Tải bản đầy đủ (.pdf) (197 trang)

Xây dựng hệ thống chính trị huyện đảo trường sa hiện nay ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.9 KB, 197 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

PHẠM HỒNG BINH

Xây dựng hệ thống chính trị
huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

PHẠM HỒNG BINH

Xây dựng hệ thống chính trị
huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số

: 62 22 03 08

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS, TS Nguyễn Mạnh Hƣởng
2. PGS, TS Nguyễn Đức Tiến


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Hồng Binh


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ HUYỆN ĐẢO TRƢỜNG SA
1.1. Hệ thống chính trị ở Việt Nam và hệ thống chính trị huyện
đảo Trƣờng Sa hiện nay
1.2. Quan niệm và đặc điểm xây dựng hệ thống chính trị huyện
đảo Trƣờng Sa hiện nay
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN
ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ HUYỆN ĐẢO TRƢỜNG SA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng xây dựng hệ thống chính trị huyện đảo

Trƣờng Sa
2.2. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra trong xây dựng hệ
thống chính trị huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay
Chƣơng 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ HUYỆN ĐẢO TRƢỜNG SA
HIỆN NAY
3.1. Những nhân tố tác động và yêu cầu xây dựng hệ thống
chính trị huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay
3.2. Một số giải pháp cơ bản xây dựng hệ thống chính trị
huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
ĐƢỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10

30
30
59

68
68
86

102
102
119

156
159
160


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Viết tắt

1

Ban Chấp hành Trung ƣơng

BCHTW

2

Chủ nghĩa đế quốc

CNĐQ

3

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

4


Chủ quyền biển, đảo

CQBĐ

5

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN

6

Hệ thống chính trị

HTCT

7

Hội đồng nhân dân

HĐND

8

Tƣ bản chủ nghĩa

TBCN

9


Ủy ban nhân dân

UBND

10

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

STT


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Đề tài “Xây dựng hệ thống chính trị huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay”
đƣợc thực hiện dƣới góc độ khoa học của chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội
khoa học. Đây là công trình nghiên cứu dựa trên hệ thống những quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã
hội chủ nghĩa; quan điểm, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT ở Việt Nam, về Chiến lƣợc
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm
2020. Trong quá trình triển khai công trình này, tác giả đã tham khảo kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài nƣớc có liên quan; các
báo cáo sơ kết, tổng kết các mặt công tác của Quân chủng Hải quân; của Tỉnh
ủy, UBND tỉnh Khánh Hòa; của UBND huyện đảo Trƣờng Sa và số liệu khảo
sát thực tiễn của tác giả tại một số đảo thuộc huyện đảo Trƣờng Sa để giải
quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra.

Kết cấu công trình gồm: mở đầu, 3 chƣơng (6 tiết), kết luận, danh mục
các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo
và phần phụ lục. Với dung lƣợng 150 trang nội dung, tác giả tập trung nghiên
cứu, luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa; phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng
Sa; đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng
Sa hiện nay. Đây là công trình nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với bất cứ
công trình nghiên cứu khoa học nào đã công bố.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có diện tích bề mặt biển khoảng
3.448.000 km2; 3260 km bờ biển; nhiều hải cảng lớn; hơn 3000 hòn đảo lớn,
nhỏ và gần một triệu km2 thềm lục địa. Vùng biển Việt Nam không chỉ có


6
tiềm năng kinh tế lớn, mà còn giữ vị trí chiến lƣợc về kinh tế, chính trị và
quốc phòng – an ninh của đất nƣớc.
Bƣớc sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh nguồn tài nguyên trên lục địa ngày
càng cạn kiệt, cùng với sự gia tăng dân số và sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ làm cho tất cả các nƣớc có biển cũng nhƣ không có biển đều
nhất loạt hiện thực hóa kế hoạch vƣơn ra biển nhằm tìm kiếm, tranh giành nguồn
lợi to lớn từ biển. Vì vậy, vấn đề tranh chấp chủ quyền quốc gia trên các vùng
biển trở thành vấn đề chính trị hết sức nhạy cảm và phức tạp trên thế giới.
Biển Đông nói chung, khu vực Trƣờng Sa nói riêng, có vị trí chiến lƣợc
trong sự phát triển kinh tế và quốc phòng – an ninh của khu vực và thế giới,
đƣợc nhiều nƣớc đặc biệt quan tâm. Các nƣớc ven biển trong khu vực, vì có
quyền lợi trực tiếp ở đây nên luôn tăng cƣờng tranh chấp chủ quyền, làm cho
vấn đề chủ quyền quốc gia ở Biển Đông nói chung, trên các đảo của Trƣờng
Sa nói riêng trở thành “điểm nóng”, tạo ra những mâu thuẫn, dẫn đến những
xung đột giữa các nƣớc trong khu vực. Mặt khác, một số nƣớc có tiềm lực

khoa học công nghệ và quân sự trên thế giới, vì những mục tiêu kinh tế, chính
trị khác nhau, đã luôn tìm cách can thiệp, gây áp lực cho các nƣớc trong khu
vực, làm cho vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông ngày
càng phức tạp và vƣợt ra khỏi phạm vi khu vực. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Việt Nam không chỉ là nhiệm vụ thƣờng xuyên mà còn là vấn
đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa chiến lƣợc, quyết định đến sự phát triển ổn
định, bền vững của đất nƣớc. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân, của cả HTCT dƣới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó, lực lƣợng tại
chỗ là trực tiếp và nòng cốt.
Huyện đảo Trƣờng Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa, nằm giữa Biển Đông, án
ngữ đƣờng hàng hải, hàng không quan trọng của khu vực và thế giới; đồng
thời, là một vùng biển giàu tài nguyên, chƣa đƣợc khai thác. Vì vậy, các đảo


7
thuộc huyện đảo Trƣờng Sa đang là tâm điểm cho những tranh chấp chủ
quyền giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực, là vấn đề nhạy cảm
về an ninh - chính trị của cả khu vực và thế giới. Xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa vững mạnh, thể hiện sự quản lý thống nhất về mặt nhà nƣớc của
Việt Nam đối với vùng biển này, là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng khẳng
định chủ quyền biển, đảo Việt Nam ở Trƣờng Sa; đồng thời, là điều kiện tiên
quyết cho chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng – an
ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền Trƣờng Sa, góp phần bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của huyện đảo Trƣờng Sa nói chung, HTCT
huyện đảo Trƣờng Sa nói riêng, những năm gần đây, Đảng, Nhà nƣớc ta đã
có những chủ trƣơng, chính sách nhằm củng cố, xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Để thực hiện mục
tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu đƣa nƣớc ta trở thành quốc gia mạnh về biển,
làm giàu từ biển, đảm bảo vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia

trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, làm cho đất nƣớc giàu mạnh” [46, tr.76], Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chủ trƣơng: “Thực hiện dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chƣc dân cƣ, tổ
chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích
mạnh mẽ nhân dân ra định cƣ ổn định trên đảo và làm ăn dài ngày trên biển.
Thí điểm xây dựng các khu quốc phòng – kinh tế tại các đảo, quần đảo
Trƣờng Sa, vùng biển, đảo ở Đông Bắc …” [46, tr.85]. Chủ trƣơng của Đảng
là cơ sở để tỉnh Khánh Hòa kết hợp với các bộ, ngành Trung ƣơng tiến hành
các nội dung, biện pháp xây dựng HTCT, đẩy mạnh tiến trình dân sự hóa
huyện đảo Trƣờng Sa. Trên thực tiễn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của
HTCT huyện đảo Trƣờng Sa không ngừng đƣợc củng cố; chất lƣợng đội ngũ
cán bộ công chức huyện đảo Trƣờng Sa không ngừng đƣợc nâng cao; cơ sở
kinh tế, văn hoá, xã hội ở huyện đảo từng bƣớc đƣợc xây dựng, phát triển và


8
phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, do sự chia cắt về địa lý; sự khắc nghiệt về môi
trƣờng hoạt động; sự thiếu hụt về tổ chức, chồng chéo về cơ chế quản lý;
những hạn chế về năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ công chức
và những diễn biến phức tạp trên khu vực Biển Đông, làm cho hoạt động của
HTCT huyện đảo Trƣờng Sa còn những biểu hiện hạn chế, chƣa hiệu quả,
chƣa ngang tầm với vị thế của một huyện đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Vì vậy,
xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng Sa vững mạnh, với cơ cấu hợp lý, cơ chế
hoạt động hiệu quả, có khả năng độc lập xử lý linh hoạt các mối quan hệ phức
tạp trên biển là nhiệm vụ cấp bách, đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập chủ quyền
biển, đảo và chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của nƣớc ta hiện nay.
Vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới đã và đang đƣợc Đảng, Nhà nƣớc hết sức quan tâm;
đƣợc nhiều học giả nghiên cứu dƣới những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy
nhiên, vấn đề xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng Sa, một huyện đảo tiền tiêu

của Tổ quốc, với nhiều tính đặc thù nhƣ hiện nay, chƣa có một công trình
khoa học nào đề cập đến với tƣ cách là một đề tài độc lập, hoàn chỉnh.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất yêu cầu, giải pháp xây
dựng HTCT phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của huyện đảo Trƣờng Sa nhằm
nâng cao năng lực quản lý Nhà nƣớc, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa hiện nay.


9
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động xây dựng HTCT huyện
đảo Trƣờng Sa từ khi đƣợc thành lập đến nay. Phạm vi khảo sát thực tế tại
huyện đảo Trƣờng Sa, tập trung tại UBND huyện Trƣờng Sa, thị trấn Trƣờng
Sa, hai xã Sinh Tồn và Song Tử Tây. Số liệu khảo sát chủ yếu từ năm 2007
đến 2013, phƣơng hƣớng, giải pháp xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng Sa
đến năm 2020.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Đóng góp mới của luận án
- Luận giải tính đặc thù và vai trò của HTCT huyện đảo Trƣờng Sa
- Làm rõ quan niệm, đặc điểm xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng Sa
hiện nay.
- Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng HTCT huyện đảo

Trƣờng Sa hiện nay.
5.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm cơ sở khoa học cho các
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các chủ thể trong xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các
môn công tác đảng, công tác chính trị, môn chủ nghĩa xã hội khoa học, môn
Nhà nƣớc và Pháp luật ở các học viện, nhà trƣờng trong Quân đội.


10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống chính trị trên
thế giới và ở Việt Nam
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị trên thế giới
Hệ thống chính trị có vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi
quốc gia. Hoạt động của hệ thống chính trị vừa phản ánh tƣ tƣởng của giai
cấp cầm quyền, vừa phản ánh bản chất của chế độ xã hội, đồng thời cũng
phản ánh trình độ phát triển xã hội ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch
sử. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị trên
thế giới, với những tên gọi khác nhau, góc độ tiếp cận từ tổng thể đến từng
yếu tố cấu thành của hệ thống chính trị. Tiêu biểu là:
Công trình “Một số lý thuyết và kinh nghiệm tổ chức nhà nước trên thế
giới ” của TS Thang Văn Phúc và PGS TS Nguyễn Đăng Thành [112] đã
phản ánh khá đầy đủ lý luận và thực tiễn về các mô hình nhà nƣớc, cách thức
tổ chức hệ thống thiết chế chính trị trong các mô hình nhà nƣớc trên thế giới
trong lịch sử. Trong công trình này này, các tác giả đã khái quát về nguồn gốc
và quyền lực của nhà nƣớc trong lịch sử phƣơng Đông cổ đại; thời kỳ tiền tƣ

bản ở phƣơng Tây; mô hình nhà nƣớc tƣ sản hiện đại; những quan điểm cơ
bản của học thuyết Mác-Lênin về nhà nƣớc; mô hình nhà nƣớc Liên Bang Xô
- Viết và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa v.v.. Khi phân tích hình thức tổ chức
nhà nƣớc tƣ sản hiện đại, các tác giả đã khẳng định: dân chủ đa nguyên là nền
tảng lý luận, thống nhất và chia tách xã hội là những cơ sở thực tiễn – lịch sử,
đa số và đồng thuận là hai phƣơng thức căn bản trong tổ chức và vận hành
nhà nƣớc tƣ sản hiện đại. Các tác giả cũng đƣa ra những nhận xét về mô hình
tổ chức nhà nƣớc tƣ sản hiện đại và khẳng định: “các mô hình tổ chức nhà


11
nƣớc tƣ sản (mô hình đa số, đồng thuận hay hình thái trung gian) đều chứa
đựng trong nó bản chất chính trị, gắn liền với hệ giá trị tƣ sản” [112, tr.236].
Khi nêu lên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về tổ chức
nhà nƣớc, so sánh với các mô hình nhà nƣớc tƣ sản hiện đại, các tác giả đã
nhấn mạnh: “việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc xã hội chủ
nghĩa luôn đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực. Tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân lao động, các cơ quan nhà nƣớc trực tiếp do dân bầu ra, và đến
lƣợt nó, nhà nƣớc hƣớng mọi hoạt động vào việc chăm lo đời sống cho nhân
dân lao động. Đây là điểm khác biệt với tổ chức bộ máy nhà nƣớc theo
nguyên tắc phân chia quyền lực của nhà nƣớc tƣ sản” [112, tr.250].
Công trình “Thể chế chính trị thế giới đương đại” của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [64] là công trình nghiên cứu của tập thể
các tác giả, phản ánh lịch sử hình thành và phát triển cũng nhƣ đặc trƣng
cơ bản của một số thể chế chính trị tiêu biểu trên thế giới. Trên cơ sở đƣa
ra quan niệm về thể chế chính trị, các tác giả khẳng định, thể chế chính trị
bao gồm thể chế nhà nƣớc, thể chế đảng chính trị và thể chế các tổ chức
chính trị - xã hội. Nhƣ vậy, quan niệm về thể chế chính trị có những điểm
tƣơng đồng với quan niệm hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Các tác
giả của công trình này đã khẳng định, hiện nay trên thế giới có khoảng 200

quốc gia và vùng lãnh thổ có chế độ chính trị khác nhau nhƣng đều thiết
lập trên đó những thể chế chính trị hoặc quân chủ hoặc cộng hòa. Việc
phân chia các hình thức thể chế chính trị đƣợc căn cứ vào lực lƣợng giữ vị
trí đứng đầu của các quốc gia. Lực lƣợng này có thể là cá nhân hoặc tập
thể, với quyền lực tuyệt đối hay hạn chế đối với các hoạt động của xã hội.
Trong mỗi hình thức thể chế chính trị lại có những mô hình khác nhau nhƣ:
trong hình thức thể chế quân chủ gồm có quân chủ chuyên chế và quân chủ
lập hiến; trong hình thức thể chế cộng hòa lại có mô hình cộng hòa tổng


12
thống, cộng hòa đại nghi, cộng hòa lƣỡng tính và cộng hòa xô viết. Các tác
giả đã phân tích, làm rõ những đặc trƣng cơ bản của các hình thức và mô
hình thể chế chính trị cơ bản trên thế giới và làm rõ những đặc điểm cơ bản
của một số thể chế chính trị tiêu biểu trên thế giới nhƣ: thể chế quân chủ
lập hiến ở Anh, thể chế cộng hòa tổng thống ở Mỹ, thể chế cộng hòa lƣỡng
tính ở Pháp hay thể chế cộng hòa Liên bang Xô Viết trƣớc đây v.v..
Công trình “Thể chế chính trị các nước Châu Âu” của các tác giả:
Thái Vĩnh Thắng, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Chu Dƣơng [130] đã khái
quát thể chế chính trị của 45 nƣớc Châu Âu. Về thể chế chính trị các nƣớc
Châu Âu, các tác giả đã chia thành 5 nhóm mô hình thể chế chính trị gắn với
một số nƣớc đại diện nhƣ: Mô hình quân chủ ở Anh, mô hình cộng hòa ở
Pháp, mô hình cộng hòa đại nghị ở Italia, mô hình cộng hòa tổng thống ở
Shíp và mô hình cộng hòa hỗn hợp ở Ba Lan, Phần Lan, Rumani v.v.. Trong
mỗi mô hình thể chế chính trị nêu trên, các tác giả đã làm rõ những đặc trƣng
cơ bản của các thể chế chính trị đó nhƣ: hình thức tổ chức nhà nƣớc, các
nguyên thủ quốc gia, tổ chức nghị viện, hệ thống tƣ pháp, chính quyền địa
phƣơng, các đảng chính trị và các nhóm quan hệ lợi ích giữa các quốc gia
Châu Âu. Đây là những mô hình thể chế chính trị tiêu biểu ở Châu Âu, đồng
thời cũng là mô hình điển hình đang đƣợc vận dụng xây dựng cho thể chế

chính trị ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay.
Công trình “Thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước các nước
ASEAN” là một đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo [17] đã
khái quát toàn bộ thể chế chính trị của 9 nƣớc ASEAN (trừ Việt Nam). Đề tài
đã chỉ ra 4 đặc điểm cơ bản của thể chế chính trị các nƣớc ASEAN đó là: một
là, quá trình hình thành và phát triển của thể chế chính trị các nƣớc ASEAN
(trừ Thái Lan) gắn liền với quá trình đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc.
Đến nay, có 8/10 nƣớc xây dựng thể chế chính trị theo mô hình TBCN (trừ


13
Việt Nam và Lào). Trong ðó, có 4 nƣớc theo hình thức quân chủ lập hiến là:
Brunây, Campuchia, Malaixia, Thái Lan; 02 nƣớc theo thể chế chính trị cộng
hòa tổng thống là: Philippin và Inđônêxia; 01 nƣớc theo thể chế chính trị cộng
hòa đại nghị là Singapo; riêng Myanma theo hiến pháp năm 1947 là thể chế
chính trị cộng hòa dân chủ đại nghị, nhƣng sau cuộc đảo chính những năm
1962 – 1974 và năm 1988, đến nay thể chế chính trị của Myanma vẫn là chế
độ quân quản. Nƣớc Lào, sau khi giành độc lập đã phát triển theo con đƣờng
XHCN theo mô hình thể chế chính trị cộng hòa dân chủ nhân dân. Hai là, thể
chế chính trị của các nƣớc ASEAN đi theo con đƣờng TBCN đƣợc mô phỏng
theo mô hình các nƣớc phƣơng Tây nhƣng không có sự tƣơng đồng về lịch sử
và điều kiện kinh tế - xã hội cho nên không thể tạo đƣợc nền tảng cho việc
thực thi nền dân chủ tƣ sản nhƣ ở phƣơng Tây. Ba là, dân sự hóa và dân chủ
hóa đang trở thành xu hƣớng phát triển của các nƣớc ASEAN theo con đƣờng
TBCN hiện nay. Bốn là, dù tồn tại rất nhiều đảng phái chính trị, tuy nhiên ở
tất cả các nƣớc ASEAN theo TBCN chỉ có một đảng hoặc liên minh một số
đảng nhất định giữ vị trí cầm quyền trong những thời gian dài. Từ thực trạng
thể chế chính trị các nƣớc ASEAN, đề tài khẳng định, việc xác định mô hình
xây dựng thể chế chính trị của các quốc gia cần phải căn cứ vào điều kiện lịch
sử và những đặc điểm kinh tế - xã hội của từng quốc gia, tránh hiện tƣợng rập

khuôn máy móc và sự áp đặt của các thế lực bên ngoài.
Công trình “Thể chế đảng cầm quyền – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” của tác giả Đặng Đình Tân [127] đã phân tích các mô hình tổ
chức bộ máy chính quyền trong lịch sử; phân tích rất rõ bản chất của chủ
nghĩa đa nguyên chính trị và khẳng định, dù về mặt hình thức, thể chế đa
nguyên là sự tồn tại hợp pháp của nhiều đảng tham gia vào quá trình lãnh
đạo xã hội, nhƣng về thực chất, mọi chủ trƣơng phát triển xã hội đều do
một đảng quyết định. Vì vậy, vấn đề nhất nguyên hay đa nguyên không


14
phải là yếu tố để đem ra định lƣợng cho một chế độ dân chủ. Khi phân
tích về nguyên tắc và quá trình lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, tác giả đã
khẳng định, đƣờng lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nguyên nhân cho
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng nêu
ra một số yêu cầu đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới và nâng cao chất
lƣợng hoạt động của HTCT ở Việt Nam gắn liền với sự nghiệp đổi mới do
Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn
đề này đó là:
Công trình “Thể chế chính trị Việt Nam lịch sử hình thành và phát
triển” của PGS TS Lƣu Văn An [2] đã nêu lên quan niệm về thể chế chính trị
và vai trò của nó đối với đời sống chính trị - xã hội ở nƣớc ta. Tác giả đã
khẳng định, thể chế chính trị Việt Nam hiện nay là kết quả của hơn 60 năm
đấu tranh, xây dựng của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta. Ra đời sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trải qua những giai đoạn kháng chiến chống đế
quốc, thực dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể chế chính trị ở nƣớc ta

không ngừng đƣợc đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Khi nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thể chế chính trị Việt
Nam, tác giả đã chia thành các giai đoạn: giai đoạn 1945 - 1954; 1954 – 1975;
1975 – 1992 và từ 1992 đến nay. Trong mỗi giai đoạn, tác giả đã trình bày
khá chi tiết về hoàn cảnh lịch sử; vị trí, vai trò của Đảng, Nhà nƣớc và các tổ
chức chính trị - xã hội và đánh giá về thể chế chính trị đối với sự phát triển
của đất nƣớc. Tác giả khẳng định, việc nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình hình
thành của thể chế chính trị Việt Nam, khẳng định các giá trị để kế thừa phát


15
huy, chỉ ra những hạn chế để khắc phục, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn
có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Công trình “Xây dựng hệ thống chính trị theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” là công trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả [107]. Với 40
bài viết của các nhà khoa học, công trình này đã làm rõ những mảng lý
luận cơ bản về HTCT, sự cần thiết và định hƣớng xây dựng các yếu tố cấu
thành HTCT ở nƣớc ta; chỉ rõ bản chất, đặc trƣng và mục tiêu hoạt động
của HTCT; nêu lên những vấn đề có tính nguyên tắc trong đổi mới và nâng
cao hiệu quả hoạt động của cả HTCT nói chung cũng nhƣ từng thành tố
cấu thành HTCT ở nƣớc ta nói riêng. Trên cơ sở đó, các tác giả đã chỉ ra
yêu cầu và giải pháp cơ bản để củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với quần chúng nhân dân; những vấn đề cấp bách trong củng cố tƣ tƣởng,
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực hoạt động của
đội ngũ cán bộ công chức và những yêu cầu phát huy vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Công trình “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam” do GS, TS Lê Hữu
Nghĩa, GS, TS Hoàng Chí Bảo và PGS, TS Bùi Đình Bôn đồng chủ biên
[104] đã phân tích những điểm trọng yếu cần nắm vững, những nguyên tắc

hàng đầu và những nội dung cốt lõi của việc đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà
nƣớc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nƣớc ta hiện nay. Các tác giả đã chỉ ra
những nhân tố tác động đến quá trình đổi mới, tăng cƣờng mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nƣớc và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời chỉ rõ những ƣu
điểm, hạn chế và nguyên trong các giai đoạn; đúc rút thành các bài học kinh
nghiệm và đƣa ra kiến giải nhằm đổi mới những mối quan hệ này trên tinh
thần giữ vững, tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của Nhà nƣớc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm quyền làm


16
chủ của nhân dân trong việc thực hiện đƣờng lối phát triển đất nƣớc. Các tác
giả khẳng định, công cuộc đổi mới đòi hỏi phải xác định rõ vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và phƣơng thức vận hành của từng tổ chức trong HTCT; phải gắn
liền đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng gắn
với quá trình cải cách, hoàn thiện bộ máy Nhà nƣớc, kiện toàn, củng cố các tổ
chức chính trị - xã hội. Các tác giả nhấn mạnh, đổi mới quan hệ giữa Đảng,
Nhà nƣớc và các tổ chức chính trị - xã hội phải đồng thời là sự nghiệp tự đổi
mới của hệ thống trong thƣợng tầng kiến trúc, dƣới sự lãnh đạo của Đảng,
đƣợc toàn dân tham gia đóng góp.
Công trình “Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam (19862011)” của TS Phạm Ngọc Trâm [149] là công trình nghiên cứu toàn diện
về quá trình hình thành, phát triển của HTCT ở Việt Nam. Trong công
trình này, TS Phạm Ngọc Trâm đã khái quát quá trình xây dựng và phát
triển của HTCT ở Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến 1986 và phân tích
những nhân tố tác động; quá trình đổi mới, nâng cao chất lƣợng lãnh đạo
của Đảng; xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
tăng cƣờng vai trò của mặt trận, các đoàn thể, phát huy dân chủ, mở rộng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc giai đoạn từ 1986 đến 2011.
Công trình “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay” của Viện Chính trị học – Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, do TS Nguyễn Hữu Đổng chủ biên [57]

đã khái quát những vấn đề cơ bản của HTCT ở Việt Nam; làm rõ chức năng,
vai trò của ĐCSVN và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT; thực trạng
hoạt động và những vấn đề đặt ra trong tổ chức và hoạt động của Đảng, các tổ
chức chính trị - xã hội trong HTCT Việt Nam hiện nay.
Công trình “Xây dựng chỉnh đốn Đảng một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” của GS TS Nguyễn Phú Trọng [150] là công trình nghiên cứu tổng thể


17
về công tác xây dựng Đảng ở nƣớc ta. Trong công trình này, tác giả đã trình
bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản về Đảng và công tác xây dựng
Đảng ở Việt Nam; chỉ rõ vai trò của ĐCSVN trong công cuộc đổi mới đất
nƣớc; yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay; biện pháp
xây dựng Đảng về chính trị, trƣ tƣởng, tổ chức; rèn luyện đạo đức, lối sống
cho đội ngũ cán bộ đảng viên v.v.. Những vấn đề tác giả chỉ ra từ năm 2005,
nay đã đƣợc ĐCSVN cụ thể hóa trong Nghị quyết Trung ƣơng IV khóa X
“Những vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”.
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến xây dựng hệ thống
chính trị cấp huyện ở Việt Nam
Huyện là đơn vị hành chính cơ bản trong hệ thống hành chính lãnh thổ
ở nƣớc ta. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT cấp huyện là
một nội dung quan trọng trong sự nghiệp đổi mới HTCT ở Việt Nam. Vì vậy,
đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Tiêu biểu là:
Công trình “Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
cấp huyện một số tỉnh miền núi phía Bắc trong điều kiện hiện nay” do TS
Lê Văn Phụng làm chủ nhiệm đề tài [114] đã đƣa ra quan niệm về phƣơng
thức hoạt động của HTCT cấp huyện ở một số tỉnh miền núi phía Bắc của
Việt Nam. Thông qua khảo sát thực tiễn, các tác giả đã khái quát những
đặc điểm của các mô hình tổ chức HTCT cấp huyện trong 14 tỉnh phía Bắc;
nêu lên những nhân tố tác động đến mô hình tổ chức HTCT cấp huyện,

trong đó nhấn mạnh sự tác động của điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế
- xã hội của các huyện; đƣa ra quan điểm, phƣơng hƣớng và những giải
pháp cơ bản đổi mới phƣơng thức hoạt động của HTCT cấp huyện ở một số
tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay.
Công trình “Đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Nghệ An” của
Trần Khánh Sơn [126] đã nghiên cứu HTCT cấp huyện của một tỉnh cụ thể ở


18
miền Trung Việt Nam; khẳng định vai trò to lớn của HTCT cấp huyện đối với
quá trình phát triển của địa phƣơng; nêu lên sự cần thiết, quan điểm và đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới tổ chức và hoạt đông của HTCT
cấp huyện ở Nghệ An. Trong đó, tác giả quan niệm, đổi mới HTCT cấp huyện
không phải là một công việc riêng lẻ, biệt lập, mà gắn bó và tùy thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, kết cấu xã hội, dân trí và lợi ích của ngƣời dân trên
địa bàn. Tác giả khẳng định: “Đổi mới nội dung và phƣơng thức lãnh đạo của
cấp ủy đảng đối với chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội là nhân tố
quyết định đổi mới HTCT cấp huyện ở tỉnh Nghệ An” [126, tr.88].
Công trình “Cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế cấp
quận/huyện tại thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Công Lý [83] đã tập trung
nghiên cứu về khái niệm quản lý hành chính và cải cách hành chính; phân
tích yêu cầu khách quan phải đẩy mạnh cải cách hành chính; nêu lên quan
điểm chỉ đạo, mục tiêu và nội dung cải cách hành chính trong quản lý nhà
nƣớc về kinh tế cấp quận/huyện ở thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng
định: “Cải cách hành chính là trọng tâm của sự nghiệp xây dựng và kiện toàn
Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm những thay đổi có
chủ định nhằm hoàn thiện thể chế của nền hành chính, cơ cấu tổ chức và cơ
chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp; đội ngũ công chức hành chính
và quản lý tài chính công để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền
hành chính công phục vụ nhân dân” [83, tr.4].

Các công trình “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” của Tăng
Nghĩa [103] và “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính
trị cấp huyện ở tỉnh ĐăK LắK trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn
Thành Dũng [32] đã nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cho
các tổ chức thuộc HTCT cấp huyện ở những địa phƣơng cụ thể của Việt


19
Nam. Mặc dù phạm vi nghiên cứu khác nhau, nhƣng cả hai công trình đều
đề cập đến vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp huyện đối với quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động của
HTCT ở địa phƣơng. Các tác giả đã khẳng định: Trong bất kỳ thời kỳ nào
của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vị trí đặc biệt
quan trọng, là nhân tố cơ bản, quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của đảng, đảm bảo cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Trên
cơ sở làm rõ vị trí, vai trò và thực trạng chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của
đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cấp huyện, các tác giả đã nêu lên phƣơng
hƣớng, yêu cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện ở địa
phƣơng, trong đó quan tâm đến các hoạt động quy hoạch, giáo dục, bồi
dƣỡng, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ. Đó cũng là những nội dung
cơ bản trong công tác cán bộ ở nƣớc ta hiện nay.
Công trình “Toàn cảnh biển đảo Việt Nam” của nhiều tác giả [109]
đã đƣa ra những tƣ liệu quan trọng về các huyện đảo trong cả nƣớc. Khi
khái quát về đảo và quần đảo của Việt Nam, các tác giả đã khẳng định:
“Đảo và quần đảo ở nƣớc ta có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc; có vai trò lớn lao trong công cuộc bảo
vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” [109, tr.11]. Các tác giả
đã khái quát lịch sử quá trình xây dựng và phát triển huyện đảo tiêu biểu
ở Việt Nam nhƣ: quá trình hình thành bộ máy hành chính và đƣa dân ra

sinh sống trên huyện đảo Bạch Long Vĩ; quá trình xây dựng, đặc trƣng
văn hóa của huyện đảo Phú Quý; về tiềm năng phát triển kinh tế ở các
huyện đảo Phú Quốc, Cù Lao Chàm, Lý Sơn v.v.. Đây là kinh nghiệm
quan trọng để tác giả luận án có thể kế thừa để đề xuất những giải pháp
nhằm xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay.
Công trình “Chiến lược biển Việt Nam từ quan điểm đến thực tiễn” của
Ban Tuyên giáo Trung ƣơng, do PGS TS Phạm Văn Linh làm chủ biên [13],


20
là công trình nghiên cứu về tiềm năng biển, đảo, thực tiễn phát triển kinh tế
biển và bảo vệ CQBĐ Việt Nam. Trong công trình này, có nhiều nội dung
phản ánh quá trình lãnh đạo, quản lý hoạt động thực tiễn của các huyện đảo
và sự lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ, cơ quan chức năng cấp tỉnh đối với hoạt
động của một số huyện đảo cụ thể của nƣớc ta nhƣ: huyện đảo Cô Tô, Vân
Đồn của tỉnh Quảng Ninh; huyện đảo Bạch Long Vĩ, Cát Hải thuộc thành phố
Hải Phòng; huyện đảo Phú Quý của tỉnh Bình Thuận v.v.. Kinh nghiệm của
các tỉnh có các huyện đảo, đặc biệt là kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh trong
tiến hành công tác tuyên truyền, quy hoạch tổng thể đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ
tầng và phát huy vai trò của HTCT trong xây dựng và phát triển các huyện
đảo của Tỉnh là những dữ liệu tham khảo quan trọng cho tác giả luận án có
thể kế thừa trong xây dựng hệ thống chính trị huyện đảo Trƣờng Sa hiện nay.
Công trình “Một số vấn đề trong chiến lược biển Việt Nam” là tập hợp
các bài viết của nhiều tác giả [108]. Trong đó có rất nhiều bài viết về kế
hoạch, lộ trình phát triển của các huyện đảo ở Việt Nam nhƣ: “Phát triển kinh
tế biển, đảo gắn với quốc phòng an ninh” của Vũ Văn Phúc [108, tr.44-54];
“Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng biển đảo Cô Tô - Cơ sở cho
hƣớng đi lên giàu mạnh” của Thanh Quân [108, tr.118-121]; “Vân Đồn đánh
thức tiềm năng kinh tế biển” của Quang Minh [108, tr.132-134]; “Kinh tế
biển – Ngành kinh tế mũi nhọn của huyện đảo Lý Sơn” của Nguyễn Đăng

Lâm [108, tr.171-173] v.v.. Đây là những bài viết phản ánh quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo của các tổ chức trong HTCT cấp tỉnh, huyện về xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội và phát huy tiềm năng, lợi thế của kinh tế biển ở các
địa phƣơng. Tuy không trực tiếp bàn về xây dựng HTCT của các huyện đảo,
nhƣng những công trình nghiên trên đã phản ánh hoạt động của các tổ chức
thuộc HTCT các huyện đảo trong trong quá trình lãnh đạo, quản lý mọi lĩnh
vực hoạt động, đặc biệt là các hoạt động phát triển kinh tế, quản lý xã hội và
quốc phòng – an ninh ở các huyện đảo.


21
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến xây dựng hệ thống
chính trị huyện đảo Trường Sa
Xây dựng HTCT huyện đảo Trƣờng Sa là một đề tài mới, chƣa có một
công trình khoa học nào đề cập đến với tƣ cách là một chỉnh thể toàn diện và
hệ thống. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa nhƣ: cơ sở pháp lý và lịch sử về chủ quyền Trƣờng Sa của Việt
Nam; đặc điểm, vai trò của huyện đảo Trƣờng Sa trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; những nhân tố tác động đến quá trình xây dựng HTCT huyện đảo
Trƣờng Sa; yêu cầu củng cố thế trận quốc phòng – an ninh ở Trƣờng Sa và
quá trình phát triển các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ở Trƣờng Sa
v.v, đã đƣợc rất nhiều công trình khoa học đề cấp tới. Cụ thể là:
Công trình “Chiến lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
trên các vùng biển, đảo Việt Nam đến năm 2020” là đề tài nghiên cứu khoa
học cấp nhà nƣớc do Viện Chiến lƣợc phát triển thực hiện [156] đã tập trung
làm rõ điều kiện địa – chính trị của Biển Đông và các hải đảo của Việt Nam;
thực trạng CQBĐ Việt Nam; đánh giá vai trò của các điều ƣớc quốc tế về biển
và kết quả thực hiện các điều ƣớc đó vào việc bảo vệ CQBĐ Việt Nam v.v..
Đặc biệt, công trình này đã phân tích, so sánh giữa mô hình tổ chức quản lý
biển của các nƣớc trên thế giới với mô hình quản lý biển của Việt Nam; nêu

lên một số kinh nghiệm quốc tế trong chính sách bảo về CQBĐ và quyền tài
phán quốc gia trên biển của một số nƣớc nhƣ: Trung Quốc, Nhật Bản,
Philippine, Canada, Hoa Kỳ v.v.. Trên cơ sở đó, đề tài đánh giá thực trạng và
đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
biển; xây dựng lực lƣợng bảo vệ biển và phát huy vai trò của các tổ chức, các
lực lƣợng xã hội trong bảo vệ CQBĐ Việt Nam hiện nay.
Công trình “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa” của Nguyễn Nhã [106] đã nghiên cứu toàn diện về


22
quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng
Sa. Qua quá trình khảo sát, phân tích những chứng cứ lịch sử và những quy
định trong Công ƣớc quốc tế về luật biển năm 1982, tác giả đã đƣa ra những
bằng chứng hùng hồn khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam
ở Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp
nhằm củng cố CQBĐ Việt Nam nói chung, chủ quyền Việt Nam trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa nói riêng. Tác giả đề xuất, trong những năm
trƣớc mắt, cần phải đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về CQBĐ Việt
Nam; bổ sung, hoàn thiện cơ sở pháp lý về CQBĐ Việt Nam phù hợp với luật
pháp và thông lệ quốc tế; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố
quốc phòng – an ninh trên biển; tích cực xây dựng lực lƣợng bảo vệ CQBĐ
và đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao đấu tranh bảo vệ CQBĐ của Tổ quốc.
Công trình “Hoàng Sa Trường Sa hỏi và đáp” của Trần Nam Tiến
[138] là tập hợp các câu hỏi và đáp về những vấn đề liên quan đến biển,
đảo Việt Nam. Bằng cách kết cấu của 72 câu hỏi và lời đáp, tác giả đã cung
cấp thông tin cơ bản, chuyên sâu về CQBĐ Việt Nam, đặc biệt là trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Trong đó, nhấn mạnh những yếu tố lịch
sử về quá trình xác lập chủ quyền Việt Nam ở Trƣờng Sa và Hoàng Sa; quá
trình quản lý Trƣờng Sa và Hoàng Sa của các triều đại phong kiến Việt

Nam; những tranh chấp chủ quyền ở Trƣờng Sa, Hoàng Sa những năm gần
đây và quan điểm của ĐCSVN trong giải quyết những mâu thuẫn chủ
quyền giữa các quốc gia trên quần đảo Trƣờng Sa và Hoàng Sa v.v.
Công trình “Giới thiệu về biển, đảo Việt Nam” của Hà Nguyễn [105] và
“Toàn cảnh biển, đảo Việt Nam” của nhiều tác giả [109] đã phản ánh những
nội dung quan trọng về huyện đảo Trƣờng Sa nhƣ: vị trí địa lý; điều kiện thổ
nhƣỡng, khí hậu, thủy văn, môi trƣờng sống; các nguồn lợi về sinh vật biển,
tài nguyên khoáng sản, tài nguyên du lịch; vai trò của huyện đảo Trƣờng Sa


23
trong khẳng định chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông, trong phát triển kinh
tế biển và bảo vệ CQBĐ của Tổ quốc v.v.
Các tham luận đăng trong “Kỷ yếu Hội thảo khoa học văn hóa biển,
đảo ở Khánh Hòa” [10] tập trung nghiên cứu thực trạng, tiềm năng kinh tế và
văn hóa ở vùng biển Khánh Hòa, trong đó có huyện đảo Trƣờng Sa. Phản ánh
nhu cầu quản lý và phát triển của huyện đảo Trƣờng Sa, các tác giả đã đề nghị
tỉnh Khánh Hòa phối hợp với các bộ, ngành Trung ƣơng đầu tƣ xây dựng các
cơ sở kinh tế, kỹ thật, văn hóa, xã hội nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh về
biển của huyện đảo Trƣờng Sa. Trên cơ sở phân tích những ƣu thế của ngành
khai thác và nuôi trồng thủy sản ở Trƣờng Sa, tác giả Nguyễn Thị Minh Tâm
đã khẳng định: “Để có thể phát huy thế mạnh của mình, huyện đảo Trƣờng Sa
cần có những chính sách phù hợp về cơ sở vật chất, nhân lực, kỹ thuật, … để
hai ngành kinh tế mũi nhọn này có điều kiện để phát triển, khắc phục những
khó khăn, yếu kém” [10, tr.449]. Nhằm phát huy tiềm năng du lịch ở Trƣờng
Sa, tác giả Phạm Trung Lƣơng cho rằng: “Trƣớc mắt, cần tập trung cải thiện
cơ sở hạ tầng du lịch trên đảo để có thể kết nối thuận lợi Trƣờng Sa với các
tuyến, điểm du lịch quốc gia” [10, tr.457]. Tác giả đã đề xuất một số chính
sách ƣu tiên thu hút đầu tƣ, xây dựng đội tàu vận chuyển khách; phát triển cơ
sở vật chất kỹ thuật du lịch và sản phẩm du lịch; xúc tiến quảng bá hình ảnh

Trƣờng Sa v.v.. Chăm lo đời sống tinh thần của quân và dân Trƣờng Sa, tác
giả Nguyễn Ngọc Sơn đã đề xuất với Đảng, Nhà nƣớc và các ngành liên quan
có chính sách để bảo đảm nguồn kinh phí cần thiết, ổn định và lâu dài để xây
mới, duy trì việc trùng tu, duy tu các đền, chùa và hệ thống thiết chế văn hóa
đáp ứng nhu cầu phát triển dân cƣ và nhu cầu văn hóa tâm linh của cán bộ,
chiến sỹ và nhân dân trên huyện đảo Trƣờng Sa [10, tr.467].
Các công trình khoa học nhƣ: “Biển Đông hợp tác vì an ninh và phát triển
trong khu vực” [122], “Biển Đông hướng tới một khu vực hòa bình, an ninh và


24
hợp tác” [123], “Tranh chấp Biển Đông: Luật pháp, địa chính trị và hợp tác quốc
tế” [124] là tập hợp các tham luận tiêu biểu của các tác giả trong nƣớc và nƣớc
ngoài tại các Hội thảo quốc tế về Biển Đông, đƣợc tác giả Đặng Đình Quý tuyển
chọn và biên tập, phản ánh bức tranh đầy đủ về tình hình Biển Đông nói chung,
những tranh chấp chủ quyền ở Trƣờng Sa nói riêng. Những tham luận của các học
giả nƣớc ngoài đã phản ánh quan điểm, lập trƣờng của các nƣớc trên thế giới đối
với những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, nhất là trên các đảo thuộc huyện
đảo Trƣờng Sa của Việt Nam. Trong bài “Tranh chấp Biển Đông sẽ đi tới đâu”
của TS Mark J.Valencia – chuyên gia phân tích chính sách biển Kaneohe, Hawaii,
Mỹ [122, tr.42-48] cho rằng, những diễn biến ở Biển Đông hiện nay cho thấy, tình
hình đã có nhiều biến chuyển nhƣng cũng dấy lên nhiều lo ngại. Vì vậy cần phải
xây dựng hệ thống cảnh báo xung đột hoặc chính thức hóa bộ ứng xử mang tính
pháp lý quốc tế nhằm ràng buộc các bên trong quá trình giải quyết các vấn đề liên
quan đến Biển Đông. Tƣ tƣởng này đã tỏ rõ thái độ của các nƣớc muốn can thiệp
vào tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Bài “Chặng đƣờng dài hƣớng
tới hòa bình và an ninh ở Biển Đông” của TS Loshin M.Grigory [122, tr.291-298]
đã tỏ rõ thái độ của Nga đối với Biển Đông. Tác giả cho rằng, nhân tố quan trọng
nhất của xung đột ở Biển Đông là vấn đề Trung Quốc và khẳng định, Nga luôn
quan tâm sâu sắc đến gìn giữ môi trƣờng quốc tế ổn định ở khu vực này nhằm

đảm bảo tự do hàng hải và lƣu thông trên biển. Bài “Tầm quan trọng của Biển
Đông - đánh giá từ Ấn Độ” của Vinod Saighan - Ấn Độ [123, tr.21-26] đã phân
tích khá chi tiết về sự thay đổi chiến lƣợc của Trung Quốc đối với tranh chấp ở
Biển Đông và khẳng định, cứ khi nào, một sự can thiệp lớn về địa - chính trị bởi
một cƣờng quốc thế giới diễn ra thì rất hiếm khi đƣợc trở lại nguyên trạng trƣớc
đó, điều tƣơng tự sẽ xảy ra khi Trung Quốc đã đạt đƣợc sức mạnh quân sự vƣợt
trên của tất cả các quốc gia khu vực Biển Đông gộp lại.
Các công trình: “Vai trò của Hải quân Nhân dân Việt Nam trong phát
triển kinh tế biển hiện nay” của Nguyễn Bá Nam [101]; “Phát triển kinh tế


×