Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

VẤ n đề đồ NG TÍNH TRONG hộ i họa VIỆT NAM HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.59 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NÔNG THỊ THU TRANG

VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH
TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NÔNG THỊ THU TRANG

VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH
TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT

Chuyên ngành: Mỹ thuật Tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60 21 01 02
Khóa: 18 (2015 - 2017)

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Văn Sửu

Hà Nội - 2017



BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ĐH

Đại học

HCM

Hồ Chí Minh

ICS

Nhóm đại diện cho một số diễn đàn của người đồng tính

ISEE

Viện Nghiên cứu kinh tế xã hội Việt Nam

LGBT

Cộng đồng người đồng tính

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư


ThS

Thạc sĩ

TP

Thành phố

TS

Tiến sĩ

VHNT

Văn hoá nghệ thuật

VHTT

Văn hoá thông tin


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Bảng chữ cái viết tắt
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
NỘI DUNG………………………………………………………………….10
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .................................10
1.1. Khái niệm một số thuật ngữ được sử dụng trong đề tài ....................................10
1.2. Khái quát về hội họa Việt Nam hiện đại ............................................................14

1.3. Khái quát về đề tài đồng tính trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại ...................21
Tiểu kết chương 1.........................................................................................................34
Chương 2: NGHIÊN CỨU NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VẤN ĐỀ ĐỒNG
TÍNH TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ................................................36
2.1. Biểu hiện vấn đề đồng tính trong nội dung tác phẩm........................................36
2.2. Biểu hiện vấn đề đồng tính trong hình thức nghệ thuật ....................................43
Tiểu kết chương 2.........................................................................................................59
Chương 3: BÀI HỌC RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI....................60
3.1. Những thành công của việc biểu đạt vấn đề đồng tính trong hội họa Việt Nam
hiện đại ..........................................................................................................................60
3.2. Những hạn chế của việc biểu đạt về vấn đề đồng tính trong hội họa
Việt Nam hiện đại .......................................................................................................62
3.3. Bài học rút ra từ việc biểu đạt vấn đề nội tâm, giới tính trong sáng tác
hội họa ..........................................................................................................................65
Tiểu kết chương 3.........................................................................................................70
KẾT LUẬN ..................................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................73
PHỤ LỤC .....................................................................................................................76


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồng tính vốn là một đề tài nhạy cảm được khai thác trong nhiều lĩnh
vực nghệ thuật như: Văn học, kịch, điện ảnh, âm nhạc… và mỹ thuật cũng
không nằm ngoài nhiệm vụ phản ánh vấn đề xã hội này. Đề tài đồng tính đã
tạo nên một ấn tượng khá mạnh mẽ qua sáng tác của của một số tác giả trong
hội họa Việt Nam hiện đại. Dù táo bạo, lặng lẽ hay day dứt, ở góc độ nào các
tác giả cũng đặt người xem phải đối diện với những suy nghĩ, nhìn nhận về

một thế giới thứ ba vẫn đang tồn tại song song như một điều hiển nhiên không
thể xóa bỏ của tạo hóa.
Trong hội họa Việt Nam hiện đại, đã có một số họa sĩ mạnh dạn lựa
chọn đề tài nhạy cảm này để thể hiện. Một số tác giả là người đồng tính muốn
thông qua đó để bộc bạch nỗi niềm riêng của mình một cách ẩn ý hoặc công
khai về giới tính của bản thân và quan điểm của họ đối với vấn đề đồng tính.
Một số tác giả khác không thuộc cộng đồng người đồng tính nhưng có sự
đồng cảm, chia sẻ cũng góp phần không nhỏ cho hệ thống tác phẩm thể hiện
đề tài này. Họ mang đến một cái nhìn thông qua ngôn ngữ hội họa, với những
đường nét và màu sắc tôn lên vẻ đẹp và tình yêu của những người đồng tính...
Trong các tác phẩm của họ dù thể hiện theo cách kín đáo hay phơi bày thì
xuyên suốt là vấn đề tình dục, nghiêng về biểu hiện xu hướng xác thịt của giới
đồng tính. Các tác phẩm thường đặt vấn đề biểu đạt tiếng nói của tình yêu
thông qua ngôn ngữ của hình thể, qua những cử chỉ âu yếm của mỗi cặp đồng
tính. Từ không gian đến hình thể, màu sắc, đường nét đều được biểu hiện
mạnh mẽ để chuyển tải những khao khát cảm xúc yêu đương. Có thể nói các
tác phẩm này đã xác lập một thế giới nghệ thuật riêng phong phú về vấn đề
đồng tính và đã đạt được những thành công nhất định.


2
Những rung động tình yêu, sự giằng xé giữa khát khao sống thật giữa
những định kiến, kì thị; sự ủng hộ của xã hội; niềm hy vọng vào tương lai...
của thế giới thứ ba đã được chuyển tải vào các tác phẩm theo nhiều cách biểu
hiện thông qua các phong cách, kỹ thuật, chất liệu hội họa khác nhau. Vấn đề
này tuy khá mới nhưng trong hội họa Việt Nam hiện đại đã có một số lượng
tác giả, tác phẩm tạo được phong các cách biểu đạt riêng. Tuy nhiên nghiên
cứu chuyên sâu về đề tài này, đến nay vẫn là một khoảng trống, vì vậy tôi
đã lựa chọn đề tài “Vấn đề đồng tính trong hội họa Việt Nam hiện đại” để
làm luận văn Thạc sĩ Mỹ thuật. Tôi hy vọng sẽ có thể góp một phần nhỏ,

tạo nên một tài liệu bước đầu nghiên cứu về nghệ thuật hội họa dành cho đề
tài đồng tính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đồng tính là một vấn đề đặc biệt của xã hội mang tính phổ quát trên thế
giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Vì thế, hệ thống sách đề cập đến vấn
đề đồng tính hiện nay tương đối nhiều. Số lượng sách lớn tập trung nhiều nhất
ở những lĩnh vực như tâm lý, xã hội, pháp luật. Tuy nhiên, trong đề tài này,
tôi muốn được nhắc đến một hệ thống sách có liên quan đến cơ sở lý luận để
góp phần làm nền tảng về cơ sở lý luận cho sự đề cập đến vấn đề đồng tính từ
góc độ Mỹ thuật học, đó là hệ thống sách Từ điển tiếng Việt. Trong luận văn
này, tôi đã trích dẫn khái niệm về vấn đề đồng tính trong hội họa từ một số
quyển Từ điển tiêu biểu.
Đó là cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam 1, 2, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội do Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn năm 2005; Lê Thanh Lộc
(1998), Từ điển mỹ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin; Đặng Thị Bích Ngân
(2002), Từ điển thuật ngữ Mĩ thuật phổ thông, Nxb Giáo dục; Hoàng Phê (chủ
biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng; Viện Ngôn ngữ học (2006),
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng; Viện ngôn ngữ học (2012), Từ điển tiếng
Việt, Nxb Hồng Đức; Phan Như Ý (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb ĐH Quốc


3
gia TP. HCM. Những quyển Từ điển này phần lớn đều đưa ra khái niệm mang
tính tương đồng về vấn đề đồng tính là tình yêu, tình dục của những người có
cùng giới tính, phân biệt các kiểu đồng tính và đưa ra một số khái niệm về tên
gọi đặc biệt dành cho những người đồng tính.
Hội họa Việt Nam hiện đại phản ánh nhiều vấn đề trong xã hội trong các
giai đoạn phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại, trong đó có vấn đề đồng
tính. Tuy nhiên, là một đề tài nhạy cảm, không thường xuyên được lựa chọn
để phản ánh trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại, vấn đề đồng tính phần lớn chỉ

được nhắc đến qua việc giới thiệu một số tác giả hội họa Việt Nam hiện đại
trong một số cuốn sách như: Bùi Như Hương, Trần Hậu Tuấn (2001), Hội họa
mới Việt Nam thập kỷ 90, Nxb Mỹ thuật; Nhiều tác giả (2005), Mỹ thuật hiện
đại Việt Nam,Viện Mỹ thuật- Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội; Nhiều tác giả
(2000), Kỷ yếu hội thảo mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, Viện Mỹ thuật; Nhiều
tác giả (2007), Kỷ yếu 20 năm Mỹ thuật thời kỳ Đổi mới 1986-2006, Trường
Đại học Mỹ thuật Hà Nội, Viện Mỹ thuật; Nhiều tác giả (2008), Kỷ yếu Nghệ
thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa,Trường Đại học Mỹ thuật Việt
Nam, Viện Mỹ thuật; Hội Mỹ thuật Việt Nam (2009), Những vấn đề mỹ thuật
Việt Nam hiện đại (Kỷ yếu hội thảo), Nxb Mỹ thuật; Nguyễn Quân (2010), Mỹ
thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức. Phần lớn những cuốn sách trên viết
về những vấn đề của mỹ thuật Việt Nam hiện đại nói chung, đề cập ít nhiều
đến vấn đề đồng tính. Cuốn Những vấn đề mỹ thuật Việt Nam hiện đại (Kỷ
yếu hội thảo), Nxb Mỹ thuật viết về sự đổi mới nội dung của mỹ thuật Việt
Nam hiện đại: “Thế hệ trẻ, ngược lại, vẽ nhiều tranh hư cấu, tưởng tượng,
mang tính chất chủ quan cá nhân. Họ hướng nhiều về đời sống nội tâm, về
tình cảm riêng tư như tình yêu, giới tính và thân phận con người” [tr.60], “Sau
đổi mới, Trương Tân là người trở về mình một cách thành thực nhất, tự do
nhất, làm nghệ thuật để giải toả tâm lý cá nhân, đồng thời để nói lên quan hệ
đồng tính – vốn là một sự thật xã hội mà không phải ai cũng dám bộc


4
lộ”[tr.66]. Trong đó, một phần có viết về một số tác giả nằm trong số những
nghệ sĩ sáng tác tranh về đề tài đồng tính được đề cập trong luận văn này. Tuy
nhiên, trong những cuốn sách trên, những tác giả này chỉ được nhắc đến như
một trong những nghệ sĩ thuộc về nghệ thuật Việt Nam hiện đại mà không đề
cập trực tiếp đến vấn đề đồng tính được vẽ trong tranh của họ. Cuốn sách đề
cập nhiều nhất có lẽ là quyển Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức của
tác giả Nguyễn Quân. Trong tác phẩm này, Nguyễn Quân nhắc đến “những

người tiên phong… như Trương Tân, Minh Thành,…” [tr. 115], viết về “Thế
hệ này đề cập tới những chủ đề còn xa lạ với lớp đàn anh như đô thị hoá, môi
trường, giới tính, nhân quyền, chủ nghĩa khủng bố…” [tr.117]. Trong sách,
tác giả Nguyễn Quân còn sử dụng hình ảnh của tác phẩm thể hiện đề tài đồng
tính Váy cưới (sắp đặt, voan và kim loại, 2002) của tác giả Trương Tân
[tr.256].
Vấn đề đồng tính được đề cập đến rõ ràng, cụ thể hơn trong những cuốn
sách viết về những tác giả, tác phẩm viết về nghệ thuật hiện đại, đương đại
mang tính nhân văn sâu sắc trong các cuốn sách như:
- Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội (2007), Giới có phải là một vấn đề, Nxb
Mỹ thuật: Đây là một vựng tập viết về những ý tưởng sáng tạo với các học
viên của Dự án “Giới có phải là vấn đề?” thuộc Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội
thảo luận về những lĩnh vực của nghệ thuật, những khía cạnh của đời sống
hàng ngày có liên quan đến vấn đề về giới. Trong đó, đề cập trực tiếp đến vấn
đề đồng tính là phần viết về tác phẩm sắp đặt “K, Q, QK, KQ” của Trần Quốc
Hùng có viết lời tựa cho tác phẩm: “Quân bài Vua (K) là quân bài quyền lực
lớn nhất trong bộ bài tây, là ước muốn của nhiều người đàn ông. Quân bài
Hậu (Q) là quân bài xinh đẹp nhất, chỉ đứng dưới quân K. Sự pha trộn giới
tính nam, nữ, đồng tính nam, đồng tính nữ tạo nên sự phong phú về giới tính.
Chấp nhận hay không chấp nhận bốn giới tính? Nếu bạn ngồi vào vị trí cha,
mẹ mà con mình đồng tính thì bạn sẽ suy nghĩ thế nào?...” [tr.77]


5
- Đào Mai Trang (chủ biên) (2010), 12 nghệ sĩ đương đại Việt Nam, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội: Cuốn sách giới thiệu 12 nghệ sĩ tiêu biểu trong đời sống
hiện đại, đương đại của nghệ thuật Việt Nam. Tập hợp các bài viết của cả tác
giả trong và ngoài nước viết về những nghệ sĩ này. Đây có lẽ là cuốn sách viết
đầy đủ, rõ ràng hơn về chủ đề đồng tính trong các tác phẩm của những nghệ sĩ
tiêu biểu đi theo hướng này. Trong bài “Trương Tân và con đường nghệ

thuật”, tác giả Vũ Đức Toàn viết về nghệ sĩ Trương Tân “Hình ảnh của anh
gắn liền với sự dũng cảm của một cá nhân sống thành thực với giới tính và cá
tính của mình. Sự thành thực đó được thể hiện mãnh liệt trong nghệ thuật của
anh, từ các sáng tác hội họa đến những tác phẩm nghệ thuật sắp đặt và trình
diễn…” [tr.37]. Tác giả còn đề cập cụ thể đến tác phẩm trình diễn của Trương
Tân và Nguyễn Mạnh Hùng mang tên “Cuộc gặp gỡ”: “Trước mắt khán giả,
người ta chỉ thấy hai gã gàn dở lột quần lột áo nhau, bổ nhào vào nhau với
một đống ngôn từ thượng vàng hạ cám…” [tr.45]. Cũng trong cuốn sách này,
bài viết “Lý Trần Quỳnh Giang độc thoại cùng thời gian” của tác giả Bùi
Như Hương cũng viết nhiều về hội họa của Quỳnh Giang trong các tác phẩm
vẽ về đề tài đồng tính mang tính biểu hiện về sự cô độc: “Ở tranh sơn dầu,
Giang cũng chủ yếu vẽ mình hoặc lấy mình làm cái cớ để vẽ. Nhân vật của
chị thường cô đơn, suy tư, đôi khi hút thuốc, khoả thân hoặc chơi vĩ cầm. Khi
khoả thân thì khoả thân đến trơ trụi, cùng cực, nhục cảm, cô quạnh. Có lúc lại
trốn sâu vào mình, thụt sâu vào quần áo vỏ bọc như một chú rùa chỉ để hở
chân tay, khuôn mặt và đôi con mắt đau đáu…” [tr.190].
- Bùi Như Hương, Phạm Trung (2012), Nghệ thuật đương đại Việt Nam
1990 – 2010, Nxb Tri thức, Hà Nội: Đây có lẽ là cuốn sách viết về các nghệ sĩ
và tác phẩm liên quan đến đề tài đồng tính một cách rõ ràng, cụ thể nhất. Vấn
đề này được nhắc đến trực tiếp khi các tác giả viết về những nghệ sĩ và các tác
phẩm của họ. Ngay trong những trang viết đầu tiên thuộc Phần 2 của cuốn
sách này, các tác giả đã viết về nghệ sĩ Trương Tân như sau: “Trương Tân


6
chuyên vẽ các tranh pop – giới tính, là người đầu tiên trở về chính mình một
cách thành thật nhất, tự do nhất, công khai bộc lộ tình yêu đồng tính, điều mà
xã hội Việt Nam còn dè dặt, tránh né, nghệ thuật còn kiêng kỵ…” [tr.15].
Trong phần viết này còn viết về tranh của Nguyễn Minh Thành: “Tranh
thường là các chân dung tự họa theo nhiều cách, nhiều bố cục khác nhau: một

thằng bé mọc lên trong chum vại, nón, cây, ếch nhái, chồng chất ký ức tuổi
thơ với trí tưởng tượng khác thường, bất ngờ và nhiều khi là phi lý, để nói lên
câu chuyện cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đầy các mâu
thuẫn thế hệ, mâu thuẫn văn hoá, lối sống, các bi kịch và những câu hỏi nhân
sinh không bao giờ chấm dứt…” [tr.16]. Nhận định về hai nghệ sĩ này, các tác
giả còn viết: “Cũng có một lý do là Trương Tân với các bức tranh chủ đề giới
tính của anh khi đó đã một hai lần vấp phải kiểm duyệt, bị yêu cầu đóng
cửa… Một Trương Tân – khát vọng tự do, không ngại ngần bộc lộ tình yêu
đồng giới, một Minh Thành – suy tư về thân phận con người và nỗi buồn
nhân loại…” [tr.25]. “Đi đầu trong việc vẽ tranh pop và trưng bày thành triển
lãm có lẽ vẫn là Trương Tân. Anh vẽ các tranh sex-pop, kết hợp graffity, có
những câu chữ ngôn từ lấy từ văn hoá đường phố, như một sự thách thức, thể
hiện tự do cá nhân, đồng thời phô bày một góc khuất tình dục của đời sống
con người” [tr.43].
- Đào Mai Trang (2014), Nghệ thuật và tài năng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội:
Cuốn sách này viết về nghệ thuật của những nghệ sĩ trẻ thuộc thế hệ 8X với
những sáng tạo nghệ thuật của họ trong bối cảnh xã hội hiện đại, đương đại.
Cuốn sách không đề cập trực tiếp đến đề tài đồng tính nhưng sử dụng một số
tác phẩm minh họa thuộc về vấn đề này như: Tranh Trước gương của Phạm
Tuấn Tú [tr.92-93],…
- Đinh Gia Lê (2016), Tìm hiểu về nghệ thuật đương đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục: Tác giả có đề cập đến một số nghệ sĩ trong thế hệ trẻ của nghệ thuật
hiện đại, đương đại Việt Nam, tiêu biểu là phần viết về Trương Tân: “Nghệ


7
thuật của anh nổi bật với tinh thần giải phóng cá nhân, giải phóng các ẩn ức về
giới tính, xen kẽ trong đó là cái nhìn châm biếm sâu sắc về một số vấn nạn xã
hội…” [tr.137].
Như vậy, trong các cuốn sách kể trên, các tác giả đã viết về vấn đề đồng

tính thông qua các thủ pháp tạo hình của ngôn ngữ hiện đại, đương đại trong các
tác phẩm hội họa qua tác phẩm của một số tác giả tiêu biểu như: Trương Tân,
Nguyễn Minh Thành, Lý Trần Quỳnh Giang, Phạm Tuấn Tú… Vấn đề đồng
tính được phân tích nhiều và kỹ hơn trong một số trang viết của các cuốn sách
này.
Ngoài ra, vấn đề đồng tính được nhắc đến trực tiếp trong một số bài viết
về mỹ thuật thể hiện đề tài này như:
“Thế giới thứ ba qua góc nhìn của dân Art”, Tạp chí Đẹp, tháng 03 năm
2008 viết về một số tác giả như Lý Trần Quỳnh Giang, Trương Tiến Trà,
Nguyễn Kim Hoàng với một số tác phẩm vẽ về đề tài đồng tính của họ. “Tranh
đề tài đồng tính”, , 09/09/2006: viết về Triển lãm Sự
thật méo mó - triển lãm gồm 12 bức tranh về đề tài đồng tính của họa sĩ trẻ
Trương Tiến Trà (sinh năm 1979) tại Gallery Suffusiveart ít nhiều gây xôn xao
giới mỹ thuật Hà Nội."Mở" - cuộc triển lãm về đề tài đồng tính”,
thethaovanhoa.vn, 28/11/2009 viết về cuộc triển lãm các tác phẩm hội họa, đồ
họa và nhiếp ảnh, được tổ chức bởi ISEE (Viện Nghiên cứu kinh tế xã hội Việt
Nam) và ICS (nhóm đại diện cho một số diễn đàn của người đồng tính).“Bàn
về đồng tính: 6 biện pháp để giảm bớt kỳ thị”, , 25/12/2012
viết về vấn đề hiện nay những người đồng tính đang bị kỳ thị và một số hướng
giải quyết mà mọi người đang áp dụng để giải quyết vấn đề trên thông qua
nghệ thuật…
Trên thực tế, vấn đề đồng tính vẫn được phản ánh nhỏ lẻ trong các tài liệu,
cuốn sách trên mà chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề đồng tính trong hội họa Việt Nam hiện đại. Những cuốn sách, tài liệu tôi đã


8
trình bày trên đây đã gợi ý cho tôi một hướng nghiên cứu mang tính đầy đủ,
trọn vẹn hơn dành cho đề tài đồng tính. Vì vậy, tôi chọn “Vấn đề đồng tính
trong hội họa Việt Nam hiện đại” làm luận văn Thạc sĩ Mỹ thuật tạo hình để làm

rõ đặc điểm tạo hình đặc trưng của vấn đề đồng tính trong nghệ thuật hội họa.
3. Mục đích của luận văn
Luận văn hướng đến các mục đích nghiên cứu sau:
- Về vấn đề đồng tính trong hội họa Việt Nam hiện đại thông qua nội
dung và hình thức nghệ thuật.
- Nghiên cứu các hình thức biểu đạt của nghệ thuật tạo hình về đề tài
đồng tính trong các tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại qua nhiều chất liệu
và phong cách, ngôn ngữ tạo hình.
- Tìm ra những đặc trưng về nghệ thuật tạo hình trong những tác phẩm
thể hiện về vấn đề đồng tính. Đánh giá thành công và hạn chế về của các tác
phẩm hội họa Việt Nam hiện đại vẽ về đề tài đồng tính.
- Rút ra bài học kinh nghiệm về sử dụng ngôn ngữ tạo hình của nghệ
thuật hội họa trong sáng tác về đề tài đồng tính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Các tác phẩm hội họa có đề tài đồng tính
- Phạm vi: Các tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đề cập đến đề tài
đồng tính từ năm 2005 đến 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
Phương pháp khảo sát thực tế: Thực tế tại các triển lãm có các tác
phẩm liên quan đến đề tài; quan sát, chụp hình, phỏng vấn các tác giả và công
chúng, thu thập tài liệu về đề tài đồng tính trong các tác phẩm hội họa hiện đại
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sưu tầm và thống kê tài liệu; phân loại
và phân tích tài liệu về đề tài đồng tính được thể hiện trong nghệ thuật tạo hình.


9
Phương pháp so sánh: Nghiên cứu các tác phẩm hội họa Việt Nam
hiện đại thể hiện đề tài về đồng tính, so sánh làm rõ đặc trưng riêng của mỗi

tác giả trong cách biểu đạt ý tưởng bằng ngôn ngữ hội họa.
Phương pháp nghệ thuật học: Sử dụng kiến thức, sự hiểu biết về mỹ
thuật, về nghệ thuật tạo hình để tiếp cận và nghiên cứu về hình thức thể hiện,
đặc trưng nghệ thuật của các tác phẩm hội họa vẽ về đề tài đồng tính.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn sẽ mang lại các kết quả như sau:
- Là tài liệu nghiên cứu có hệ thống về nội dung và hình thức nghệ thuật
trong các tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại về đề tài đồng tính. Đánh giá
những thành công và hạn chế trong việc sáng tác tác phẩm hội họa về đề tài
đồng tính.
- Xây dựng một tài liệu giúp người đọc hiểu được về tính nhân văn trong
chủ đề, đề tài sáng tác về người đồng tính và nghệ thuật biểu đạt ý tưởng
thông qua ngôn ngữ hội họa.
- Đưa ra một số bài học để giúp họa sĩ sáng tác tránh bị sa vào tình trạng
lạm dụng đề tài nhạy cảm để gây sốc, tạo nên sự nổi tiếng bằng những tiểu
xảo, sự khoa trương, cường điệu thái quá sự thực.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Mở đầu (9 trang), nội dung (61 trang) và kết
luận (2 trang).
Phần nội dung được chia thành ba chương:
Chương 1: Những cơ sở mang tính lý luận để nghiên cứu đề tài (26 trang)
Chương 2: Nghiên cứu những biểu hiện của vấn đề đồng tính (24 trang)
Chương 3: Giá trị của nghệ thuật tạo hình trong các tác phẩm hội họa Việt
Nam hiện đại thể hiện đề tài đồng tính (11 trang)
Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu và phụ lục, hình ảnh phụ lục (phụ
lục minh họa hình ảnh).


10
Chương 1

NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm một số thuật ngữ được sử dụng trong đề tài
Khái niệm "đồng tính"
Để tìm hiểu khái niệm “đồng tính” trước hết có thể tìm hiểu cách định
nghĩa của các từ điển khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt (2003), Hoàng Phê
(chủ biên), Nxb Đà Nẵng: “Đồng tính là cùng giới tính”, “đồng tính luyến ái
là có quan hệ yêu đương, ham muốn tình dục với người cùng giới tính” [16,
tr. 344]. Theo Từ điển tiếng Việt (2007), tác giả Phan Như Ý, Nxb ĐH Quốc
gia TP. HCM : “Đồng tính là chỉ có ham muốn nhục dục với người cùng giới
tính, quan hệ luyến ái đồng tính” và “Đồng tính luyến ái là có quan hệ yêu
đương, tình dục với người cùng giới tính” [33, tr. 556]. Từ điển tiếng Việt
(2012) của Viện ngôn ngữ học, Nxb Hồng Đức định nghĩa: “Đồng tính: cùng
giống đàn ông hay cùng giống đàn bà với nhau: Hai người đồng tính không
thể làm vợ chồng với nhau”. “Đồng tính luyến ái: tình yêu tha thiết, say mê,
không rời được nhau giữa đôi bạn trai hay đôi bạn gái, một hiện tượng bất
thường” [32, tr. 296]
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia : “Đồng tính luyến ái,
gọi tắt là đồng tính, là thuật ngữ chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện
tình yêu, tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa
những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một
cách lâu dài. Với vai trò là một thiên hướng tình dục, đồng tính luyến ái
là một mô hình bền vững của sự hấp dẫn tình cảm, tình yêu, hoặc hấp
dẫn tình dục một cách chủ yếu hoặc duy nhất đối với người cùng giới
tính. Đồng tính luyến ái cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa trên những
hấp dẫn đó và sự tham gia vào một cộng đồng có chung điều này”.


11
Và cũng theo cách diễn giải của từ điển này, trong tiếng Việt người
đồng tính luyến ái nam thường được gọi là "người đồng tính nam" hoặc "gay"

/ɣ aj/ (bắt nguồn từ từ tiếng Anh "gay" /ɡ eɪ /), "bê đê" /ɓ e ɗ e/, "pê đê" /pe
ɗ e/ (bắt nguồn từ tiếng Pháp "pédérastie"). Người đồng tính luyến ái nữ
thường được gọi là "người đồng tính nữ" hoặc "lét" /lɛ t/ (bắt nguồn từ từ
tiếng Anh "lesbian" /ˈ lezbiən/, thường được viết phỏng theo tiếng Anh là
"les" dù phát âm khác với tiếng Anh. Người đồng tính rất đa dạng về mọi mặt.
Không có đặc điểm ngoại hình đặc trưng nào để "nhận dạng" người đồng tính
so với những người khác trong xã hội. Từ "bóng" hay "bê đê" (từ mang hàm ý
thể hiện sự miệt thị) mà người ta hay dùng để chỉ một người con trai cư xử và
hành động như con gái thực ra là nói đến người chuyển giới nữ nhưng chưa
có điều kiện phẫu thuật.
Như thế, đồng tính là một hiện tượng tự nhiên, một xu hướng tương đối
cố định của một bộ phận dân số, có tính liên tục xuyên suốt lịch sử và văn
hóa. Vậy nên hoàn toàn không hề có bất kỳ một phương pháp nào có thể
“chữa trị” đồng tính. Do cách gọi chung những người đồng tính bằng những
cái tên dân dã quen thuộc như “pêđê”, “bóng”, “ô môi”,… nên có rất nhiều
người bị ngộ nhận rằng người đồng tính và người chuyển giới là một. Trong
thực tế cũng có rất nhiều người chuyển giới khi chưa phẫu thuật vẫn bị nhầm
lẫn về chính bản thân mình khi tự nhận mình là người đồng tính. Về bản chất
thì sự đánh đồng lẫn lộn này xảy ra là do mọi người thường quan tâm đến
phần thể hiện giới của người đồng tính và người chuyển giới. Bất kỳ người
đồng tính nam nào có xu hướng thể hiện hơi nữ tính hoặc người chuyển giới
chưa qua phẫu thuật nào thích ăn mặc, trang điểm theo xu hướng nữ tính đều
bị coi là một và gọi là “bóng” rồi chia thành “bóng lộ” và “bóng kín”.
Còn đồng tính, song tính hay dị tính là những khái niệm liên quan đến
xu hướng tính dục, có nghĩa là việc họ yêu ai. Nói đơn giản hơn, đồng tính chỉ


12
là việc một người đàn ông yêu một người đàn ông hoặc một người phụ nữ yêu
một người phụ nữ.

Các nhà khoa học đã ghi nhận sự hiện diện của người đồng tính trong
mọi nền văn minh cổ xưa nhất từ Đông sang Tây. Và thậm chí là nhiều nhà
sinh vật học còn chứng minh rằng hiện tượng đồng tính luyến ái phổ biến
không chỉ ở con người mà còn ở các loài côn trùng đến các loài có vú. Sự đa
dạng xu hướng tính dục là một đặc điểm có tính phổ quát của toàn nhân
loại.Tùy theo từng thời kỳ và nền văn hóa thì những người đồng tính, song
tính và chuyển giới có cách gọi khác nhau. Hai dạng chính của đồng tính là
đồng tính nam và đồng tính nữ. Những người đồng tính, nam và nữ, thường
được gọi với nhiều tên khác nhau, thông thường nhất là gay và lesbienne.
Quan hệ tình dục là yếu tố cơ bản để họ tự coi là mình thuộc dạng tình yêu
nào. Từ lâu, thực tế xác nhận sự tồn tại ở mọi nơi trên hành tinh một cộng
đồng đặc biệt, viết tắt là LGBT, tức những người đồng tính nữ, đồng tính
nam, những người song tính và những người chuyển giới. Tên gọi LGBT bộc
lộ sự đa dạng và tính linh hoạt của hoạt động tình dục của cộng đồng này.
Khái niệm "vấn đề đồng tính"
Theo Từ điển tiếng Việt (2012) của Viện ngôn ngữ học, Nxb Hồng Đức:
“Vấn đề là câu chuyện nêu ra để giải quyết, việc phải giải quyết”…[32,
tr.1054]. Theo Từ điển mở Wiktionary: “Vấn đề là điều cần được xem xét,
nghiên cứu, giải quyết. Vấn đề là một cái gì đó khó xử lý hoặc khó giải quyết.
Vấn đề có thể được định nghĩa là bất cứ điều gì mà có khối lượng và chiếm
không gian trong đó bao gồm thực tế tất cả mọi thứ. Vấn đề cũng đã được sử
dụng để mô tả tầm quan trọng của một cái gì đó”.
Ngoài ra, ta cũng có thể tham khảo một khái niệm gần với “vấn đề” là
khái niệm “vấn đề xã hội” ở Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Vấn đề xã
hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng
đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã


13
hội nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi

ích của một cộng nhóm người nhất định và chỉ có thể được khắc phục thông
qua hành động xã hội”.
Nhìn trong tổng thể, từ xưa đến nay, đồng tính liên tục bị đạo đức tôn
giáo và đạo đức xã hội chỉ trích, cho nên không được đa số thành viên mỗi
cộng đồng thông cảm và thấu hiểu, dù rằng không hiếm nhân vật vĩ đại về
khoa học và nghệ thuật không giấu diếm hay được phát hiện là người đồng
tính, chẳng hạn nhà bách khoa toàn thư số một toàn cầu kiêm danh họa Italia
Leonard de Vinci (1452-1519), văn hào Anh Oscar Wilde (1854-1900), nhà
văn Pháp đoạt giải Nobel André Gide (1869-1951), hoặc nữ thủ tướng Ai len
Johanna Sigurdardottir vừa hết nhiệm kỳ, sinh năm 1948… Ngoài ra, phong
tục tập quán của nhiều dân tộc không ngớt rũ bỏ dần những yếu tố thiếu nhân
bản hay lạc hậu, dù những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, về luật pháp và cơ
cấu xã hội khiến cho các xã hội lớn nhỏ ngày một văn minh, ngày một bao
dung, ngày thêm có lý có tình trong xử lý các mối ràng buộc hiển nhiên phải
có,… Một trong những bất hợp lý mà người đồng tính phải cắn răng chịu
đựng hiện giờ, ngay tại các nước văn minh nhất, là sự phân biệt đối xử trong
vấn đề thuê hay trả công lao động. Đằng sau những chuyện này là một thực tế
không khó giải thích. Ví dụ ngẫu nhiên ấy hé lộ biết bao cơ cực mà người ta
phải hứng chịu khi trót hay chỉ yêu người cùng giới với mình. Đáng lạ, những
con người bất hạnh ấy cứ kiên gan viết nên lịch sử riêng của họ, và lịch sử
đồng tính, tuy âm thầm và như cố ý bị lờ đi, vẫn song hành đầy kiêu hãnh với
lịch sử nhân loại. Và đó chính là một vấn đề của xã hội nói chung và văn học,
nghệ thuật nói riêng: vấn đề đồng tính.
Như thế, vấn đề đồng tính ở đây có thể hiểu là một vấn đề xã hội khi
con người chỉ có ham muốn yêu đương, nhục dục với người cùng giới tính,
quan hệ luyến ái đồng tính. Vấn đề đồng tính về việc có quan hệ yêu đương,
tình dục với người cùng giới tính được nhận thức như một sự tồn tại đặc biệt


14

trong cuộc sống, đang được xã hội quan tâm, chia sẻ, giải quyết những yếu tố
liên quan đến vấn đề này.
Khái niệm "vấn đề đồng tính trong hội họa"
Theo Từ điển thuật ngữ Mĩ thuật phổ thông (2002), Đặng Thị Bích
Ngân, Nxb Giáo dục: “Hội họa: Nghệ thuật dùng màu sắc, hình mảng, đường
nét để diễn đạt cảm xúc của người vẽ trước con người, thiên nhiên, xã hội.
Hội họa là một ngành của nghệ thuật tạo hình”.[11, tr.77].Như thế, hội họa
cũng luôn được hiểu là một ngành nghệ thuật trong đó con người sử dụng
màu vẽ để tô lên một bề mặt như là giấy, hoặc vải, để thể hiện các ý tưởng
nghệ thuật. Thông thường, công việc này do họa sĩ thực hiện. (Họa sĩ là từ
dùng để chỉ những người coi hội họa là nghề nghiệp của mình). Kết quả của
công việc đó là các tác phẩm hội họa hay còn gọi là các tranh vẽ. Hội họa là một
trong những loại hình nghệ thuật quan trọng và phổ biến nhất. Nói cách khác,
hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng của người nghệ sĩ bằng các tác
phẩm hội họa sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sĩ.
Kết hợp với các khái niệm trên, ta có thể hiểu vấn đề đồng tính trong
hội họa là một vấn đề xã hội khi con người chỉ có ham muốn yêu đương, nhục
dục với người cùng giới tính, quan hệ luyến ái đồng tính. Vấn đề đồng tính về
việc có quan hệ yêu đương, tình dục với người cùng giới tính được nhận thức
như một sự tồn tại đặc biệt trong cuộc sống, đang được xã hội quan tâm, chia
sẻ, giải quyết những yếu tố liên quan đến vấn đề này. Và trong hội họa, những
sáng tạo nghệ thuật phản ánh về đề tài đồng tính, thể hiện, diễn tả hay biểu đạt
chuyện tình yêu, cảm xúc hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới
tính với nhau được thể hiện bằng ngôn ngữ, chất liệu của nghệ thuật hội họa.
1.2. Khái quát về hội họa Việt Nam hiện đại
Ngày 7/10/1924, tại Hà Nội, toàn quyền Đông Dương Martial Merlin
ký sắc lệnh cho thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương. Trong thời gian 20
năm (1925-1945), trường đã đào tạo ra nhiều tên tuổi nổi tiếng của nền mỹ



15
thuật Việt Nam như: Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ,
Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái… Đặc biệt, triển lãm mỹ thuật đầu tiên được
khai mạc tại trường Mỹ thuật Đông Dương vào ngày 15/11/1929, đã có tác
động đáng kể đến đời sống và công chúng đương thời. Có thể nói, khuynh
hướng hiện đại đã đi vào môi trường hội họa của Việt Nam kể từ triển lãm
đầu tiên này.
Vào thời kỳ Đông Dương, nền hội họa sơn dầu Việt Nam đã ít nhiều có
những sắc thái riêng biệt, với những nội dung hết sức đặc biệt, được phản ánh
qua những tác phẩm có phong độ bậc thầy như: Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô
Ngọc Vân, Chơi ô ăn quan của Nguyễn Phan Chánh, Vườn xuân Bắc Trung
Nam của Nguyễn Gia Trí… Các họa sĩ Việt Nam đã đi từ trường phái Cổ
điển, qua Hiện thực, và phần nào tiếp cận các trường phái Hiện Đại như: Ấn
tượng… Kỹ thuật và cách sử dụng màu sắc của phong cách phương Tây là
những gì thế hệ học sinh đầu tiên được đào tạo ở trường Mỹ thuật Đông
Dương học được. Sự khởi đầu cơ bản như vậy đã đặt nền móng cho các thế hệ
trẻ noi theo và dẫn họ đến thành công. Trong những năm 1930, 1940 và 1950,
thế hệ đầu tiên của Việt Nam tham gia vào thị trường nghệ thuật quốc tế là
những họa sĩ hiện đại và được đánh giá cao tại Việt Nam cũng như nước
ngoài. Từ đó, họ có danh tiếng và được vinh danh như những bậc thầy của mỹ
thuật hiện đại Việt Nam. Trong số đó có Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh,
Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Lê Phổ, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung,
Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên.
Những ngày đầu cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954
mở ra một trang sử khác cho mỹ thuật Việt Nam. Tháng 10/1945, trường Cao
đẳng mỹ thuật được mở ra. Các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã tự tin, tích cực
chuẩn bị cho cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc đầu tiên trong chế độ mới và
các họa sĩ đã dành cả tâm huyết của mình trong việc sử dụng ngòi bút làm vũ
khí tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật, ca ngợi lãnh tụ và các anh



16
hùng thời đại: Tranh tượng về Bác Hồ (Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Phan
Kế An…) tự vệ chiến đấu (Văn Bình)… đã báo hiệu sự ra đời của nền nghệ
thuật cách mạng.
Chiến tranh lan dần từ miền Nam ra cả nước, cho đến cuối 1940 cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ đi liền với sự nghiệp kháng chiến toàn dân,
toàn diện là sự chuyển mình của các họa sĩ. Họ nghe theo tiếng gọi của nước
của dân tộc cho nên đa số các họa sĩ đều cầm súng, vừa cầm bút vẽ tranh để
tuyên truyền cho kháng chiến thể loại ký họa, bột màu, thuốc nước, chì, tranh
sơn mài được dùng nhiều với những tác phẩm đạt giá trị cao cả ở nội dung và
nghệ thuật, được giới thiệu ở các triển lãm mỹ thuật chào mừng sự kiện lớn
trong cả nước.
Năm 1948, Đại hội văn hoá toàn quốc ở miền Bắc đã được tổ chức gồm
các tác phẩm kháng chiến, điển hình là tác phẩm: Dân quân phù lưu (Nguyễn
Tư Nghiêm), Gặt lúa (Mai Văn Hiến), Người du kích già (Phạm Văn Đôn)…
đã phản ánh cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh với niềm lạc quan tất
thắng. Năm 1952 tại Việt Bắc trường Trung cấp mỹ thuật được thành lập do
họa sĩ Tô Ngọc Vân làm Hiệu trưởng, đã đào tạo ra một thế hệ họa sĩ đầu tiên
cho kháng chiến, những cuộc triển lãm lớn với nhiều tác phẩm nghệ thuật giá
trị của họ như tác phẩm Bác Hồ với các cháu thiếu nhi Trung - Nam - Bắc của
họa sĩ Diệp Minh Châu là bức tranh nổi tiếng mà ông vẽ bằng máu của chính
mình trên lụa. Tiêu biểu cho thế hệ các hoạ sỹ miền Nam đi theo kháng chiến.
Ngoài ra, còn có tác phẩm Du kích tập bắn (Nguyễn Đỗ Cung), Hành quân
qua đèo (Nguyễn Như Hậu)… đã cổ vũ, động viên kịp thời quân dân xông lên
diệt giặc, mang giá trị nghệ thuật và giá trị lịch sử. Các họa sĩ tích cực thâm
nhập vào trận địa, có người đã đổi cả chính cuộc đời nghệ thuật như họa sĩ liệt sỹ (Tô Ngọc Vân). Ký hoạ là một thể loại nổi tiếng của ông với tác phẩm:
Đốt đuốc đi học, Chị cốt cán, Con nghé quả thực, ngoài ra còn có một số tác



17

phẩm nổi tiếng của một số tác giả cùng thời: Cái bát (Sỹ Ngọc), Vệ quốc
quân canh đêm (Nguyễn Tư Nghiêm).
Giữa năm 1954 cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình lập
lại trong cả nước, giới mỹ thuật có điều kiện tập trung về thủ đô Hà Nội tổ
chức Triển lãm toàn quốc, là sự tổng kết của mỹ thuật kháng chiến nói lên
tiềm năng của mỹ thuật cách mạng dồi dào và được giới thiệu ra thế giới tiêu
biểu với những tác phẩm: Nhớ một chiều Tây Bắc (Phan Kế An), Bình minh
trên nông trang (Nguyễn Đức Nùng), Tát nước đồng chiêm (Trần Văn Cẩn)…
cho thấy tranh sơn mài rất phát triển, đóng góp cho nền mỹ thuật thời kỳ này
càng thêm phong phú hơn và nhiều cuộc triển lãm đã được mở ra trên toàn
quốc: 1960 - chào mừng đại hội lần thứ III của Đảng và 1963 triển lãm mỹ
thuật toàn quốc, mà người ta nhớ mãi: Hành quân trong rừng (Nguyễn
Khang), Nam kỳ khởi nghĩa (Huỳnh Văn Gấm), Giờ học tập (Nguyễn
Sáng)…
Đế quốc Mỹ phá hoại miền Bắc (1964), nhân dân miền Bắc lại bắt đầu
một cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập. Các họa sĩ thích ứng hoàn cảnh
mới này rất nhanh, lên đường đến những nơi nóng bỏng nhất để ghi chép,
sáng tác. Hiện thực chiến đấu sản xuất của quân dân đã đi vào tranh tượng,
vừa động viên mọi người vượt lên mọi thử thách của chiến tranh, vừa tranh
thủ sự đồng tình của thế giới.
Trong sự phát triển của mỹ thuật các họa sĩ đã vẽ rất nhiều chủ đề, đề
tài trong cuộc sống, chiến đấu khác nhau. Trước hết là hình ảnh người chiến
sỹ. Nguyễn Sáng rất thành công ở đề tài này với Giặc đốt làng tôi, Kết nạp
Đảng ở Điện Biên Phủ dựng hình đơn giản về nét và màu, bố cục thoáng và
rất khoẻ. Trong số họ, có những người không trực tiếp tham gia chiến đấu
trên trận tuyến mà họ chiến đấu ngay tại hậu phương, sản xuất lương thực
phục vụ tuyền tuyến như tác phẩm Con nghé (Nguyễn Tư Nghiêm), Tổ đổi
công miền núi (Huỳnh Tích Chù), "Con nghé của thực" (Tô Ngọc Vân), "Về



18
nông thôn sản xuất" (Ngô Minh Cầu), "Một buổi cày" (Lưu Công Nhân)...
Bên cạnh nền nông nghiệp xã hội mới còn gắn dần với công nghiệp và hình
ảnh người công nhân cũng chiếm chỗ trong tranh một cách đĩnh đạc như các
tác phẩm: "Mỏ đèo nai" (Nguyễn Tiến Chung), Một loạt tranh (Nguyễn Đỗ
Cung) như: Công nhân cơ khí, học hỏi lẫn nhau, tam ca, mời chị em ra họp để
thi thợ giỏi.. đã nêu bật những gương sáng lao động, gian khổ nhưng chủ
động, chững chạc. Hình tượng người phụ nữ trong tranh không còn là những
tiểu thư đài các nữa mà thực sự làm chủ gia đình, xã hội, tham gia sản xuất cả
nông và công nghiệp như ở các tác phẩm "Nữ dân quân vùng biển" (Trần Văn
Cẩn), "Sau giờ trực chiến" (Nguyễn Phan Chánh). Có lẽ tập trung hơn cả là
hình tượng vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đó là hình tượng "Bác Hồ" hầu như
cuốn hút tất cả các nghệ sỹ tạo hình, vào tranh tượng với rất nhiều chất liệu
khác nhau. Hình tượng Bác là hình tượng của dân tộc Việt Nam kiên cường,
bất khuất, không đếm hết được hết số tác phẩm vẽ tượng về Bác.
Giai đoạn từ 1945-1975, miền Bắc bước vào thời kỳ kháng chiến, nền
hội họa sơn dầu Việt Nam đã chuyển hóa các thành tựu của thời kỳ trước sang
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Một số còn lại di cư vào Nam, các họa sĩ cổ
thụ tiêu biểu có: Nguyễn Gia Trí, Văn Đen, Nguyễn Siên, Tạ Tỵ, Hiếu Đệ,
Nguyễn Thanh Thu. Sau đó thêm nhóm họa sĩ trẻ Sài Gòn, gồm có các họa sĩ
Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Bé Ký, Hồ Hữu Thủ, Trịnh Cung,… Đây là
thời gian cực thịnh của các trường phái Hiện Đại: Ấn tượng, Lập thể, Siêu
thực, Trừu tượng… Ở thời vàng son này, các họa sĩ rất được công chúng
trọng thị và mến yêu, nhất là tầng lớp trung lưu trí thức, bác sĩ, kỹ sư, công
chức, giáo sư,…
Nhìn chung, nền mỹ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Tuy gặp nhiều khó khăn, nền mỹ thuật, thiếu thốn về chất
liệu, nguyên liệu sáng tác nhưng các họa sĩ thời kỳ này vẫn không ngừng sáng

tác, tạo ra được nhiều tác phẩm với giá trị lịch sử khá cao, có nhiều tác phẩm


19
ngày nay được dùng làm tài liệu vô giá của lịch sử nước nhà một thời máu lửa
và hào hùng, nhiều tên tuổi tác giả thành danh không chỉ trong nước mà cả
trên thế giới. Các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc Mỹ vô tình
phân chia mỹ thuật hiện đại Việt Nam thành nhiều phong cách khác nhau,
mỗi phong cách đều có cái hay riêng. Sự khác biệt này thể hiện rõ nhất trong
các tác phẩm mỹ thuật của miền Bắc và miền Nam thời kì hai miền bị chia
cắt. Một mặt những cuộc chiến khốc liệt, tinh thần chiến đấu của nhân dân đã
được phản ánh. Mặt khác, chủ nghĩa hiện thực-phê bình, chủ nghĩa lãng mạn,
và chủ nghĩa thoát ly với ước mơ hòa bình tràn ngập trong các sáng tác của
các họa sĩ miền Nam.
Trước năm 1975, mỹ thuật miền Bắc phát triển theo hướng hiện thực xã
hội. Tinh thần chiến đấu, làm việc vẫn được mô tả trong các tác phẩm tranh
vẽ của các họa sĩ kháng chiến. Những tác phẩm này trong mắt các nhà sưu
tầm nghệ thuật phản ánh những hoài niệm cho thời đại anh hùng của Việt
Nam.Giai đoạn từ 1975-1990, sau khi thống nhất đất nước, trong bối cảnh cả
nước vẫn sống trong nền kinh tế bao cấp tập trung, lực lượng họa sĩ xuất thân
từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô,
Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Trung Quốc, và từ các nước tư bản như Pháp,
Mỹ, Ý, Anh, Nhật… Từ năm 1975 đã hội tụ thành một dòng chảy lớn mà
thành tựu đã được ghi nhận bằng vô số những cuộc triển lãm lớn của cá nhân,
của nhóm,... và nhất là “Triển lãm mỹ thuật toàn quốc” mở đều đặn năm năm
một lần chứng tỏ con đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam khi đất
nước thống nhất đã được quan tâm hơn, chú trọng hơn rất nhiều, mở ra một
hướng đi lên mạnh mẽ. Mỹ thuật có dấu hiệu của sự chuyển mình từ một nền
mỹ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống hoà bình
xây dựng xã hội chủ nghĩa như tác phẩm: " Phố cổ " (Bùi Xuân Phái) đây là

tác phẩm được vẽ bằng sơn dầu, diễn tả một góc nhỏ phố cổ của Hà Nội, là đề
tài luôn được Bùi Xuân Phái say mê khám phá, sáng tác. Những cảnh phố


20
vắng với những đường nét xô lệch, mái tường rêu phong, những đầu hồi và
mái ngói đen sạm màu thời gian luôn xuất hiện trong tranh của ông. Ngoài
Bùi Xuân Phái, còn rất nhiều họa sĩ khác với các tác phẩm mang nội dung
cuộc sống hàng ngày bình dị: Điện về bản (Hà Cắm), Bộ đội về bản Mèo
(Trần Lưu Hậu), Ngày vui có Bác (Xuman)… Không riêng nội dung thay đổi
mà chất liệu mỹ thuật cũng đa dạng, phong phú hơn rất nhiều, các họa sĩ hầu
như không bị gò bó vào một khuôn khổ nào, họ thoả thích sáng tác, chất liệu
mỗi người một khác nhau: sơn dầu, phấn màu, mực nho, mực bột, sơn mài..
sự đa dạng của chất liệu, đã nâng cao phong phú cho các tác phẩm. Với sự
hoà nhập thực sự của nghệ sỹ hai miền Nam - Bắc và sự có mặt của các họa sĩ
lão thành đã góp phần làm cho mỹ thuật Việt Nam có sự phát triển, có sự tìm
tòi đổi mới nghệ thuật.
Sau đại hội Đảng thứ VI (1986) khẳng định đổi mới chiến lược cách
mạng mở cửa, làm bạn với các nước, chuyển dần sang kinh tế thị trường thì
mỹ thuật cũng cuốn vào dòng chảy này. Chỉ trong vòng 5 năm (1984 - 1989)
mà đã có 118 triển lãm của 3778 lượt tác giả trưng bày 8879 tác phẩm là cả
một sự " bung ra " với nhiều đề tài "đời thường ", thể loại tranh hoành tráng,
phong cảnh, tranh tĩnh vật… Các họa sĩ xâm nhập, sâu sát với xã hội, làng
xóm.. để lấy tình cảm hứng sáng tác tranh, có những tác phẩm rất mộc mạc
chân quê như tác phẩm: Vợ chồng người hàng nước, Ngày mùa ở Đông Anh
Hà Nội. Ngoài ra, còn có tác phẩm bằng lụa của Ngô Minh Cầu cùng đề tài
những con người nơi thôn quê.
Giai đoạn đổi mới (1990-2009), Bắt đầu từ cuộc trao đổi văn hóa Việt
Mỹ. Các họa sĩ Mỹ, và hoạ sĩ các nước vào Việt Nam triển lãm. Ngược lại,
các họa sĩ Việt Nam sang Mỹ và các nước tiên tiến trên thế giới triển lãm giao

lưu. Thời kỳ này là thời kinh tế thị trường mở cửa, Việt Nam gia nhập WTO,
giới họa sĩ tiếp cận nhiều thông tin, nhất là giới họa sĩ trẻ, đươc dịp khẳng
định mình, qua các trường phái Hậu Hiện Đại như Pop Art, Body Art, Trình


21
Diễn, Sắp Đặt… Cả ba miền đất nước: Huế, Sài Gòn, Hà Nội, bùng nổ triển
lãm tranh, tượng, cá nhân, nhóm, câu lạc bộ, Tòa soạn báo chí, Hội Mỹ Thuật
các nơi… Các gallerie mọc lên như nấm. Nhìn chung, các họa sĩ hiện đại đã
tìm cho mình một con đường riêng, thể hiện với một thái độ tình cảm trong
toàn tác phẩm, mỗi tác phẩm là một niềm vui lớn được nâng niu trân trọng.
1.3. Khái quát về đề tài đồng tính trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại
Sự xuất hiện của đề tài đồng tính
Trên thế giới, thời cổ đại, vấn đề đồng tính được ghi lại tương đối ít ỏi
và giản dị, chủ yếu trong tranh vẽ và hội họa trên những hình vẽ đồ đất nung.
Giá trị lịch sử của chúng là không thể phủ nhận như: Bảo tàng mỹ thuật
Boston, Hoa Kỳ, vẫn trưng bày những bình cổ Hy Lạp. Một bình có niên đại
4.900 năm trước CN, vẽ hình thần Zephir (Gió Tây) đang hoạt động tính giao
với chàng trai Hyacinth người phàm mà thần bắt cóc được (Hình 1.1). Thần
ôm quặp lấy chàng trai sấp mặt vào mình và chà đùi mình vào đùi người trẻ
tuổi. Tại một phòng trưng bày ở Munich, CHLB Đức, trên một mặt của một
chiếc bình hai quai cổ Hy - La, ta thấy một người lớn tuổi hơn đang sờ cằm và
dương vật của kẻ trẻ hơn mình. Nhiều nghệ sĩ tạo hình vẽ tranh minh họa cho
thần thoại về những mối tình đồng tính giữa các thần Hy - La cổ đại và người
trần mắt thịt.
Sự giằng xé giữa phủ nhận hay công nhận, vấn đề đồng tính dù sao
cũng đã được phản ánh trong nghệ thuật. Trong tranh của nhà điêu khắc kiêm
họa sĩ Đức bậc thày Albrecht Durer (1471-1528), bức Cái chết của Orphée,
vẽ năm 1494, hiện trưng bày ở Kunsthall, Hamburg (Hình 1.2) thể hiện thần
âm nhạc cổ đại Hy - La Orphée là vị thần kỳ bí nhất, có sức mạnh sáng tạo và

biểu diễn siêu phàm, khiến các vật vô tri cũng rung động. Cuộc sống yêu
đương của thần vô cùng phức tạp. Có vợ và xiết đỗi chung tình, thần vẫn
không cưỡng được đồng tính luyến ái. Về sau, vợ thần mất tích, thần cất công
tìm kiếm mãi, nhưng vẫn vô vọng. Thần bèn quyết sống độc thân. Bao phụ nữ


×