Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật từ quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.88 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã và đang tồn tại nhiều chế độ sở hữu
khác nhau. Dựa trên các chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sở hữu của mỗi hệ thống pháp
luật cũng có những quy định khác nhau. Ngoài ra, sự khác nhau của hệ thống pháp luật về quyển sở
hữu còn do tác động bởi các yếu tố quan trọng như: Trình độ phát triển về kinh tế, văn hóa, phong tục
tập quán, tôn giáo, vị trí địa lý,… của từng nước. Bởi vậy, việc hình thành các quan hệ sở hữu có yếu
tố nước ngoài cũng thường làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Vấn đề đặt ra là khi
phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu thì pháp luật của các nước giải quyết như thế nào
NỘI DUNG
I. Lý luận chung
1. Khái niệm về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài
Quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế là quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, là tổng hợp các
quyền năng của các chủ thể được pháp luật thừa nhận trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản. Yếu tố nước ngoài trong quan hệ sở hữu được thể hiện ở những điểm sau:
- Chủ thể tham gia quan hệ sở hữu là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, nhà nước nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
- Khách thể của quan hệ sở hữu là tài sản tồn tại ở nước ngoài.
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh thay đổi chấm dứt quan hệ sở hữu xảy ra ngay ở nước ngoài.
2. Phương pháp Giải quyết các xung đột pháp luật
Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, theo kinh nghiệm và
thực tiễn tư pháp của nhiều nước cho thấy, được tiến hành trên cơ sở sự kết hợp hai phương pháp cơ
bản là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất.
a. Phương pháp xung đột: Phương pháp xung đột trong Tư pháp quốc tế là phương pháp được
hình thành khá sớm, được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống quy phạm xung đột của
quốc gia và hệ thống quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế. Điều này có nghĩa là cơ quan có
thẩm quyền giải quyết phải chọn pháp luật của nước này hay nước kia liên đới tới các yếu tố nước
ngoài để xác định quyền và ngĩa vụ giữa các bên đương sự. Công việc tiến hành lựa chọn hệ thống
pháp luật nước nào dựa trên những quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột về quan hệ sở hữu tài sản
là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố
nước ngoài trong một tình huống thực tế.
b. Phương pháp thực chất: Phương pháp thực chất được xây dựng dựa trên hệ thống các quy


phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có nghĩa là nó trực tiếp phân
định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia. Pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố
nước ngoài bằng quy phạm thực chất, tức là quy định người nước ngoài có quyền sở hữu những loại
tài sản gì, cho phép họ sử dụng quyền (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) đối với tài sản ra sao.
3. Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu ở các nước trên thế giới
a. Xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản:
Xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản là một tình thế (trạng thái) nhất định mà hai hay
nhiều hệ thống pháp luật đều có thể điều chỉnh quan hệ sở hữu về tài sản
b. Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản ở các nước
Mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều điểm khác biệt, nhưng pháp luật của đa số các nước hiện nay trên
thế giới đều thống nhất áp dụng một nguyên tắc chung nhằm giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu
đó là việc áp dụng pháp luật nơi có tài sản.
Luật nơi có tài sản không những quy định nội dung của quyền sở hữu mà còn ấn định cả điều
kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu. Nội dung này được quy định trong pháp luật
1
của nhiều nước. Theo khoản 1 Điều 24 Luật về Tư pháp quốc tế của Ba Lan thì “quyền sở hữu và các
quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi có tài sản”.
Pháp luật của nước nơi có tài sản giữ vai trò nhất định trong việc xác định quyền sở hữu đối
với tài sản đang trên đường vận chuyển – tài sản quá cảnh qua nhiều quốc gia. Việc xác định quyền sở
hữu đối với tài sản (hàng hóa) đang trên đường vận chuyển là vấn đề phức tạp đã và đang được tư
pháp quốc tế của các nước quan tâm giải quyết.
Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước nơi có tài sản đóng vai trò trọng yếu trong việc giải quyết
xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài. Hệ thuộc luật của nơi có tài sản cũng không được
áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu phát sinh trong một số lĩnh vực như:
- Các quan hệ sở hữu đối với đối tượng của sở hữu trí tuệ
- Các quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngoài khi pháp nhân đó bị giải thể
- Các quan hệ về tài sản liên quan đến tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài
- Các quan hệ tài sản liên quan đến các đối tượng của các đạo luật về quốc hữu hóa.
II. Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp
luật từ quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài

1.Bình luận Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về việc giải quyết xung đột pháp
luật từ quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài
Xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài Việt Nam cũng như các
nước trên thế giới đều sử dụng phương pháp xung đột và phương pháp thực chất dựa trên các quy
phạm xung đột và quy phạm thực chất
a. Quy phạm xung đột
Xét dưới khía cạnh về xung đột pháp luật thì điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài
có nhiều điểm khác, không giống như điều chỉnh quan hệ sở hữu không có yếu tố nước ngoài. Như đã
phân tích ở trên, đa số các nước hiện nay đều thống nhất áp dụng nguyên tắc chung để giải quyết
quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài (như là tài sản đó có là đối tượng của quyền sở hữu hay không,
xác định các quyền tài sản, xác định sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu,…) đó là việc áp
dụng pháp luật nơi có tài sản. Luật nơi có tài sản (Lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) hiện đang
tồn tại ở nước nào thì luật của nước đó áp dụng đối với tài sản đó.
Bộ luật dân sự Việt Nam cũng dựa trên nguyên tắc chung này để giải quyết xung đột về quan
hệ sở hữu tại sản, quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 766 BLDS Việt Nam năm 2005: “Việc xác lập,
chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của
nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này”.
Như vậy, không phụ thuộc vào đối tượng của quan hệ sở hữu là động sản hay bất động sản,
quyền sở hữu và các quyền tài sản khác sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh. Xét về mặt lý luận, Điều
766 BLDS 2005 điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài bằng phương pháp xung đột,
lấy hệ thuộc luật nơi có vật làm căn cứ phát sinh quyền sở hữu tài sản, cũng như nội dung quyền sở
hữu tài sản có yếu tố nước ngoài. Đương nhiên, trong trường hợp tài sản – đối tượng của quyền sở
hữu – có tại Việt Nam, thì việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó phải tuân theo pháp luật Việt
Nam, không phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch, nơi cư trú của chủ sở hữu.
Về vấn đề xung đột về định danh tài sản: Để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về quyền sở
hữu đối với tài sản trong đó có bất động sản, pháp luật của hầu hết các quốc gia đều ghi nhận nguyên
tắc áp dụng luật của nước nơi có tài sản. Tuy nhiên, vấn đề khác nảy sinh đó là nếu đối với cùng một
tài sản mà quốc gia này cho là động sản nhưng quốc gia khác lại quy định là bất động sản thì sẽ giải
quyết như thế nào? Hai khái niệm “động sản” và “bất động sản” không phải là đã được hiểu một
cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay của thế giới. Từ đây phát sinh quy phạm xung đột

pháp luật trong vấn đề định danh tài sản. Việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề
cho việc giải quyết xung đột về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Pháp luật của đa số các nước
2
trong đạo luật và các điều ước quốc tế thường ghi nhận luật nơi có tài sản là hệ thuộc để giải quyết
xung đột về định danh tài sản. Bộ luật dân sự Việt Nam cũng quy định : “Việc phân biệt tài sản là
động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tải sản”
Để bảo quyền lợi của người thủ đắc trung thực (người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình) trước yêu cầu đòi lại tài sản từ phía chủ sở hữu của chúng, pháp luật của các nước
thường áp dụng pháp luật của nước hiện đang có tài sản hoặc pháp luật của nước nơi có tài sản vào
thời điểm thụ đắc. Theo khoản 1 Điều 766 Bộ luật dân sự 2005 có thể áp dụng pháp luật của nước nơi
có tài sản tranh chấp để bảo hộ người thủ đắc trung thực. Tuy nhiên, có thể thấy ngay trong khoản 1
Điều 766 có quy định trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này. Đó chính là khoản 2 về quyền sở hữu
đối với động sản và khoản 4 về quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam.
- Theo quy định của Bộ luật dân sự thì quyền sở hữu “đối với động sản đang trên đường vận
chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi có động sản được chuyển đến, nếu không có thỏa
thuận khác”. Như vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các bên thỏa thuận lựa
chọn, chỉ khi không có sự thỏa thuận thì mới áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản được chuyển đến.
Có thể nói, việc lựa chọn hệ thuộc luật nơi có tài sản được chuyển đến là quy định khá đặc thù của Bộ
luật dân sự Việt Nam. Sở dĩ, có nhận xét như vậy là vì có nhiều nước trên thế giới sử dụng hệ thuộc
luật nơi có động sản được chuyển đi, hay còn gọi là luật nước người bán. Lý do để các nước lựa chọn
hệ thuộc luật nơi có động sản được chuyển đi là bởi vì hầu hết các nước này đều là những nước có
nền kinh tế cũng như việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài phát triển, khi quy định như thế, các
nước này đã tính đến lợi ích mà họ có thể có được trong quan hệ hợp đồng. Còn đối với Việt Nam,
tính cho đến thời điểm này và sẽ là một thời gian dài nữa trong tương lại vẫn là một nước có tỷ lệ
nhập khẩu cao hơn tỷ lệ xuất khẩu, vì thế nếu quy định lựa chọn luật nước người bán để áp dụng sẽ
gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước.
- Trong việc xác định đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam thì nguyên tắc luật nơi
có tài sản dường như cũng không được áp dụng mà phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng
và pháp luật về hàng hải của cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 1 Điều 4 Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 quy định: “ pháp luật quốc gia

đăng kí quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ xã hội phát sinh trong tàu bay và áp dụng để
xác định các quyền đối với tàu bay”
Điều 5 của Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: “Trong trường hợp có xung đột pháp luật, thì
việc lựa chọn luật để áp dụng được xác định theo các nguyên tắc sau đây:
1. Đối với các quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu, hợp đồng cho
thuê tiền, hợp đồng thuê thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành khách và hành lý, chia tiền công cứu
hộ giữa chủ tầu cứu hộ và thuyền bộ của tàu cứu hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở công hải, các vụ
việc xảy ra trên tàu khi tàu đang ở công hải, thì luật được chọn là luật quốc gia mà tàu mang cờ.”
Như vậy, đối với quan hệ sở hữu và quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không dân dụng và
hàng hải quốc tế hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản không áp dụng mà thay vào đó là hệ thuộc luật
quốc kì (lex banderae) hoặc luật nơi đăng kí (lex libri).
- Thực tiễn ở các nước cũng như ở Việt Nam cho thấy, khi xác định quyền sở hữu đối với các
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp), cũng không áp dụng
hệ thuộc luật nơi có vật là bởi lẽ, quyền sở hữu trí tuệ có tính đặc thù về mặt lãnh thổ. Tức là về
nguyên tắc, quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trên lãnh thổ quốc gia nào thì bảo hộ theo pháp luật của
quốc gia đó, không đương nhiên bảo hộ ở nước ngoài, nếu các quốc gia đó không kí kết các điều ước
quốc tế về vấn đề này. Điều 774 về quyền tác giả có yếu tố nước ngoài và Điều 775 quy định về
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng có yếu tố nước ngoài cũng theo hướng
này.
3
- Đối với quyền sở hữu tài sản của pháp nhân nước ngoài trong trường hợp bị giải thể không
áp dụng hệ thuộc luật nơi có vật bởi lẽ, trong trường hợp pháp nhân giải thể, thì quyền sở hữu của
pháp nhân vẫn được đảm bảo.
- Đối với tài sản thuộc đối tượng của đạo luật về quốc hữu hóa hoặc tư nhân hóa, theo thực
tiễn của nhiều nước cũng cho thấy, thường không áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản để xác định
quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bởi trong nhiều trường hợp những tài sản này nằm ở nước ngoài vào
thời điểm phát sinh hiệu lực của đạo luật quốc hữu hóa hoặc tư nhân hóa, cho nên tính “trị ngoại
lãnh thổ” của các đạo luật này được nước ngoài tôn trọng.
- Các quan hệ về tài sản liên quan đến tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài: So với các chủ
thể khác khi tham gia quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, thì nhà nước, với tính cách là một hệ

thống các cơ quan quyền lực thống nhất, có quy chế pháp lý đặc biệt, trước hết là quyền miễn trừ tư
pháp. Theo đó, không một cơ quan nào có thẩm quyền xét xử một nhà nước, nếu không được sự đồng
ý của quốc gia đó. Quyền miễn trừ tư pháp ở đây bao gồm cả quyền miễn trừ xét xử và quyền miễn
trừ thi hành án. Như vậy, suy rộng ra, thì quyền này còn bao gồm cả quyền miễn trừ đối với tài sản
của Nhà nước. Tài sản của Nhà nước không thể bị bắt giữ để đảm bảo cho việc xét xử hoặc là đối
tượng bị bắt giữ để thi hành bán án, quyết định của tòa án nước ngoài.
Có thể nói, trong Bộ luật dân sự 2005 hệ thuộc luật nơi có tài sản (lex rei sitae) là hệ thuộc chủ
yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Điều này hoàn toàn phù hợp với
thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, đây không phải là hệ thuộc luật duy nhất để giải quyết vấn đề này.
b) Quy phạm thực chất
Có thể nói, nếu chỉ để cập đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu dưới
khía cạnh quy phạm xung đột thì sẽ không đầy đủ, không toàn diện. Hiệu quả của cơ chế điều chỉnh
pháp luật, xét cho cùng, là ở tính khả thi của các quy phạm pháp luật, trong đó quy phạm thực chất
đóng vai trò quan trọng. Trên cơ sở đó, việc phân tích về cơ sở pháp lý và việc đảm bảo quyền sở hữu
tại Việt Nam đối với người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài là rất cần thiết.
* Hiến pháp 1992: Đây là cơ sở pháp lý cao nhất trong việc xác định quan hệ sở hữu có yếu tố
nước ngoài. Xét về mặt nguyên tắc, chế định quyền sở hữu luôn dành vị trí quan trọng hàng đầu trong
Hiến pháp Việt Nam 1992 và được đặt ở chương chế độ kinh tế. Tại điều 25 Hiến pháp 1992 có quy
định: “Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị
quốc hữu hóa” và Điều 81 Hiến pháp cũng quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền tài sản và các quyền
lợi chính đáng khác của người nước ngoài cư trú ở Việt Nam”. Có thể nói, 2 điều này quy định trực
tiếp về việc bảo hộ quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, hiểu rộng ra là quyền sở hữu đối với cả động
sản và bất động sản tại Việt Nam của người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc xây dựng, cụ thể hóa và thực thi các nguyên
tắc, quy phạm pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật dân sự và các văn bản
pháp luật khác của Việt Nam, cũng như các biện pháp bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực
tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
* Bộ luật dân sự 2005: là đạo luật quan trọng, cụ thể hóa quyền dân sự cơ bản nói chung và
quyền sở hữu nói riêng. Đối với quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, Bộ luật dân sự điều chỉnh một

cách trực tiếp cũng như gián tiếp thông qua các quy định sau đây:
Theo khoản 1 Điều 759 Bộ luật dân sự 2005 quy định : “Các quy định của pháp luật dân sự
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ
trường hợp Bộ luật này có quy định khác”
Trong quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài thì trừ những trường hợp mà Bộ luật này có quy
định khác thì các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam áp dụng đối với vấn đề này. Những quy
định khác của Bộ luật dân sự được quy định khá rõ tại Điều 2: “Trong trường hợp điều ước quốc tế
4
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Bộ luật này
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”. Điều đó có nghĩa là nếu những điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên có quy định khác về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài thì sẽ không
áp dụng quy định của Bộ luật mà ưu tiên áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Điều 766 Bộ luật dân sự 2005 có quy định: “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền
sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có
tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này”
Từ những quy định trên đây, có thể nói rằng quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài được Bộ
luật dân sự bảo vệ, tuy mới chỉ là bảo vệ về mặt nguyên tắc pháp lý. Ngoài những quy định tại Điều
766, trong Bộ luật dân sự chưa có một điều khoản nào khác quy định cụ thể về quan hệ sở hữu có yếu
tố nước ngoài.
* Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 11 năm 2006 quy định
chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài: Tại điều 4
của Nghị định 138/2006 có quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế,
pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế:
“Việc áp dụng pháp luật dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế pháp
luật nước ngoài và tập quán quốc tế tuân theo quy định của Điều 759 Bộ luật dân sự”.
Điều 759 Bộ luật dân sự có quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật về quan hệ có yếu tố
nước ngoài nói chung và quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài nói riêng. Nghị định 138/2006
đã kế thừa những quy định tại Bộ luật dân sự 2005 về việc trong trường hợp nếu có điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên quy định khác với quy định của Bộ luật thì sẽ ưu tiên áp dụng quy định
của Điều ước quốc tế. Không chỉ có vậy, Nghị định này còn bổ sung một số điểm mới cho phù hợp

với thực tế được thể hiện khá rõ tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4:
“2. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định tại phần thứ bảy của Bộ luật dân sự và
quy định của Luật chuyên ngành khác về cùng một nội dung, thì áp dụng quy định của Luật chuyên
ngành.
3. Trong trường hợp việc lựa chọn hoặc viện dẫn áp dụng pháp luật của nước có nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau, thì đương sự có quyền yêu cầu áp dụng hệ thống pháp luật có mối quan
hệ gắn bó nhất với đương sự về quyền và nghĩa vụ công dân”
Đây là những quy định khá cụ thể về việc áp dụng pháp luật trong những trường hợp có sự
khác nhau giữa văn bản pháp luật trong nước và có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng áp dụng
để giải quyết quyền và nghĩa vụ của đương sự. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của
Bộ luật dân sự và Luật chuyên ngành về cùng một vấn đề thì việc lựa chọn áp dụng quy định của Luật
chuyên ngành là hợp lý hơn cả. Vì Luật chuyên ngành về dân sự được xây dựng dựa trên quy định của
Bộ luật dân sự 2005 và hơn thế nữa nó điều chỉnh cụ thể, đầy đủ hơn. Những văn bản này phần lớn ra
đời sau, nên thường có sự kế thừa và phát triển hơn so với Bộ luật dân sự để phù hợp với điều kiện
kinh tế – xã hội đang từng bước phát triển. Đối với việc lựa chọn hoặc viện dẫn áp dụng pháp luật của
nước có nhiều hệ thống pháp luật, quy định đương sự có quyền yêu cầu áp dụng hệ thống pháp luật có
mối quan hệ gắn bó nhất là quy định phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Điều 11 Nghị định này có quy định về quyền sở hữu tài sản: “Việc áp dụng pháp luật về quyền
sở hữu tài sản tuân theo quy định tại Điều 766 của Bộ luật dân sự”. Tức là Nghị định này một lần
nữa công nhận hệ thuộc luật nơi có tài sản trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu
có yếu tố nước ngoài. Mặt khác, Nghị định còn quy định cụ thể hơn nữa tại khoản 2 Điều 11: “Trong
trường hợp xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối
với tài sản được áp dụng theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì tuân theo các quy
định tại Phần thứ hai của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan”. Điều này có
nghĩa là khi quy phạm xung đột quy định việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài
5

×