc ký kết hợp đồng sử dụng sáng chế mặc dù trong một
thời gian hợp lý đã cố gắng thương lượng với mức giá và các điều kiện thương mại
thoả đáng;

NHÓM 2

Page 19



d) Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế bị coi là thực hiện hành vi hạn chế cạnh
tranh bị cấm theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.
2. Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế có quyền yêu cầu chấm dứt quyền sử dụng
khi căn cứ chuyển giao quy định tại khoản 1 Điều này không còn tồn tại và không có
khả năng tái xuất hiện với điều kiện việc chấm dứt quyền sử dụng đó không gây thiệt
hại cho người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế.
 Nội dung:
- Thứ nhất, sử dụng sáng chế vì mục đích công cộng, phi thương mại. Mục
đích này có thể hiểu là để nhằm phục vụ quốc phòng, an ninh, chữa bệnh, dinh dưỡng
cho nhân dân hoặc đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội. Đây chính là những nội
dung cơ bản thuộc chức năng đối nội của một nhà nước. Do đó, để khai thác sáng chế
với mục đích bảo vệ cộng đồng như vậy, các cơ quan nhà nước sẽ trực tiếp là Bên
nhận chuyển giao quyền sử dụng sáng chế bắt buộc thuộc lĩnh vực mình quản lý. Theo
đó, bất chấp việc chủ sở hữu là có vi phạm nghĩa vụ sử dụng sáng chế hay không, việc
bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế vẫn được tiến hành. Đây là điểm chung
của chế định Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế tại các nước, phù hợp với
quy định của Hiệp định TRIPs và Hiêp định về những vấn đề liên quan đến thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ của WTO.
- Thứ hai, người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thực hiện nghĩa vụ
sử dụng sáng chế. Thông qua phương cách dẫn chiếu đến Khoản 1 Điều 136 và
Khoản 5 Điều 142 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 2009, sự vi phạm nghĩa vụ
này được hiểu: mặc dù không có nhu cầu sử dụng sáng chế vì mục đích công cộng, phi
thương mại, nhưng nếu chủ sở hữu hay bên được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế
theo hợp đồng độc quyền đã không sử dụng sáng chế thì đây cũng được coi là căn cứ
bắt buộc chuyển giao quyền. Nói cách khác, tư cách pháp lý của người nắm độc quyền
trong trường hợp này là chủ thể vi phạm nghĩa vụ sử dụng sáng chế. Như vậy, các
trường hợp bắt buộc phải chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế do người nắm
độc quyền không thực hiện các nghĩa vụ bao gồm:

+ Chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ sản xuất sản phẩm được bảo hộ hoặc áp
dụng quy trình được bảo hộ để đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh, phòng bệnh,
NHÓM 2

Page 20


chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội nhưng
không thực hiện nghĩa vụ đó. 15
+ Bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền có nghĩa
vụ sử dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng chế theo quy định tại Khoản 1 Điều 136 của
Luật này nhưng không thực hiện các nghĩa vụ đó.16
- Thứ ba, người có nhu cầu sử dụng sáng chế không đạt được thỏa thuận
với người nắm độc quyền về việc ký kết hợp đồng sử dụng sáng chế, mặc dù trong
một thời gian hợp lý đã cố gắng thương lượng với mức giá và các điều kiện
thương mại thỏa đáng.
Điều này có nghĩa rằng, trước khi được cấp phép sử dụng sáng chế bắt buộc,
người có nhu cầu đã cố gắng thiết lập hợp đồng với chủ sở hữu nhưng không thành
công. Theo quy định tại điểm c, có thể nhận thấy quan điểm chủ quan của nhà làm luật
xác định kết quả đó là một cơ sở độc lập với những căn cứ còn lại và cũng được xem
là một căn cứ để bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Điều này thể hiện sự
khác biệt trong nhận thức của các nhà lập pháp Việt Nam với những quốc gia khác và
với nội dung Điều 31(b) Hiệp định TRIPs. Quan điểm của các nước khác và WTO chỉ
xem kết quả đó là một điều kiện tiên quyết để cơ quan có thẩm quyền tiếp tục xem xét
căn cứ được đưa ra chứng tỏ có mối quan hệ giữa kết quả và hành vi vi phạm của chủ
sở hữu. Nói khác đi, ở những quan điểm này có sự phân biệt rõ ràng điều kiện cần
(không đạt được thỏa thuận) và điều kiện đủ (có hành vi trái pháp luật của chủ sở hữu
đưa đến hệ quả đó).
- Thứ tư, người nắm độc quyền sử dụng sáng chế bị coi là thực hiện hành
vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của pháp luật về cạnh tranh. Căn cứ

này thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí tuệ trong
quá trình bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Thông qua việc cấp cho chủ sở hữu bằng độc
quyền sáng chế, nhà nước đã công nhận cho chủ thể này các độc quyền đối với sáng
chế. Ngược lại, áp dụng Luật Cạnh tranh tức là nhà nước sử dụng các công cụ đặc thù
để kiểm soát, hạn chế độc quyền của chủ sở hữu. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất

15 Theo khoản 1 Điều 136 Luật Sở hữu trí tuệ
16 Theo Khoản 2 Điều 145 Luật Sở hữu trí tuệ

NHÓM 2

Page 21


trong quá trình thực thi quyền độc quyền sử dụng sáng chế là làm sao ngăn chặn được
hành vi lạm dụng của chủ sở hữu gây thiệt hại cho xã hội .
II.5.2. Điều kiện bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế
 Cơ sở pháp lý
Nội dung này được quy định tại Điều 146 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi
2009, cụ thể:
“1. Quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải phù hợp với các điều kiện sau đây:
a) Quyền sử dụng được chuyển giao thuộc dạng không độc quyền;
b) Quyền sử dụng được chuyển giao chỉ được giới hạn trong phạm vi và thời hạn đủ để
đáp ứng mục tiêu chuyển giao và chủ yếu để cung cấp cho thị trường trong nước, trừ
trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 145 của Luật này. Đối với sáng chế trong
lĩnh vực công nghệ bán dẫn thì việc chuyển giao quyền sử dụng chỉ nhằm mục đích
công cộng, phi thương mại hoặc nhằm xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định
của pháp luật về cạnh tranh;
c) Người được chuyển giao quyền sử dụng không được chuyển nhượng quyền đó cho

người khác, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với cơ sở kinh doanh của mình và
không được chuyển giao quyền sử dụng thứ cấp cho người khác;
d) Người được chuyển giao quyền sử dụng phải trả cho người nắm độc quyền sử dụng
sáng chế một khoản tiền đền bù thoả đáng tuỳ thuộc vào giá trị kinh tế của quyền sử
dụng đó trong từng trường hợp cụ thể phù hợp với khung giá đền bù do Chính phủ quy
định.
2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, quyền sử dụng sáng chế được
chuyển giao trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 137 của Luật này còn phải
đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế cơ bản cũng được chuyển giao quyền sử
dụng sáng chế phụ thuộc với những điều kiện hợp lý;

NHÓM 2

Page 22


b) Người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cơ bản không được chuyển
nhượng quyền đó, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với toàn bộ quyền đối với sáng
chế phụ thuộc.”
 Nội dung
Điều kiện bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế thực chất là những quy
định nhằm hạn chế quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao theo quyết định bắt
buộc. Cụ thể các điều kiện này được quy định tại khoản 1 Điều 146 Luật Sở hữu trí
tuệ 2005 sửa đổi 2009 như sau:
- Thứ nhất, đối với hình thức chuyển giao.
Điểm a Khoản 1 Điều 164 ghi nhận: “Quyền sử dụng được chuyển giao thuộc
dạng không độc quyền”. Đây là hình thức mà Bên chuyển giao vẫn có quyền sử dụng
sáng chế, quyền ký kết hợp đồng sử dụng sáng chế không độc quyền với người khác.
Xuất phát từ mục đích của việc bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế và trên

nguyên tắc “cân bằng lợi ích” . Nội dung nguyên tắc này yêu cầu: “Việc bảo hộ và
thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải tạo được sự hài hòa giữa chủ sở hữu và cộng đồng”,
quy định này là hoàn toàn phù hợp. Mặc dù bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng
chế là sự cưỡng chế đối với chủ sở hữu, nhưng nó không thể quá nghiêm khắc ở mức
độ phải áp dụng hình thức chuyển giao độc quyền. Điều này rõ ràng đã “hy sinh” lợi
ích của chủ sở hữu một cách không thỏa đáng, vi phạm nguyên tắc “cân bằng lợi ích”.
Còn đối với hình thức chuyển giao thứ cấp, đây là hình thức được tiến hành sau
khi đã tồn tại ít nhất một quan hệ pháp luật có hiệu lực về chuyển giao quyền sử dụng
sáng chế đang được xin cấp phép sử dụng. Điều này có nghĩa rằng, trước thời điểm
nộp đơn xin cấp phép sử dụng sáng chế bắt buộc của cá nhân, tổ chức khác, chủ sở
hữu đã thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế. Do đó, không thể cưỡng chế đối với
người nắm độc quyền với lý do không thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế. Như vậy,
sự ràng buộc hình thức chuyển giao không độc quyền vừa hợp logic với căn cứ bắt
buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế vừa đảm bảo được lợi ích của chủ sở hữu.
- Thứ hai, thời hạn và phạm vi quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao.
Đây là khoảng thời gian và phạm vi sử dụng cần thiết để Bên nhận chuyển giao
thực hiện những hành vi cụ thể nhằm đạt được mục đích của mình. Hai giới hạn này
NHÓM 2

Page 23


được Luật SHTT quy định gián tiếp thông qua cách thức ước lượng theo mục đích cần
đạt được. Tại điểm b khoản 1 Điều 146, nhà làm luật xác định “quyền sử dụng được
chuyển giao chỉ được giới hạn trong phạm vi và thời hạn đủ để đáp ứng mục tiêu
chuyển giao”.
Có thể nhận thấy, “mục tiêu chuyển giao” là một phạm trù chỉ mang tính ước
lượng, không thể định lượng cụ thể trên thực tế. Bởi các mục tiêu đó là sự chấm dứt
hành vi vi phạm của chủ sở hữu, thiệt hại của cá nhân, tổ chức khác được bồi thường
thỏa đáng; hay nhu cầu cấp thiết của xã hội đã được đáp ứng, các nguy cơ gây thiệt hại

nghiêm trọng cho cộng đồng không còn tồn tại… Tất cả những mục tiêu này rất khó
kiểm soát. Do đó, nếu không có những quy định đóng vai trò như cơ chế kiểm soát quá
trình khai thác quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao, thì việc bắt buộc chuyển
giao quyền sử dụng sáng chế rất khó đạt hiệu quả cao.
- Thứ ba, điều kiện cung cấp sản phẩm sản xuất dựa trên quyền sử dụng
sáng chế bắt buộc cho thị trường nước ngoài.
Giống như Công ước Paris và Hiệp định TRIPs, điểm b khoản 1 Điều 146
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: “Quyền sử dụng được chuyển giao chủ yếu
để cung cấp cho thị trường trong nước”.
Tuy nhiên, điều kiện này cũng có ngoại lệ cho Bên nhận chuyển giao. Ngoại lệ
này áp dụng trong trường hợp bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế dựa trên
căn cứ là người nắm độc quyền sử dụng sáng chế bị coi là thực hiện hành vi hạn chế
cạnh tranh bị cấm theo quy định của pháp luật về cạnh tranh. Trong bối cảnh nền kinh
tế thế giới chuyển từ tư bản tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền, quy định ngoại lệ
này có thể xem như một “công cụ” hữu hiệu để chống lại quá trình tập trung kinh tế,
phân chia thị trường của các tập đoàn, các Chính phủ thuộc những nước phát triển. Bởi
thực tiễn thương mại cho thấy, các quá trình này diễn ra ngày càng mang tính hệ
thống, xuyên quốc gia, gây thiệt hại cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh trong thương
mại quốc tế không chỉ giới hạn ở thị trường trong nước, mà còn ở những lãnh thổ mà
các chủ thể này có sản phẩm xuất khẩu đến đó. Chính vì vậy, Luật Sở hữu trí tuệ cho
phép Bên nhận chuyển giao khai thác quyền sử dụng được chuyển giao để cung cấp
cho thị trường nước ngoài nhằm giúp khắc phục những thiệt hại do chủ sở hữu gây ra
ở những thị trường này.
NHÓM 2

Page 24


- Thứ tư, người được chuyển giao quyền sử dụng không được chuyển
nhượng quyền đó cho người khác. Điều này có thể được lý giải như sau:

+ Trên nguyên tắc “cân bằng lợi ích” và giá trị pháp lý của bằng độc quyền sáng
chế, việc bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế phải đảm bảo rằng, sau khi
thực hiện sự cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, chủ sở hữu vẫn tiếp tục
là chủ thể nắm độc quyền đối với sáng chế. Nói cách khác, độc quyền này hay một bộ
phận của nó không thể được chuyển nhượng mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu
(trừ trường hợp ngoại lệ do luật định).
+ Dưới góc độ sử dụng sáng chế vì cộng đồng: Mặc dù nguyên tắc “ưu tiên lợi
ích xã hội” được xem là quan trọng, nhưng sự vận dụng nguyên tắc này vẫn chịu sự
ràng buộc với những nguyên tắc còn lại, đặc biệt là nguyên tắc “cân bằng lợi ích”. Và
cần nhấn mạnh thêm rằng, “hy sinh” một phần lợi ích của chủ sở hữu để bảo vệ lợi ích
cộng đồng chứ không phải để bảo vệ đối thủ cạnh tranh của chủ sở hữu hay bất kỳ cá
nhân, tổ chức cụ thể nào. Do đó, bên nhận chuyển giao không thể có thêm đặc quyền
chuyển nhượng lại quyền sử dụng sáng chế đã được chuyển giao.
Tuy nhiên, lý do quan trọng nhất là vì nền tảng cho quy định này xuất phát từ
thực tế là để cấp phép sử dụng bắt buộc, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào tình
trạng pháp lý của chủ thể nộp đơn. Mối quan hệ giữa tình trạng pháp lý của doanh
nghiệp và quyền sử dụng mong muốn đạt được là mối quan hệ biện chứng, ảnh hưởng
đến quyết định cuối cùng có cấp phép hay không. Nói cách khác, đó là hai yếu tố cùng
tồn tại trong một thể thống nhất. Chính vì vậy, điểm c, khoản 1 Điều 146 đặt ra ngoại
lệ, đó là: trường hợp chuyển nhượng cùng với cơ sở kinh doanh của mình.
- Thứ năm, người được chuyển giao quyền sử dụng phải trả cho người nắm
độc quyền một khoản tiền đền bù thỏa đáng.
Tùy theo quan điểm khác nhau của các Chính phủ mà tính thỏa đáng này sẽ
được xác định cụ thể khác nhau. Với các nhà lập pháp Việt Nam, điều đó dựa trên các
cơ sở: một là, giá trị kinh tế của quyền sử dụng đó trong từng trường hợp cụ thể; hai là,
khung giá đền bù do Chính phủ quy định. Đây là hai cơ sở được áp dụng chung cho tất
cả các trường hợp bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế và không có thêm cơ
sở nào bổ sung cho từng trường hợp đặc thù: chuyển giao vì cộng đồng, phi thương
mại hay nhằm chế tài đối với chủ sở hữu. Theo Hiệp định TRIPs, trong trường hợp bắt
NHÓM 2


Page 25


×