Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

YẾU tố THỜI đại TRONG NGHỆ THUẬT sắp đặt ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.34 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

LÊ BẢO NGỌC

YẾU TỐ THỜI ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT

Hà Nội, năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

LÊ BẢO NGỌC

YẾU TỐ THỜI ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60210102
Khóa: 18 (2015– 2017)



Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS Trang Thanh Hiền

Hà Nội, năm 2017


MỤC LỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư

TS

Tiến sĩ

Tr

Trang


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Danh mục chữ cái viết tắt
Mục lục

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........ 7
1.1. Một số thuật ngữ được sử dụng trong đề tài .............................................. 7
1.1.1. Khái niệm “yếu tố thời đại” .................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm về nghệ thuật sắp đặt ............................................................. 9
1.2. Sơ lược lịch sử nghệ thuật sắp đặt ........................................................... 12
1.2.1. Khái quát về lịch sử nghệ thuật sắp đặt trên thế giới ............................ 12
1.2.2. Nghệ thuật sắp đặt tại Việt Nam ........................................................... 15
1.2.3. Đặc điểm của nghệ thuật sắp đặt ........................................................... 18
CHƯƠNG 2. BIỂU HIỆN YẾU TỐ THỜI ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT
SẮP ĐẶT Ở VIỆT NAM ................................................................................ 21
2.1. Yếu tố được biểu hiện qua mảng đề tài về giới ....................................... 21
2.2. Yếu tố được biểu hiện qua mảng đề tài về môi trường và đời sống xã hội.... 29
2.3. Yếu tố được biểu hiện trong chủ đề về bản thể con người ...................... 37
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU YẾU TỐ THỜI ĐẠI
TRONG NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT Ở VIỆT NAM ...................................... 43
3.1. Giá trị thời đại trong nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam ............................... 43
3.2. Bài học rút ra từ nghiên cứu yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp đặt ..... 46
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 53
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 58


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sắp đặt là một loại hình nghệ thuật trong nghệ thuật Đương đại. Nghệ
thuật sắp đặt là loại tác phẩm đặc biệt, không có giới hạn về chất liệu, nó sử
dụng không gian, môi trường, ánh sáng, âm thanh, vị trí… biến tất cả thành tác
phẩm nhằm biểu đạt nội dung ý tưởng của nghệ sỹ.

Mỗi giai đoạn nghệ thuật luôn có những đặc thù do sự quy định của lịch
sử, đời sống tinh thần, ý thức nghệ thuật và khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ.
Sự biến đổi của yếu tố thời đại đã làm thay đổi một số quan niệm sáng tác và
mang lại nhiều sắc thái cho nghệ thuật Đương đại. Nếu như ở vào thời kỳ chiến
tranh, hình tượng những người lính, người nông dân, người phụ nữ… hừng hực
tinh thần chiến đấu, thường là nguồn cảm hứng sáng tác chủ yếu của thế hệ các
họa sĩ thời kỳ đó. Thì kể từ sau 1990 trở lại đây, khi nước ta thực sự bước vào
thời kỳ đổi mới, mở cửa. Thì sự đổi mới mang tính căn bản của thời đại mới này
cũng tác động mạnh mẽ quyết liệt tới tư tưởng, quan niệm, mỹ cảm của nhiều
họa sĩ. Điều đó cũng thôi thúc nhiều họa sĩ tìm tòi cái mới trong nghệ thuật như
Vũ Dân Tân, Trương Tân, Nguyễn Minh Thành, Trần Lương… Họ tách mình ra
khỏi những cách thức biểu hiện đầy tính ước lệ truyền thống và đi tìm hướng thể
nghiệm nghệ thuật mới như làm sắp đặt, trình diễn…
Trong khi đó, người nghệ sỹ cần phải biết rõ hơn đời sống xã hội của thời
đại, đem sự nhạy cảm tinh tế vốn có trong tâm hồn cuả người làm nghệ thuật để
cảm nhận, để sống, để thấu hiểu những bi- hỉ của con người trong thời đại, và
những thăng trầm lịch sử… để đồng cảm và biến nó thành nguồn cảm hứng cho
những đứa con tinh thần của chính mình.
Mỗi thời đại qua đi đều mang trong mình những đặc thù nghệ thuật phản
ánh đặc tính thời đại của nơi sản sinh ra nền nghệ thuật đó. Hồ Chí Minh từng
nói: “Xã hội thế nào văn nghệ thế ấy”. Thật vậy, thời đại không chỉ có tác động
to lớn đến văn hóa nghệ thuật mà còn tác động trực tiếp đến tư tưởng, phong


2
cách nghệ thuật của người nghệ sỹ. Nếu có những trường phái nghệ thuật ra đời
phủ nhận sự không hợp lý của một thể chế xã hội thì tác phẩm của họ vẫn phản
ánh xã hội đó. Do đó, nghệ thuật dù ở trạng thái nào cũng sẽ không khước từ
tính thực tế xã hội, và những nét đặc thù văn hóa của dân tộc ấy mang đậm hơi
thở đặc trưng của thời đại đó.

Nghệ thuật đương đại có thể hiểu như là “tác phẩm nghệ thuật đã, đang và
tiếp tục được tạo nên trong suốt cuộc đời chúng ta…” với rất nhiều loại hình
nằm trong nó. Vì thế, khi xét đến yếu tố thời đại trong nghệ thuật, người viết tập
trung tìm hiểu yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp đặt và giới hạn ở Việt Nam.
Thế nhưng, xét về mặt lý luận thì ở Việt Nam hiện nay chưa có các công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào đề cập rõ hơn đến vấn đề thời đại ảnh hưởng trong
nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam, nên việc lý giải yếu tố thời đại ảnh hưởng đến
các nghệ sĩ làm sắp đặt lại càng phức tạp, khó khăn hơn.
Người viết chọn đề tài này xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, hiện nay xu hướng các nghệ sĩ trẻ tập thực hành làm nghệ thuật
sắp đặt nói riêng, làm các loại hình nghệ thuật đương đại nói chung ngày càng
nhiều. Dựa vào công nghệ, các trang mạng, truyền thông… các nghệ sĩ có thể dễ
dàng học hỏi, tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật trên thế giới. Chính vì sự tiếp
nhận dễ dàng nhanh chóng và nhiều luồng văn hóa thông tin thông qua các trang
mạng xã hội nên nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là nghệ sĩ trẻ khó lí giải, nắm bắt sâu sắc
toàn diện về bản chất thực của nhiều tác phẩm nghệ thuật cũng như ý đồ của tác
giả. Mà chỉ là sự học hỏi cảm tính, bắt trước. Nên việc nghiên cứu đề tài này
cũng nhằm để hiểu rõ hơn và có cái nhìn tổng quan hơn khía cạnh xã hội tác
động tới quan niệm sáng tác, thái độ của các nghệ sĩ làm sắp đặt ở Việt Nam. Từ
đó tạo điều kiện để hiểu rõ hơn xu thế phát triển của hình thức nghệ thuật này ở
Việt Nam trong tương lai.
Thứ hai, xuất phát từ sở thích và tò mò của người viết. Được tìm hiểu các
nghệ sĩ, biết được phong cách độc đáo và lí giải được yếu tố thời đại ảnh hưởng


3
đến nghệ thuật của các nghệ sỹ là công việc vô cùng thú vị. Qua đó người viết
có thể học được nhiều điều và suy ngẫm về con đường tiếp theo mình nên đi với
tư cách của một người học nghệ thuật.
Cuối cùng, việc tìm hiểu nghiên cứu yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp

đặt ở Việt Nam sẽ đưa ra những bài học giúp người học nghệ thuật, đặc biệt các
nghệ sỹ trẻ tập thực hành nghệ thuật tìm được phong cách, tiếng nói riêng mang
hơi thở thời đại. Đồng thời tạo được hình ảnh riêng biệt của nghệ thuật đương
đại Việt Nam không lẫn với quốc gia nào.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài tập trung vào các mảng chính: Yếu tố thời đại trong
nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam.
Trong khi, trên thế giới có số lượng lớn các công trình nghiên cứu, sách,
catalog triển lãm, phim ảnh… giới thiệu về những hoạt động của nghệ thuật sắp
đặt, thì ngược lại ở Việt Nam những công trình nghiên cứu, bài viết về nghệ
thuật sắp đặt không nhiều, có chăng thì chỉ dừng lại ở những bài viết chung
chung, hay vài cuốn sách dịch, hoặc được tổng hợp lại. Cũng có nhiều bài viết
đơn lẻ thay vì thực hiện vai trò thúc đẩy, gợi mở hướng phát triển tốt nhất cho
sáng tác, thì chỉ là những quanh quẩn khen chê tác giả này, tác phẩm kia một
cách chung chung.
Các công trình nghiên cứu và các bài viết về nghệ thuật sắp đặt Việt Nam
- Bùi Như Hương - Trần Hậu Tuấn “Hội họa mới Việt Nam thập kỷ 90”
2001, có đề cập sơ lược một số cá nhân, sự kiện nghệ thuật sắp đặt và trình diễn
ở Việt Nam, nhưng không phân tích.
- Cynthia Freeland, sách “Thế mà là nghệ thuật ư?” 2009, dịch giả: Như
Huy, diễn giải các quan niệm nghệ thuật đương đại và có đề cập đến những cách
thực hành khác nhau trong nghệ thuật đương đại.
- Tác giả Đào Mai Trang chủ biên, sách “12 nghệ sĩ mỹ thuật đương đại
Việt Nam” 2010, có đề cập đến chân dung một số nghệ sĩ làm sắp đặt nổi bật


4
như Trần Lương, Ly Hoàng Ly, Phạm Ngọc Dương, …
- Sách “Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990-2010” 2013 của Bùi Như
Hương và Phạm Trung đã khái quát những xu hướng chính của nghệ thuật

đương đại Việt Nam và đề cập riêng từng loại hình, trong đó cũng nêu đặc điểm
của những nghệ sĩ làm sắp đặt được cho là nổi bật.
- Tác giả Đinh Gia Lê trong cuốn “Tìm hiểu nghệ thuật đương đại Việt
Nam” 2016, đề cập đến thuật ngữ Nghệ thuật đương đại, nêu ra một số đặc trưng
của nghệ thuật đương đại, đồng thời nhấn mạnh vào phân tích những đặc trưng
riêng của từng loại hình nghệ thuật: sắp đặt, trình diễn, video art…
- Nội san Nghiên cứu mỹ thuật số 2 (14) tháng 7-2005 chuyên đề hình
thức và chất liệu trong nghệ thuật đương đại có nhiều bài viết của nhiều tác giả
Bùi Như Hương, Phạm Trung, Trần Lương,…đề cập đến hoạt động nghệ thuât
sắp đặt trên thế giới và Việt Nam.
- Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên báo, các trang mạng của các
tác giả Như Huy, Phạm Long… viết về nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu và các bài viết về yếu tố thời đại.
Để tạo nên một hệ thống lý thuyết cho việc nghiên cứu đề tài, người viết
tham khảo thêm một số sách, tạp chí đề cập đến tính thời đại thì có một số sách
trong lý luận văn học.
- Vương Kim Tồn, Lý Trung Kiệt, Tiêu Phong “Nhận thức về thời đại và
thế giới đương đại” do Nguyễn Vinh Quang dịch, Vũ Văn Hiền tuyển chọn.
Nội dung chính là tìm hiểu về những quan điểm của các học giả ở các nước
khác nhau có góc nhìn chính trị, nghiên cứu về các vấn đề thời đại ngày nay,
cũng như cách tiếp cận mới về quan niệm, nội dung, tính chất của thời đại.
- Bài trích của Mikhailov .A.V “Về khái niệm thời đại Văn học” La Khắc
Hào dịch. Đề cập tới các khái niệm nghiên cứu văn học đưa người đọc vượt ra
ngoài giới hạn của chính văn học và hướng họ đến thẳng với đời sống. Trong đó
những khái niệm vẫn được lịch sử văn học sử dụng để chỉ các thời đại, khuynh


5
hướng, trào lưu…
3. Mục đích của luận văn

Với đề tài này, người viết muốn hướng đến những mục đích cụ thể như sau:
- Đề tài nghiên cứu yếu tố thời đại thể hiện ra trong nghệ thuật sắp đặt.
- Chỉ ra những nội dung của yếu tố thời đại trong các tác phẩm sắp đặt.
- Tìm hiểu những cách thức biểu hiện yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp đặt.
- Đánh giá những ảnh hưởng của yếu tố thời đại đến tư duy nghệ thuật của
bất cứ người học và làm nghệ thuật nào.
- Rút ra những bài học sâu sắc cho cá nhân trên con đường sáng tác nghệ
thuật.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: yếu tố thời đại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu các tác phẩm sắp đặt trong
khoảng thời gian từ 1995 đến 2016, nhằm thấy rõ yếu tố thời đại trong nghệ
thuật sắp đặt tại Việt Nam. Đồng thời cũng đề cập tới một số các tác phẩm sắp
đặt của một số nghệ sĩ tiêu biểu trên thế giới để phân tích, so sánh nhằm thấy
được nét riêng biệt mang yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam từ
1995 đến 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này người viết sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau:
- Phương pháp văn bản học: tham khảo các công trình nghiên cứu, những
bài viết của các tác giả và lấy ý kiến của mọi người về yếu tố thời đại trong nghệ
thuật nói chung và nghệ thuật sắp đặt nói riêng. Sau đó, bằng hiểu biết và kinh
nghiệm bản thân, suy luận để chỉ ra lý thuyết chung về yếu tố thời đại trong
nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: phân tích các tác phẩm sắp đặt tiêu
biểu của các nghệ sĩ bằng cách nghiên cứu văn bản, tổng hợp, thu thập thông


6
tin, phân loại các thông tin nghệ thuật trên sách báo, tài liệu trong thư viện,

internet.
- Phương pháp liên ngành: tìm hiểu các vấn đề chính trị, lịch sử, xã hội
học, nghệ thuật học… nhằm thấy được sự liên hệ và dấu ấn của các vấn đề này
trong thời đại hiện nay và tác động của nó đối với nghệ thuật sắp đặt.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Qua kết quả nghiên cứu đề tài, bước đầu góp phần bổ sung tư liệu nghiên
cứu về nghệ thuật sắp đặt tại Việt Nam cho người đang học và tập thực hành làm
nghệ thuật đương đại.
- Đồng thời là nguồn tư liệu cung cấp những cơ sở khoa học phục vụ cho
các nghiên cứu khác về nghệ thuật đương đại Việt Nam.
- Chỉ ra những giá trị nghệ thuật của yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp đặt.
- Góp phần cho việc sáng tác sau này của cá nhân người viết.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của đề tài nghiên cứu ngoài phần Mở đầu (6 trang), Kết luận (2
trang), Tài liệu tham khảo (3 trang) và Phụ lục (23 trang), nội dung chính được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (14 trang).
Chương 2: Nghiên cứu yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam
(21 trang).
Chương 3: Đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời đại đối với nghệ thuật sắp
đặt ở Việt Nam (8 trang).


7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1.

Một số thuật ngữ được sử dụng trong đề tài


1.1.1. Khái niệm “yếu tố thời đại”
Khi nhắc tới thời đại nghĩa là đang nhắc tới những điều kiện lịch sử,
những hiện trạng chính trị xã hội, là nhắc tới nhịp sống thời đại, hơi thở thời đại,
không khí thời đại, hay tinh thần chung của thời đại đó. Và yếu tố này trực tiếp
tác động đến nền nghệ thuật đương đại nói chung để tạo ra bộ mặt tinh thần tiêu
biểu cho nền nghệ thuật trong thời đại ấy.
Trước khi đưa ra được khái niệm về “yếu tố thời đại” ta cần làm rõ khái
niệm “yếu tố” và “thời đại”. Trong Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học đã
định nghĩa: yếu tố là “1. Bộ phận cấu thành một sự vật, sự việc, hiện tượng. 2.
Như một nhân tố”. Vậy, yếu tố ở đây có thể được hiểu là một thành phần trong
một sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó mà trong đó yếu tố còn được coi như là
một nhân tố. Trong một sự vật sự việc hay hiện tượng có thể có nhiều yếu tố cấu
thành nên sự vật, hiện tượng ấy. Chẳng hạn như nói đến phong cách của người
nghệ sĩ, phong cách của một người nghệ sĩ được hình thành, hoàn thiện và ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như thời đại, dân tộc, quê hương, gia đình…
Cũng trong Từ điển tiếng Việt, “thời đại” được định nghĩa như sau: “1.
Danh từ: là khoảng thời gian lịch sử dài, được phân chia ra theo những sự kiện
có đặc trưng giống nhau: thời đại đồ đá, thời đại văn minh, thời đại phong kiến.
2. Tính từ: sự kiện hiện tượng có tính chất tiêu biểu cho thời đại, có ý nghĩa cho
thời đại, mang tầm vóc thời đại”.
Trong Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học lại đưa ra định nghĩa rằng
“Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt
những nấc thang xã hội loài người. Các ngành khoa học khác nhau có cách phân
chia thời đại lịch sử khác nhau”. Lịch sử phát triển xã hội của mỗi quốc gia, mỗi


8
dân tộc thường được đo bằng những biến chuyển, những thay đổi có tính bước
ngoặt được bắt đầu bằng những sự kiện đặc biệt báo hiệu sự chuyển hóa về chất

của đời sống xã hội xuất phát từ những tiêu chí, góc độ khác nhau mà có rất
nhiều cách phân chia và cách hiểu về thời đại: dựa trên tiêu chí kỹ thuật (thời đại
đồ đá, đồ đồng, thời đại khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin…); dựa theo
những yếu tố đặc thù của xã hội (thời đại phong kiến, mông muội, thời đại văn
minh…); hoặc phân chia theo nền văn hóa (văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập, đạo
giáo, nho giáo, văn minh phương Tây, văn minh nông nghiệp, công nghiệp, hậu
công nghiệp…).
Theo các nhà triết học kinh điển của chủ nghĩa Marx- Lenin đã xem xét
vấn đề thời đại một cách khoa học và phân chia khái niệm thời đại theo hai
phần, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “thời đại là một khái niệm
chính trị- kinh tế- xã hội khái quát tiến trình phát triển của xã hội loài người, là
thời gian rất dài để phân kỳ lịch sử xã hội và để phân biệt những nấc thang phát
triển của hình thái kinh tế xã hội mà theo đó nấc thang cao hơn, tiến bộ hơn sẽ
phủ định nấc thang cũ, lạc hậu để mở đường cho sự phát triển một thời đại mới”.
Theo nghĩa hẹp “Thời đại là khái niệm về thời gian để chỉ xu thế và nội dung
phát triển trên các phương diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, công
nghệ…”
Như vậy, ta có thể phát biểu rằng: Yếu tố thời đại nói chung là một bộ
phận cấu thành những sự vật, hiện tượng, hoặc là nhân tố có tính chất tiêu biểu
cho thời đại, có ý nghĩa cho thời đại, mang tầm vóc thời đại.
Mỗi thời đại qua đi, dù dài ngắn có khác nhau, nhưng vẫn luôn để lại
những cột mốc, những dấu ấn và những dấu ấn ấy đã tạo nên gương mặt của thời
đại đó. Mỗi thời đại khác nhau lại mang những dấu ấn độc đáo riêng biệt mà các
thời đại trước và sau đấy không thể có được. Điều đó được nhìn thấy rất rõ trong
nghệ thuật. Thời đại có tác động rất lớn đối với nghệ thuật, đồng thời ảnh hưởng
trực tiếp đến tư tưởng, tinh thần của những người nghệ sĩ. Mỗi thời đại, nơi


9
chốn, cộng đồng, hoàn cảnh cụ thể nào đó thường nảy sinh ra những khái niệm

nghệ thuật khác nhau, và chính sự khác nhau đó sẽ sản sinh ra những hình thức
thực hành nghệ thuật khác nhau mang đúng tinh thần tính cách của từng thời đại.
Vậy, yếu tố thời đại trong nghệ thuật là một cột mốc có thể tác động rất
lớn đến người nghệ sĩ, đôi khi làm thay đổi phong cách, cách nhìn nhận, tư duy
của người nghệ sĩ. Đồng thời chính sự vận động và phát triển của nghệ thuật
đương đại là do sự ảnh hưởng và tác động của yếu tố thời đại đem lại.
Plekhanov từng nói: “nếu không hiểu tâm lý xã hội thì không thể tiến thêm một
bước nào trong lịch sử văn nghệ, nghệ thuật…” Có nghĩa rằng nếu đã làm công
việc thượng tầng kiến trúc thì việc đầu tiên là phải hiểu thời đại mình đang sống.
Trong đó đời sống nghệ thuật càng không thể tách rời khỏi những biến động của
xã hội đó.
1.1.2. Khái niệm về nghệ thuật sắp đặt
Nghệ thuật sắp đặt (installation art) trước hết là một trong những hình thái
của nghệ thuật ý niệm (conceptual art- chữ nghệ thuật ý niệm được đưa ra bởi
Henry Flynt, lần đầu đầu tiên trên bài viết Concepts art trong tập san Anthology,
1963). Nghệ thuật sắp đặt cùng với những loại hình nghệ thuật khác như trình
diễn (performance art), video art, body art, happening…được coi là những trào
lưu quan trọng nhất của nghệ thuật đương đại, với mục tiêu phi vật chất hóa.
Nghệ thuật sắp đặt quan tâm chủ yếu tới tiến trình của tác phẩm và ý đồ của tác
giả, tiếp cận trực tiếp đến khán giả, người xem có khả năng tương tác với tác
phẩm, nó quay lưng lại với mọi quy tắc của nghệ thuật truyền thống.
Bàn về khái niệm “nghệ thuật sắp đặt” trước hết ta cần tiếp cận cụm từ
“sắp đặt” trong tiếng Việt. Theo như Từ điển tiếng Việt cuả nhà xuất bản Khoa
học xã hội: “sắp đặt là đặt đâu ra đấy, có quy củ”. Chẳng hạn, trong cuộc sống
hàng ngày con người có ý thức sắp đặt mọi lĩnh vực đời sống: ăn, ở, đi lại, học
tập, lao động…sự sắp đặt đó là sắp xếp để cuộc sống trở nên tiện dụng hơn cũng
như đáp ứng về mặt thẩm mĩ. Hay như trong những ngôi đền, đài, đình,


10

chùa…của ta, việc sắp đặt vị trí các tượng Phật, ông thần, bà chúa…trang trí bục
bệ, cột kèo, bục bệ ở mỗi nơi như thế nào đều phải tuân theo luật lệ, ý nghĩa,
công dụng của chúng nhằm mục đích sử dụng, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, tâm
linh và có thể đảm bảo vẻ uy thần tôn nghiêm của các chư vị thần phật. Vậy, sắp
đặt là một cụm từ thường trực trong cuộc sống hàng ngày.
Trên thế giới, mặc dù hình thức nghệ thuật sắp đặt đã xuất hiện từ đầu thế
kỷ 20, nhưng mãi cho đến năm 1967 Dan Flavin mới đưa ra một tên gọi cụ thể
cho thể loại nghệ thuật này là Installation art và đến Việt Nam cụm từ này được
Nguyễn Quân chuyển sang tiếng Việt là Nghệ thuật sắp đặt. Có thể hiểu, nghệ
thuật sắp đặt là loại tác phẩm đặc biệt được sắp đặt tại một vị trí không phải chỉ
trên tường mà trên cả sàn nhà, trong một không gian được lựa chọn, xâm chiếm
và cải tạo không gian đó biến nó thành một phần quan trọng của tác phẩm.
Cho tới nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể duy nhất nào về nghệ thuật
sắp đặt (Installation art). Loại hình nghệ thuật này có thể được mô tả như là một
không gian thực được tạo nên từ nhiều yếu tố. Mỗi tác phẩm của loại hình nghệ
thuật này bao gồm một khối lượng vật thể tùy từng ý đồ mang tính tổng hợp và
được nghệ sĩ sắp đặt trong một không gian cụ thể và đương nhiên tác phẩm sẽ bị
thay đổi về mặt nội dung hay ý nghĩa nếu như không gian cũng bị thay đổi, vì
vậy, không gian đối với một tác phẩm sắp đặt chiếm một vai trò quan trọng.
Điều đặc biệt khác biệt của tác phẩm sắp đặt là chỗ người xem có thể len lỏi vào
trong tác phẩm, được tương tác với tác phẩm, được cảm nhận hoàn toàn tác
phẩm, thông qua các giác quan và kinh nghiệm sống của chính họ, họ được tự
mình cảm nhận và thấu hiểu phần nào tác phẩm đó.
Trên thế giới có một vài định nghĩa về nghệ thuật sắp được đưa ra như sau:
Julie H. Reiss: “Đặc tính của nghệ thuật sắp đặt nằm ở điểm, người nghệ
sĩ sẽ tạo ra một không gian mang tính cá nhân thông qua việc sắp xếp nhiều yếu
tố được tạo ra đủ lớn để có thể có thể thử nghiệm với những trạng thái cơ thể
của người tham dự” [11, tr31].



11
Sotirios Bahtsetzis đã đưa ra định nghĩa trong luận văn tiến sĩ năm 2005:
“Nghệ thuật sắp đặt như một thể loại tạo dựng trạng thái cảm nhận… sự tự do
hóa hình thức không gian trưng bày trong khuôn khổ các thiết chế nghệ thuật đã
dẫn tới việc phá vỡ ranh giới cấu trúc vật thể trong các tác phẩm nghệ thuật”
[11, tr32].
Kaprow lại định nghĩa về nghệ thuật sắp đặt như sau: “Installation là
Không gian, sự tham dự của người xem cũng như sự tương tác giữa tác phẩm và
người thưởng thức. Nghệ thuật sắp đặt sẽ trở thành làn da thứ hai cho chủ thể xã
hội đương đại, chủ thể này sẽ trao cho tác phẩm một ý nghĩa chỉ khi nó bước
chân vào trong tác phẩm” [11, tr35].
Còn ở Việt Nam, tác giả Nghiêm Thị Thanh Nhã đưa ra định nghĩa trong
bài viết “Nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam” của mình: “Nghệ thuật sắp đặt là một
sáng tạo không gian ba chiều và một đặc điểm của nó là đòi hỏi phải có tính
tổng thể, phải co mối liên hệ với thế giới. Có lẽ được nhìn thấy rõ ràng nhất
trong nghệ thuật sắp đặt là địa điểm đặc trưng… Địa điểm đặc trưng liên quan
đến tỉ lệ, ánh sáng, hình…” [29].
Khi hỏi về nghệ thuật sắp đặt, trong bài phỏng vấn của Lê Mỹ Ý “Nghệ
thuật sắp đặt và tương lai của nó tại Việt Nam” [37] các nhà phê bình mỹ thuật,
các họa sĩ đã đưa ra một vài định nghĩa về nghệ thuật sắp đặt tuy vẫn còn chung
chung nhưng ta cũng có thể nhìn vào đó để tham khảo và hiểu hơn về nghệ thuật
sắp đặt theo cách hiểu và thực hành của người Việt là như thế nào.
Nhà phê bình Mỹ thuật Nguyễn Quân: Nghệ thuật sắp đặt xuất hiện trên
thế giới khoảng 50 năm nay và khởi nguồn từ việc bày các vật có sẵn với cả mớ
ý tưởng cách tân khác của Pop art hay happening art, Installation art đã trở thành
kẻ chiếm đoạt không gian đáng sợ nhất ở các triển lãm và hội chợ mỹ thuật trên
thế giới.
Nhạc sĩ Quốc Bảo: Được xem là nhánh tích cực nhất của xu hướng hậu



12
hiện đại, sắp đặt mang vác trên vai nó gần như toàn bộ hành trang mỹ học của
xu hướng này. Có thể kể đó là việc chọn nguyên liệu là vật thể thay vì “tinh
thể”, xem phó bản là nguyên bản, tinh thần phủ nhận các giá trị truyền thống,
tính chất tạm thời.
Họa sĩ Trần Lương: Thực ra những loại hình nghệ thuật đương đại này
không phải là từ phương Tây và quá mới mẻ như cách hiểu nhầm của số đông
hiện nay. Installation, Performance…, những loại hình nghệ thuật này không
phải là sự vọng ngoại gì cả. Vườn đá, vườn Bonsai có từ thời cổ, xuất hiện ở các
nước châu Á trước cả châu Âu. Đây chính là nghệ thuật sắp đặt và đã đi vào đời
sống từ thời phong kiến, đã thành nếp văn hóa. Chính vì những loại hình nghệ
thuật đó không phải là mới nên tôi nghĩ đó chỉ là phương tiện thôi. Nghệ thuật
luôn nắm bắt lấy những phương tiện mới, để nói lên cái nhìn của mình, từ đó
làm ra truyền thống mới.
Vậy, người viết xin đưa ra khái niệm về nghệ thuật sắp đặt như sau: Nghệ
thuật sắp đặt là loại hình sáng tạo mang tính tổng hợp và phù du, phụ thuộc vào
một không gian thực và được tạo dựng bằng mọi loại chất liệu, có thể sử dụng
nhiều hình thức, phương thức và kĩ thuật biểu hiện để tạo ra một tác phẩm sắp
đặt như ý, tạo hiệu quả thị giác cao, khả năng tương tác giữa người xem và tác
phẩm cao. Ý nghĩa của tác phẩm thay đổi khi không gian bị thay đổi.
1.2.

Sơ lược lịch sử nghệ thuật sắp đặt

1.2.1. Khái quát về lịch sử nghệ thuật sắp đặt trên thế giới
Lịch sử của nghệ thuật sắp đặt trong thế kỷ XX, theo nhà nghiên cứu
Roselle Goldberg chính là lịch sử của thể loại chất liệu có khả năng mở ra vô số
hình thức được thực hành bởi những nghệ sĩ đã hết kiên nhẫn với các giới hạn
cũ kỹ và truyền thống luôn luôn bảo thủ không bắt kịp với đời sống đương đại.
Ở Phương Tây, hình thức nghệ thuật này đã tồn tại và phát triển trên hơn

nửa thế kỷ và có lẽ điểm khởi đầu của nghệ thuật này bắt nguồn từ tác phẩm


13
“Bicycle wheel” của Marcel Duchamp triển lãm tại Philadenphia Museum of art
năm 1913, có thể nói đây chính là tác phẩm thực thể (ready mades) đầu tiên, khi
đưa vật những vật dụng bình thường trong đời sống hàng ngày được tái tạo và
đem vào nghệ thuật. Sau “Bicycle wheel” họa sĩ còn đưa ra nhiều tác phẩm thiết
thực khác. Đặc biệt là tác phẩm gây tiếng vang lớn cho đến tận giờ là tác phẩm
mang tên “Fountain” năm 1917, tác phẩm này họa sĩ sáng tác chung với họa sĩ
người Mỹ tên là Joshep Stella (tại nhà triển lãm Society of Independent Artists,
NewYork. Qua tác phẩm đó ông đã tạo ra một tư tưởng mới, cái nhìn mới về vật
thể sắp đặt. Các tác phẩm dị hợm khó hiểu và kì lạ cùng với sự chối từ hoàn toàn
của ông đối với nghệ thuật truyền thống thông thường, ông giống như một nghệ
sĩ có cái nhìn mới mẻ cộng thêm tư tưởng khác lạ của mình đối với một thực thể
quen thuộc, từng hiện hữu. Hàng loạt các tác phẩm Ready mades là sự tìm cách
xác định lại nghệ thuật, sau này lại trở thành một trong những ý tưởng cơ bản
của họa phái Dada. Quan điểm của Marcel Duchamp về nghệ thuật phải là một
biểu hiện của tâm chứ không phải là vỏ bề ngoài. Đã mở đường cho một kỷ
nguyên mới. Joseph Kosuth đã kết luận rằng “Tất cả nghệ thuật (sau Duchamp)
đều mang tính khái niệm và nghệ thuật chỉ tồn tại theo khái niệm”. Việc đối xử
một cách cực đoan của Marcel Duchamp về các thể chế nghệ thuật đã đẩy ông
trở thành một hình tượng như kiểu anh hùng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ và họ cũng
dần từ chối việc đi theo nghệ thuật truyền thống. Chính điều đó đã ảnh hưởng tới
các phong trào tiên phong ở thế kỷ XX, như Pop art, Fluxus, Arte povera… vào
cuối thập niên 1950 đầu 1960. Khuynh hướng nghệ thuật sắp đặt thực sự bùng
nổ tại Mỹ và châu Âu giai đoạn 1970. Thời kỳ này được coi là sự thúc đẩy sáng
tạo sắp đặt một cách đa dạng. Các họa sĩ quan tâm đến dạng nghệ thuật này ngày
càng nhiều.
Nghệ thuật sắp đặt gắn liền với chủ nghĩa Hậu hiện đại (Post

moderninsm). Chủ nghĩa hậu hiện đại đã ảnh hưởng bao chùm lên tư tưởng sáng
tác của rất nhiều nghệ sĩ đương đại. Nói qua về thuật ngữ “Hậu hiện đại”, nó


14
được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1870 của họa sĩ người Anh John Watkins
Chapman “phong cách hậu hiện đại của một bức tranh mới như một cách để
vượt qua trường phái ấn tượng Pháp”. Triết gia người Anh J.M. Thompson đã
viết trên tạp trí Hibbert: “Lý do Hậu hiện đại tồn tại là để thoát khỏi tâm hồn vô
tư của chủ nghĩa hiện đại bằng cách lựa chọn kỹ lưỡng trong sự chỉ trích của
mình cho sự mở rộng nó để tôn giáo cũng như thần học, hay để cho cảm giác về
công giáo hiện đại cũng như công giáo truyền thống”.
Có thể hiểu sơ về chủ nghĩa hậu hiện đại là một thuật ngữ mô tả phong
trào hậu hiện đại trong nghệ thuật, đề ra những xu hướng văn hóa và các phong
trào văn hóa nói chung của sau thời hiện đại. Nó giải thích một cách bao quát về
sự hoài nghi, sự mất lòng tin về các lý thuyết và các hệ tư tưởng có liên quan đến
văn học, nghệ thuật, phản ứng chống lại các nguyên tắc truyền thống và hiện đại.
Nghệ thuật sắp đặt là một trào lưu đầy tính cách mạng đối với nghệ thuật
hậu hiện đại, và trở thành một trong những loại hình của nghệ thuật đương đại.
Nghệ thuật đương đại không chỉ là được sử dụng để gọi tên về mặt thời gian của
hiện tại mà còn để phân biệt về mặt hình thức với những loại hình nghệ thuật
khác nhau đã và vẫn cùng đồng hành tiến triển ở giai đoạn hiện tại. Trong từ
điển Dictionary.com còn có một số định nghĩa về nghệ thuật đương đại: “Nghệ
thuật đương đại như công việc của các nghệ sĩ đang sống trong thế kỷ XXI”,
“Nghệ thuật đương đại là của 20% vào cuối thế kỷ XX và 5% vào đầu thế kỷ
XXI là kết quả tự nhiên và một sự từ chối nghệ thuật hiện đại”.
Mặt khác, cũng giống như các loại hình nghệ thuật truyền thống, nghệ
thuật sắp đặt luôn bị sự tác động bởi chính sự vận động của cuộc sống đương
đại, chỉ có điều nghệ thuật sắp đặt là dạng nghệ thuật thực hành coi trọng tiến
trình và nó không biểu lộ bằng đặc điểm của quá trình thực hành kỹ thuật giống

như các trường phái của hội họa giá vẽ. Nó mang tinh thần muốn xóa nhòa ranh
giới giữa nghệ thuật và đời sống, phủ nhận tính nguyên bản của tác phẩm nghệ
thuật và vai trò chủ thể trong sáng tạo của người nghệ sĩ, cùng với thái độ giễu


15
nhại thậm trí phủ nhận những hiện thực xã hội.
Đặc biệt đáng chú ý về mặt hình thức trong nghệ thuật sắp đặt ta thường
thấy có hai dạng sắp đặt. Đó là nghệ thuật sắp đặt không gian, không gian ở đây
được hiểu như là không gian tự thân (không gian này gần với nghệ thuật môi
trường) và không gian mà tác phẩm phụ thuộc (không gian này gần với dạng
nghệ thuật địa hình); thứ hai là nghệ thuật sắp đặt ý niệm.
Trong cuốn “Kỷ nguyên nghệ thuật Hậu hiện đại” Irving Sumdller có viết
thế này: “… sự loạn trí được cảm nhận bởi rất nhiều nghệ sĩ cùng với khối lượng
lớn công chúng cùng thế hệ. Nhiều nghệ sĩ đã chối bỏ loại nghệ thuật theo xu
hướng vật thể hóa để ủng hộ thể loại nghệ thuật chú trọng tới tiến trình (process)
không kết thúc và không sản phẩm, sử dụng những chất liệu có sẵn hoặc không
bền vững, và đa chất liệu. Khi từ chối làm nghệ thuật theo cách truyền thống thì
họ săn tìm những trào lưu nghệ thuật mới. Những trào lưu đó sẽ được hình thành
thông qua chính kinh nghiệm của họ, nghệ thuật của họ bắt nguồn từ tính không
nguyên tắc, không có ranh giới và có căn cội chính trị…”.
Cho đến thập kỷ 1990 cũng là thời kỳ phát triển đột khởi của nghệ thuật
đương đại ở Trung Quốc, với trào lưu nghệ thuật đại chúng, xu hướng chính trị.
Các nghệ sĩ tiên phong trong trong những trào lưu này đã tích cực vận dụng một
trong những công cụ vô cùng mạnh mẽ của nghệ thuật đương đại là nghệ thuật
sắp đặt để diễn tả cảm xúc hay thái độ chính trị của họ trước xã hội.
Nghệ thuật sắp đặt xuất hiện và trở thành công cụ mạnh mẽ gắn kết các lý
thuyết văn hóa mới cũng như những chủ đề liên quan đến toàn cầu hóa.
1.2.2. Nghệ thuật sắp đặt tại Việt Nam
Sau khi đất nước thống nhất (1975) và nhất là từ khi chính sách mở cửa

giao lưu hội nhập quốc tế thì tình hình kinh tế văn hóa xã hội Việt Nam có phần
khởi sắc tạo điều kiện cho nghệ thuật có cơ hội bùng nổ, ngày càng trở lên đa
dạng, màu sắc hơn. Giữa những năm 90 cuối thế kỷ XX bên cạnh hội họa và
điêu khắc vẫn phát triển đều đều thì sự xuất hiện của một số hình thái nghệ thuật


16
mới và lạ lẫm đối với đại đa số công chúng cũng như giới nghệ sĩ Việt Nam như
Video art, nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn…Thực tế là các loại hình
nghệ thuật này quá mới mẻ bởi đặc tính và nhiều sự khác biệt so với nghệ thuật
hàn lâm thời điểm ấy còn đang thịnh vượng ở Việt Nam.
Nghệ thuật sắp đặt cùng với một số loại hình nghệ thuật được cho là
đương đại khi xuất hiện tại Việt Nam đã mang đến những màu sắc không khí
mới lạ đối với công chúng và ngay cả với bản thân các nghệ sĩ. Bằng loại hình
nghệ thuật mới mẻ cùng khả năng biểu đạt vô hạn của nó, người nghệ sĩ có thể
thỏa sức truyền tải thông điệp của mình vào tác phẩm qua tất cả các loại vật thể
đã có sẵn và không gian quanh mình… để biểu đạt phản ứng cá nhân đối với
môi trường, xã hội xung quanh đang ngày càng nảy sinh nhiều những bế tắc, đầy
rẫy mâu thuẫn và ngày càng phức tạp.
Có thể nói nghệ thuật sắp đặt bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ thập niên
cuối cùng của thế kỷ XX và cho đến nay nghệ thuật này bắt đầu có chỗ đứng
trong nền nghệ thuật đương đại Việt Nam. Những nghệ sĩ tiến thân vào làm thể
nghiệm loại hình nghệ thuật này cũng nhiều lên. Đối với các sinh viên đang theo
học tại các trường nghệ thuật chuyên nghiệp, các thế hệ nghệ sĩ trẻ ngày nay đã
và đang luôn tìm tòi, học hỏi các thế hệ đi trước từ trong nước cũng như trên thế
giới thông qua nhiều hình thức tiếp cận khác nhau, để có thể tạo ra những tác
phẩm nghệ thuật độc đáo mới mẻ hơn phù hợp với xu thế thời đại. Dù rằng các
tác phẩm thực sự hay, tốt, có giá trị thì vẫn chưa hẳn là nhiều. Nếu so với thế
giới, nghệ thuật sắp đặt trên thế giới đã tồn tại và phát triển trên hơn nửa thế kỷ,
thì nghệ thuật sắp đặt của chúng ta cũng chỉ như một đứa trẻ đang chập chững,

nên không thể phủ nhận sự non nớt bỡ ngỡ của chúng ta, ngược lại cũng không
nên phủ nhận sự đang cố gắng từng bước hoàn thiện hơn nữa về mảng nghệ
thuật sắp đặt của các nghệ sĩ đương đại Việt Nam để tiến tới một ngày nền nghệ
thuật đương đại Việt Nam có thể nằm trong quỹ đạo chung của nghệ thuật
đương đại thế giới.


17
Nghệ thuật sắp đặt Việt Nam từ thế hệ các nghệ sĩ làm sắp đặt đầu tiên
cho đến nay đã có nhiều thay đổi đáng kể dù rằng các tác phẩm, các nghệ sĩ luôn
mang trong mình tinh thần thời đại, những tự sự cá nhân. Các nghệ sĩ thời kỳ
đầu cách nay đến hai chục năm là những họa sĩ, nhà điêu khắc được đào tạo bài
bản chuyên nghiệp theo tác phong trường quy, lối thực hành truyền thống và đầy
kỹ thuật, luật lệ… bắt đầu tìm tòi một một lối thể nghiệm mới mang tính thử
nghiệm nhằm mục đích diễn đạt những suy nghĩ của bản thân về xã hội, môi
trường sống thông qua ý tứ trong chất liệu, vật liệu, không gian của tác phẩm,
đồng thời cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu sáng tạo, chinh phục những thách thức
của không gian tạo ra hiệu ứng thị giác hoàn toàn mới mẻ. Kể đến những nghệ sĩ
làm sắp đặt đầu tiên ở Việt Nam có những gương mặt gây chú ý như Đặng Thị
Khuê, Nguyễn Bảo Toàn, Trần Lương, Trương Tân, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê
Vũ, Lê Bá Đảng và còn một số những gương mặt khác. Nhắc tới Đặng Thị
Khuê, được biết họa sĩ đã tìm đến với nghệ thuật sắp đặt ngay từ khi còn chưa
biết tên gọi của nó, chỉ nhờ vào sở thích sử dụng cùng lúc nhiều chất liệu, nhiều
hình thức và thể loại vào trong một tác phẩm. Nguyễn Bảo Toàn, vào năm 1994
đã tạo ra một cú sốc nghệ thuật cho giới Mỹ thuật Hà Nội khi họa sĩ đem trưng
bày triển lãm gốm Đất và Lửa theo một hình thức hoàn toàn mới, các sản phẩm
gốm được kết hợp với nhau tạo ra một mô hình không gian ba chiều như mái
nhà, con rồng thiêng mang đầy vẻ tâm linh, và mầu sắc dân tộc. Triển lãm đó
như một làn gió mới đã thay đổi cách tiếp cận tác phẩm cũng như cảm giác về
tác phẩm của công chúng và ngay cả đối với các bạn đồng nghiệp. Cùng với sự

manh nha đó, một số gương mặt kể trên được khuyến khích đi vào thử nghiệm
với lòng đam mê mãnh liệt cùng tố chất manh mẽ đầy bản năng lần lượt xuất
hiện và ghi những dấu ấn ban đầu cho lịch sử nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam.
Đến khoảng sau những năm 2000, nghệ thuật sắp đặt mới bắt đầu phát
triển rộng hơn ở Việt Nam. Hầu hết các tác phẩm sắp đặt ban đầu giống như một
không gian điêu khắc hay giống như trong một bức tranh và vẫn bám sát vào vẻ


18
đẹp duy mỹ, trình bày, kể lể. Càng về sau việc thực hành nghệ thuật sắp đặt của
các nghệ sĩ ngày càng trở lên cô đọng, khả năng truyền đạt ý tưởng cũng sâu sắc,
ngắn gọn và trực diện hơn.
Ta có thể thấy, hướng tiếp cận nghệ thuật sắp đặt của các họa sĩ Việt Nam
ban đầu hoàn toàn bắt đầu bằng cảm tính, tự phát, về sau dần tự điều chỉnh cách
thức thực hành từ chất liệu, cách tổ chức, xây dựng tác phẩm. Các nghệ sĩ sắp
đặt tiên phong ở Việt Nam đã cho thấy rằng việc định nghĩa lại vai trò của người
nghệ sĩ đương đại là vô cùng cần thiết, nghệ sĩ mỹ thuật trong thời đại mới
không chỉ là những chiến sĩ chỉ biết vẽ biết nặn, chỉ để ca ngợi vẻ đẹp quê
hương, cổ vũ cách mạng, phục vụ Đảng và nhà nước, phục vụ kháng chiến như
trước những năm 1975 nữa, mà thay vào đó giờ đây vẫn đề cấp thiết của nghệ sĩ
đương đại Việt Nam là sự thay đổi triệt để, toàn diện trong quan niệm về nghệ
thuật đương đại, yêu cầu người nghệ sĩ cần có cái nhìn toàn thể hơn, bao quát
hơn, giải quyết được vấn đề thực tế. Người nghệ sĩ hiện tại phải là người vừa có
thể thực hành, vừa có thể nghiên cứu, trình bày ý tưởng và dùng nghệ thuật của
mình để can thiệp, tác động, cảm hóa, thậm chí là cải tạo đời sống.
1.2.3. Đặc điểm của nghệ thuật sắp đặt
Nghệ thuật sắp đặt mang trong mình một cá tính đặc biệt, với tính chất
nhất thời của mình và chịu sự ảnh hưởng của đa dạng các trào lưu nghệ thuật có
từ trước như Vị lai, Dada, nghệ thuật phối hợp- Asemblage, nghệ thuật giảm
thiểu- Minimolisva. Tuy nhiên loại hình nghệ thuật nào cũng vậy vẫn sẽ có

những đặc điểm cơ bản để có thể phân biệt được loại hình nghệ thuật này với
loại hình nghệ thuật khác.
Nghệ thuật sắp đặt có một số đặc trưng thường thấy sau. Trước hết, nghệ
thuật sắp đặt đưa người xem vào trong lòng tác phẩm, môi trường không gian ba
chiều, bao gồm không gian nội thất và không gian ngoại thất, thường không gian
nội thất là chủ yếu. Các nghệ sĩ làm nghệ thuật sắp đặt luôn phải nắm vững đặc
điểm không gian nội ngoại thất của địa điểm triển lãm, đặc trưng thiết kế không


19
gian và người sáng tạo nghệ thuật trở thành một chủ thể. Cũng như phòng chiếu
phim không thể cùng lúc chiếu hai bộ phim, chỉnh thể của tác phẩm cũng đòi hỏi
một không gian độc lập, trên phương diện thị giác và thính giác đều không thể
chấp nhận một sự ảnh hưởng gây nhiễu. Ở đây người xem có quyền và phải
thâm nhập vào tác phẩm, tương tác trở lại và cũng trở thành một bộ phận quan
trọng không thể tách rời của tác phẩm. Nghệ thuật sắp đặt là sự sáng tạo không
gian, không gian đó bao gồm cả quần chúng, từ chỗ bị động thưởng thức chuyển
sang chủ động, sự cảm thụ này ngoài tính tích cực của sự tiếp nhận tư duy và cơ
thể, cần phải huy động toàn bộ các giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác…
Nghệ thuật sắp đặt không hạn chế các loại hình nghệ thuật, nó tổng hợp
một cách tự do hội họa, điêu khắc, kiến trúc, nhiếp ảnh, âm nhạc,… Có thể nói
nghệ thuật sắp đặt là thứ nghệ thuật giải phóng các phương tiện nghệ thuật. Và
đôi khi để làm hoạt náo người xem, có lúc nghệ thuật sắp đặt làm đảo lộn cả thói
quen tư duy của người xem bằng các biện pháp khoa trương, cường điệu, kì quái
để kích thích cảm quan của công chúng.
Tiểu kết
Tóm lại, trong chương này người viết tập trung làm rõ các khái niệm: yếu tố
thời đại, nghệ thuật sắp đặt. Đồng thời nêu sơ lược về lịch sử nghệ thuật sắp đặt
trên thế giới và ở Việt Nam, và những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật sắp đặt.
- Khái niệm về Yếu tố thời đại: Yếu tố thời đại nói chung là một bộ phận

cấu thành những sự vật, hiện tượng, hoặc là nhân tố có tính chất tiêu biểu cho
thời đại, có ý nghĩa cho thời đại, mang tầm vóc thời đại.
- Khái niệm về nghệ thuật sắp đặt vẫn còn chung chung, cách định nghĩa
khác nhau, nhưng nhìn chung ta có thể kết luận rằng: Nghệ thuật sắp đặt là loại
hình sáng tạo mang tính tổng hợp và phù du, phụ thuộc vào một không gian thực
và được tạo dựng bằng mọi loại chất liệu, có thể sử dụng nhiều hình thức,
phương thức và kĩ thuật biểu hiện để tạo ra một tác phẩm sắp đặt như ý, tạo hiệu
quả thị giác cao, khả năng tương tác giữa người xem và tác phẩm cao. Ý nghĩa


20
của tác phẩm thay đổi khi không gian bị thay đổi.
Nghệ thuật sắp đặt trên thế giới đã xuất hiện từ thập kỷ 1910, khởi nguồn
từ những ý tưởng của Marcel Duchamp đem những vật dụng có sẵn trong cuộc
sống hàng ngày được đem vào trưng bày và trở thành nghệ thuật. Tuy nhiên mãi
đến năm 1967 loại hình này mới chính thức có tên gọi là Nghệ thuật sắp đặt
(Installation Art).
Ở Việt Nam, loại hình này du nhập vào Việt Nam khoảng tầm cuối những
năm 90 ở cuối thế kỉ XX và đến nay đã có nhiều khởi sắc cũng như được chấp
nhận hơn. Hầu hết các họa sĩ vẫn còn mày mò, thử nghiệm, mãi cho đến năm
2007 loại hình này mới được chính thức công nhận qua sự kiện triển lãm Mĩ
thuật trẻ toàn quốc cùng năm đó.
Đặc trưng của nghệ thuật sắp đặt là không gian, đưa người xem vào trong
lòng tác phẩm, môi trường không gian ba chiều, bao gồm không gian nội thất và
không gian ngoại thất, nó tổng hợp một cách tự do hội họa, điêu khắc, kiến trúc,
nhiếp ảnh, âm nhạc và mọi loại chất liệu. Đặc biệt công chúng cũng trở thành
một bộ phận quan trọng không thể tách rời của tác phẩm.
Sau khi làm rõ các khái niệm và tìm hiểu sơ lược về nghệ thuật sắp đặt ở
Việt Nam, trên thế giới và đặc điểm đặc trưng của nó. Vậy ta có thể rút ra khái
niệm về “Yếu tố thời đại trong nghệ thuật sắp đặt”: là những tác phẩm nghệ

thuật sắp đặt nêu bật được những sự vật, sự việc, hiện tượng hay mang những
nhân tố có tính chất tiêu biểu cho thời đại, mang những dấu hiệu đặc trưng của
thời đại đó.
Từ khái niệm trên, người viết đã có thể đi vào việc nghiên cứu yếu tố thời
đại trong nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam qua việc chỉ ra những biểu hiện cụ thể
mang yếu tố thời đại với một số chủ đề sẽ được đề cập ở Chương tiếp theo đây.


21
CHƯƠNG 2
BIỂU HIỆN YẾU TỐ THỜI ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT
Ở VIỆT NAM
Mỗi thời đại xuất phát từ ý thức hệ, đặc điểm lịch sử, thị hiếu thẩm mỹ…
Mỗi thời đại lịch sử đều có quan niệm riêng về nghệ thuật do những yếu tố cấu
thành đặc điểm thời đại chi phối sẽ tạo nên một số loại đề tài, chủ đề được quan
tâm và tập trung thể hiện. Có thể đề cập đến một số phương diện biểu hiện của
yếu tố thời đại thể hiện trong nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam như:
2.1. Yếu tố được biểu hiện qua mảng đề tài về giới
Cho đến nay, đề tài về giới, bình đẳng giới, nữ quyền và đồng tính vẫn
thuộc những đề tài nóng hổi, quan trọng của thời đại. Từ thủa xa xưa loài người
đã có những sự phân biệt giới thành hai loại cơ bản nam và nữ. Và sự phân biệt
đó luôn chìm đắm trong trạng thái bất bình đẳng đã kéo dài suốt phần lớn tiến
trình lịch sử của loài người. Ở khía cạnh xã hội thì Giới được quan niệm là sự
phản ánh sự khác biệt giữa nam và nữ. Nó xác định đặc điểm, vai trò và vị trí
của mỗi giới trong các mối quan hệ xã hội. Về mặt sinh học thì sự khác biệt giữa
hai giới là không thể thay đổi được, và việc chúng ta sinh ra là nam hay nữ ta
không thể chọn lựa.
Có một điều người viết muốn nhấn mạnh ở đây, trong hầu hết các nền văn
hóa Đông- Tây, giới thường phải chịu nhiều bất công nhất trong xã hội luôn là
nữ giới. Vậy nên việc tranh đấu về vấn đề bình đẳng giới ở thời đại này thường

gắn liền với việc đấu tranh cho nữ quyền. Những cuộc đấu tranh cho sự bình
đẳng giới tính đã đồng loạt diễn ra trên mọi phương tiện của cuộc sống xã hội
hiện nay, đặc biệt được thể hiện trong mọi loại hình nghệ thuật đương đại. Nghệ
thuật luôn là môi trường thích hợp nhất, có thể dễ dàng truyền tải những thông
điệp tha thiết đó đến với đông đảo cộng đồng.
Việt Nam ta hiện nay, cho dù tư tưởng nữ quyền đã xuất hiện hàng trăm
năm trước thể hiện qua văn thơ, âm nhạc, kịch…, thế nhưng hiện tại ở thời đại


×