Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

bai thao luan lan 1 mon Nghiep vu cong tac Dang o co so

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.52 KB, 34 trang )

Họ tên: Đặng Văn Nam
Lớp H636
Đơn vị: Công an Quận 12
Câu 1: Quan
điểm của Mác
– Lênin, Hồ
Chí Minh về
Đảng
Cộng
sản?
Quan
điểm của Đảng
Cộng sản Việt
Nam hiện nay?
Liên hệ bản
thân?

BÀI THẢO LUẬN LẦN 1
Môn: NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG Ở CƠ SỞ

*MB* Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác Lênin, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu
tiên. Từ đó, Người xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927, Người khẳng định: “Cách
mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Vấn đề được Người quan
tâm hàng đầu về mặt tổ chức là sớm lập ra Đảng Cộng sản - nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Quan điểm về Đảng cộng sản của Mác – Ăngghen; Lê – nin, HCM và ĐCS Việt Nam:
Mác – Ăngghen
1. Tính tất yếu ra đời chính đảng của GCCN :


- Cơ sở ra đời của ĐCS là: CNXH khoa học + Phong trào CN
- CNXH khoa học là Hệ tư tưởng, học thuyết về lý luận được đưa vào phong trào CN; phong
trào CN là cái cốt vật chất, là cơ sở XH ra đời trực tiếp từ cuộc đấu tranh của GCCN chống lại GCTS
- Đấu tranh kinh tế tiến lên đấu tranh chính trị.
- Thành lập công đoàn tiến lên thành lập chính đảng.
2. Một chính đảng độc lập:
GCCN phải XD một chính đảng độc lập; Độc lập về chính trị, hệ tư tưởng, tổ chức.
3. Thuộc tính tiên phong của ĐCS:
- Đảng phải được vũ trang bằng lý luận CM,
- Trình độ giác ngộ cao, bộ phận kiên quyết nhất biết lôi cuốn quần chúng cùng mình hành
động thực tiễn.
- Đại biểu cho quyền lợi của toàn thể GC.
4. Đảng là một khối thống nhất:
- Vượt qua thời kỳ phe phái.
- Thống nhất bằng cương lĩnh, hệ tư tưởng, tổ chức.
5. Hệ tư tưởng của ĐCS:
- Chủ nghĩa Cộng sản khoa học;


- XD thành một học thuyết;
- Đấu tranh thắng lợi, khẳng định học thuyết.
6. Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng: (Mác phát minh CN duy vật lịch sử, thuyết giá trị thặng
dư, Mác chịu trách nhiệm trước QT1 và QT2)
- Đặt cơ sở bước đầu cho các nguyên tắc tổ chức Đảng;
- XD các tổ chức: Đồng minh những người Cộng sản, QT1 và QT2;
7. Chủ nghĩa quốc tế của ĐCS: Mục tiêu của ĐCS là:
- Giải phóng GCCN toàn thế giới;
- Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại (tất cả đều là anh em – khẩu hiệu cũ).
- ĐCS là một tổ chức quốc tế;
8. Đảng cầm quyền:

“Mác và Ăng-ghen trãi qua 72 ngày công xã Paris đập tan CQ cũ. XD CQ mới, đảng là công
bộc của dân, đảng phải thống nhất và phải đề phòng công nhân của mình (đấu tranh dũng cảm sau là
công thần, trước trung thành sau ỷ lại không xây dựng tiếp)
Lê – nin (TRANG 18 - 24)
1. Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ĐCS.
Người viết: “Chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác; lý luận đó là lý luận lần
đầu tiên biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học… Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ
thật sự của đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng”.
2. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất,
cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân.
3. Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của CNXH và là một bộ
phận của hệ thống đó. Theo Lê-nin, sự lãnh đạo của ĐCS là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công
cuộc đấu tranh giữ vững chính quyền và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng. Tập trung dân chủ là thuộc tính cơ bản của đảng, thể hiện bản chất và sự sống còn của Đảng;
là tiêu chí để phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân - Đảng cách mạng chân chính với
các đảng phái khác.
5. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tự phê bình và phê bình là
quy luật phát triển của Đảng.
6. Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh
quan liêu, xa rời nhân dân. Người cho rằng “những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong
đại dương nhân dân”. Nếu không có sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối


của Đảng không thể trở thành hiện thực.
7. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động vào Đảng, kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi
Đảng. Đó là một biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng.
8. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng Cộng sản. Bản chất đó bắt

nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh (trang 25 - 28)
Đảng cộng sản Việt Nam
1. Bản chất của Đảng:
- “Đảng CSVN là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc VN; đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân
tộc”.
(Đảng là đội tiên phong về lý luận; hành động; chính trị; tư tưởng.)
2. Mục đích của Đảng : Trước mắt xây dựng một nước VN độc lập, dân chủ, giàu mạnh, XH
công bằng, văn minh Không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là
CNCS.
3. Hệ tư tưởng của Đảng:
- CN Mac-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy
truyển thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách
quan, xu thế thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
4. Nguyên tắt tổ chức sinh hoạt của Đảng : tổ chức chặt chẽ; thống nhất ý chí và hành động;
tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; kỷ luật nghiêm minh; thương yêu đồng chí; tự
phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ; giữ mối quan hệ mật thiết với nhân
dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
5. Quan hệ Đảng – ND – Hệ thống chính trị : Đảng cầm quyền; tôn trọng phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân xây dựng Đảng; đoàn kết nhân dân
tiến hành CM; Đảng lãnh đạo HTCT đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy; Đảng lãnh đạo tôn
trọng, phát huy vai trò NN, MTTQVN và các đoàn thể CT – XH.
6. Đảng kết hợp CN yêu nước chân chính với CN quốc tế trong sáng của GCCN, góp phần
tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH.


7. Xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng : XD Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức;
thường xuyên tự đổi mới tự chỉnh đốn; không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, sức

chiến đấu và năng lực lãnh đạo CM của đảng.
Quy luật ra đời của ĐCS
Sự ra đời của ĐCS là kết quả của sự kết hợp giữa CNXH khoa học với phong trào công nhân.
Phong trào công nhân ở các nước chống lại giai cấp tư sản phát triển từ thấp lên cao, từ tự phát đến
tự giác. Song, nếu phong trào công nhân không kết hợp với CNXH khoa học thì phong trào đó phát
triển cao nhất cũng cỉ đến chủ nghĩa công đoàn.
CNXH khoa học là hệ thống lý luận cách mạng, khoa học do C.Mác, Ph.Angghen xây dựng,
được tổng kết khái quát từ thực tiễn phong trào đầu tranh của gaii cấp công nhân ở các nước chống
lại giai cấp tư sản. Lý luân ấy đã chỉ rõ cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động mục tiêu, con
đường và biện pháp đấu tranh giành chính quyền và xây dựng CNXH và CNCS. CNXH khoa học
luôn hướng tới phong trào công nhân, phục vụ phong trào công nhân. Phong trào công nhân muốn
phát triển đạt kết quả cũng cần có CNXH khoa học soi đường.
Sự kết hợp CNXH khoa học với phong trào công nhân là tất yếu, kết ảu của sự kết hợp ấy là
sự ra đời của ĐCS. Liên đoàn những người cộng sản ra đời năm 1847 – ĐCS đầu tiên trên thế giới,
đảng độc lập của giai cấp công nhân – là kết quả của sự kết hợp đó. Sự kết hợp giữa CNXH khoa học
với phong trào công nhân là quy luật ra đời của các ĐCS trên thế giới.
Quy luật ra đời của ĐCSVN
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với
phong
trào
công
nhân

phong
trào
yêu
nước
Việt
Nam.

Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống nhất của phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách mạng trong
cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong.
Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân.
*KL* Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, Đảng ta đã
ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Những nghị quyết có tầm chiến lược
trong việc thực hiện Di huấn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về tự
phê bình và phê bình; về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Việc thực hiện hiệu quả nghị quyết vừa


Câu 2. Tại sao
Đảng
Cộng
sản lấy tập
trung dân chủ
làm nguyên tắc
tổ chức cơ
bản? Biểu hiện
của tập trung
và dân chủ
trong Đảng?
Những đòi hỏi
nảy sinh từ
thực tế về
nhận thức và
thực
hiện
nguyên tắc này

tại đơn vị? Đề
xuất các giải
pháp thực hiện
tốt nguyên tắc
tập trung dân
chủ?

là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ bức thiết, thường xuyên của mỗi tổ chức đảng, mỗi đảng viên, để Đảng ta
luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
*MB* Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản giữ cho đảng cộng sản khó chấp nhận
các khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội. Tập trung dân chủ là một "pháp bảo" về “tổ chức chính đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân,” tổng kết từ lịch sử đấu tranh gian khổ của phong trào XHCN trên
toàn thế giới; Phát huy tính ưu việt của nguyên tắc tổ chức cơ bản, khắc phục những nhận thức sai
lầm trong quá trình thực hiện nguyên tắc “tập trung dân chủ”.
Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ mang ý nghĩa đặc biệt to lớn, sự kết hợp đúng đẳn giữa tập
trung và dân chủ là một trong những yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu quả hoạt động của bộ máy
hành chính Nhà nước. Nó tạo ra sự thống nhất về tổ chức và hành động, phát huy và kết hợp chặt chẽ
sức mạnh của cả tập thể với sức mạnh từng cá nhân; của cả nước và từng địa phương, từng cơ sở; của
cả hệ thống bộ máy cơ quan hành chính Nhà nước và từng tổ chức.
Tập trung và dân chủ là hai mặt của một hệ thống nhất không thể tách rời. Nếu chỉ thiên về
tập trung và coi nhẹ dân chủ thì sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán, trái với bản chất của Nhà
nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung thì sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm
cho hoạt động quản lý hành chính Nhà nước kém hiệu quả.
Nội
dung
của
nguyên
tắc
TTDC

Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc
đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ
trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là
đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp
hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước
cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng


trực
thuộc,
thực
hiện
tự
phê
bình

phê
bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội
đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số
thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến
của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên
cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó;

không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được
trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp
trên.
Bản chất của nguyên tắc TTDC (tham khảo thêm trang 37)
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa hai thành
tố tập trung và dân chủ. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai thành tố này quyết định đến chất lượng
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây cũng là nội dung tập trung nhiều quan điểm khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau, là điểm nhạy cảm mà các thế lực thù địch thường tập trung chống phá đối
với Đảng ta.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng để xây dựng Đảng ta
thành một Đảng kiểu mới vững mạnh. Mục đích của nguyên tắc mhằm thống nhất ý chí và hành động
trong Đảng, làm cho toàn Đảng kết thành một khối duy nhất, nội bộ luôn luôn đoàn kết chặt chẽ, có
kỷ luật nghiêm minh, có sức mạnh chiến đấu vô địch; Phát huy trí tuệ, năng lực và tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của đông đảo đảng viên, làm cho mọi đảng viên có thể đóng góp được nhiều ý kiến,
kinh nghiệm vào việc quyết định đường lối, chủ trương và nhiệm vụ của Đảng được đầy đủ, chính
xác, phù hợp với thực tiễn.
Liên hệ:
Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở tổ chức đơn vị mình. (đưa vđ, nhận


xét, chỉ ra nguyên nhân)
Đề xuất những vc cần làm để thực hiện tốt nguyên tắc này ở đơn vị
+ đề xuất đối với tổ chức (tổ chức đảng muốn đi lên thì BGH, công đoàn, tổ chức hội,
PGD… phải làm gì?)
+ đề xuất đối với cá nhân (bản thân thôi sẽ như thế nào? Hứa như thế nào…)
*KL* Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn hiện nay, điều kiện tiên quyết để thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là: tổ chức đảng phải thực sự trong sạch vững mạnh; số đảng
viên hoàn thành tốt nhiệm vụ (trên cơ sở phân loại chính xác) phải chiếm đa số trong tổ chức đảng.
Chỉ có như vậy, mới đảm bảo độ chính xác, sự lành mạnh, độ tin cậy khi thiểu số phục tùng đa số;

cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức. Chỉ đảm bảo được điều đó, nguyên tắc tập
trung dân chủ mới là nguyên tắc cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng, phân biệt Đảng Cộng
sản cách mạng với các đảng khác. Nếu ngược lại, thì chính nguyên tắc này sẽ trở thành nguyên nhân
làm đảng suy yếu.
Câu 3. Những
nhận thức cơ
bản về tổ chức
cơ sở
đảng
(TCCSĐ)?
Căn cứ nội
dung đánh giá
chất
lượng
TCCSĐ Anh
(Chị) liên hệ
thực tế tại chi
bộ (đảng bộ)?
Đề xuất biện
pháp để nâng
cao năng lực
lãnh đạo và
sức chiến đấu

*MB1* Trong quá trình sáng lập ra hệ thống lý luận cách mạng, cũng như trong thời kỳ hoạt
động thực tiễn của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen luôn quan tâm đến việc thành lập đảng cộng sản và
các chi bộ cơ sở của đảng. Hai ông cho rằng cần phải thành lập các chi bộ ở các địa phương, trong
các hiệp hội công nhân, đồng thời nhấn mạnh về tầm quan trọng đặc biệt của các chi bộ cơ sở - tổ
chức cơ sở đảng.
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, có nhiều cấp, mỗi cấp có vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác

nhau. Cấp cơ sở là nền tảng của Đảng, nơi trực tiếp triển khai và tổ chức thực hiện đường lối, nghị
quyết của Đảng. Cơ sở cũng là nơi mà thông qua đó, mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng, qua hoạt
động thực tiễn của mỗi đảng viên lan tỏa đến với quần chúng nhân dân.
Đảng ta có tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, có mối liên hệ mật thiết với
quần chúng, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là
nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị;
giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần chúng và công


của tổ chức cơ
tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng viên; thu, nộp đảng phí…
sở đảng?
*MB2* Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về
Đảng Cộng sản và tầm quan trọng của TCCSĐ. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn
quan tâm đến việc xây dựng các chi bộ, đảng bộ cơ sở, đồng thời coi trọng vai trò to lớn quyết định
tới thắng lợi cách mạng của TCCSĐ. Tiếp tục Tư tưởng của C.Mác - Ăng-ghen, Người khẳng định
trong công tác xây dựng đảng, cái gốc là chi bộ, phải làm sao cho chi bộ vững để lúc thuận lợi cũng
như khi gặp khó khăn, họ biết phát huy thắng lợi, khắc phục trở ngại, vững vàng tiến lên; mỗi chi bộ
của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần
chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng.
1. Tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ)
a. Khái niệm
- TCCSĐ là tổ chức của Đảng được lập ở đơn vị cơ sở nơi có từ ba đảng viên chính thức
trở lên, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy quận huyện hoặc tương đương.
- TCCSĐ có 02 hình thức cơ bản: Chi bộ cơ sở và Đảng bộ cơ sở
b. Vị trí, vai trò của TCCSĐ (trang 8 -9-10)
- Điều 21 - Điều lệ ĐCSVN khẳng định: “Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở”
- Là nền tảng của Đảng, thể hiện:
+ Là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức của Đảng, là “nền móng” để xây dựng nên hệ

thống tổ chức của Đảng.


+ Là nơi đóng góp ý kiến để xây dựng đường lối, chủ trương.
+ Là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của đảng.
+ Là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng như kết nạp, quản lý, phân
công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh giá đảng viên; nơi thường xuyên tổ chức và sinh hoạt của Đảng; nơi
xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
+ Do là cấp cuối cùng nên trực tiếp gắn bó với quần chúng nhân dân; là cầu nối Đảng với
quần chúng nhân dân, là một khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ Đảng với dân - nền tảng sức mạnh
của Đảng.
- Là hạt nhân chính trị, thể hiện:
+ Là một thành viên của HTCT cơ sở, song TCCSĐ lãnh đạo các tổ chức khác trong HTCT ở
cơ sở như Chính quyền, MTTQ và các tổ chức đoàn thể xã hội.
+ Định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
+ Là trung tâm đoàn kết để xây dựng khối đoàn kết thống nhất ở cơ sở
c. Chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ (trang 10 - 12 ) (3 chức năng, 5 nv)
d. Đánh giá thực trạng của TCCSĐ hiện nay
* Ưu điểm
- TCCSĐ được lập ở khắp các đơn vị cơ sở và được kiện toàn một bước
- Nhiều TCCSĐ giữ vững và phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở
- Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai và bước đầu mang lại


kết quả tích cực.
- Cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách làm việc.
- Công tác kết nạp đảng viên được quan tâm chỉ đạo và đạt một số kết quả tích cực.
* Hạn chế:
- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít TCCSĐ còn thấp
-Sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình, phê bình yếu.

- Công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ
- Công tác kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên còn bị buông lỏng
- Công tác kết nạp đảng viên còn chú ý số lượng, chưa coi trọng chất lượng.
- Việc đánh giá chất lượng TCCSĐ còn hình thức, chưa phản ánh đúng thực chất.
- Vai trò của các TCCSĐ trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mờ nhạt.
e. Những giải pháp chủ yếu
- Chú trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
- Hoàn thiện mô hình của các loại hình tổ chức cơ sở đảng
- Nâng cao chất lượng cấp ủy, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của TCCSĐ
- Nâng cao chất lượng sinh họat chi bộ, đảng bộ


- Làm tốt việc đánh giá, xếp loại TCCSĐ
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo. kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên.
2. Tổ chức chi bộ ở đơn vị đã thể hiện “nền tảng của Đảng”, “hạt nhân chính trị” ở cơ sở
Hiện tôi đang công tác và sinh họat đảng tại Doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước. Là một
đảng bộ cơ sở trực thuộc Quận ủy Gò Vấp, đảng bộ ở đơn vị tôi đã thể hiện “nền tảng của Đảng”, “hạt
nhân chính trị” ở cơ sở như sau:
* Là nền tảng của Đảng, thể hiện:
- Là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, đồng thời vận động
quần chúng nhân dân lao động trong công ty sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Biến các
chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước vào nghị quyết chung của Đảng bộ công ty, bắt
buộc mọi người phải thực hiện; Trong quá trình thực hiện phải báo cáo những việc làm nàolàm được,
những việc nào chưa làm được phải nói rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan.
- Hàng tháng tổ chức sinh hoạt đảng có sự phân công trách nhiệm cụ thể về theo dỏi, giáo dục
người lao động ưu tú vào Đảng; thực hiện công tác chuyên môn; công tác đoàn thể.
- Cán bộ đảng viên công ty phải là người gương mẫu trong công tác và phải gắn bó mật thiết
với người lao động, là cầu nối nói lên tâm tư nguyện vọng của người lao động, đặc biết là phải bảo vệ

được quyền lợi chính đáng của họ.
* Là hạt nhân chính trị, thể hiện:
- Là một thành viên của HTCT ở cơ sở, song đảng bộ là hạt nhân của các tổ chức khác trong
HTCT ở cơ sở nên đảng bộ công ty xem xét và định hướng mọi hoạt động trong công ty theo đúng
đường lối, chính sách của Đảng.
- Định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng thực hiện bằng cách học tập và


làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Luôn là trung tâm đoàn kết để xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong đơn vị.
3. Đề xuất những giải pháp để xây dựng Chi bộ của đơn vị ngày càng trong sạch, vững mạnh
(mô tả , nhận xét, đề xuất giải pháp)
- Thường xuyên giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đảng viên bằng cách học tập các nghị
quyết và giáo dục tư tưởng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của TCCSĐ.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ.
- Thực hiện nghiêm túc công tác đánh giá chất lượng chi bộ và đảng viên hàng năm đi vào
thực chất. Quan tâm công tác kết nạp đảng viên.
- Xây dựng Kế hoạch kiểm tra giám sát hàng năm theo sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát.
- Thực hiện nghiêm túc công tác tự phê bình và phê bình.
*KL* Có thể nói các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có
được thực hiện tốt hay không, có đi vào và trở thành hiện thực trong cuộc sống hay không là đều nhờ
vào vai trò lãnh đạo của các TCCSĐ. Mọi thành công hay thất bại của cách mạng nước ta đều gắn
liền với sự lãnh đạo của Đảng, đều phụ thuộc vào chất lượng TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên
tốt hay kém. Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, các chủ trương chính sách của Đảng có đem lại
cuộc sống ấm no cho nhân dân, có đem lại nguồn cổ vũ, động viên cho nhân dân hay không, tất cả
đều phụ thuộc vào vào vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung và của các TCCSĐ nói riêng. Vì vậy, xây
dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có ý
nghĩa rất quan trọng, nó quyết định trực tiếp đến việc thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhâp Quốc tế trong bối cảnh hiện nay.



Câu 4: Tình
hình đội ngũ
đảng viên của
Đảng ta hiện
nay có những
ưu điểm, hạn
chế gì? Liên
hệ tại chi bộ
(đảng bộ) Anh,
Chị? Đề xuất
giải pháp nâng
cao
chất
lượng,
số
lượng
đảng
viên?

*MB* Trong thực tế, “mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm, mọi Nghị quyết của
Đảng đều do đảng viên chấp hành, mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần
chúng, mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”, do đó, việc nâng cao
chất lượng đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt, không chỉ là nền tảng để xây dựng, củng cố đội ngũ
đảng viên, còn tác động đến uy tín, đến năng lực lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ đảng viên tốt thì uy tín,
năng lực lãnh đạo của Đảng được nâng lên, đội ngũ đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức lối sống, yếu kém về năng lực chuyên môn thì Đảng giảm sút khả năng lãnh đạo và
sức chiến đấu vì thế vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên rất được quan tâm chú trọng.
Khái niệm (trang 23)

- Vị trí, vai trò của Đảng viên
Đảng viên là nhân tố cơ bản nhất, năng động nhất của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ đảng
viên có quan hệ quyết định đến chất lượng của tổ chức cơ sở đảng, quyết định năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Mối quan hệ giữa đảng viên với nhiệm vụ chính trị, với tổ chức đảng và với quần chúng là
mối quan hệ mật thiết, biện chứng. Không ngừng củng cố các mối quan hệ này sẽ góp phần củng cố,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên ngày càng vững
mạnh.
b. Thực trạng Đảng viên hiện nay
* Ưu điểm
- Đảng đã xây dựng được đội ngũ đảng viên đông đảo và có mặt trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
- Phần lớn đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trung thành với sự nghiệp cách mạng,
tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu
của người đảng viên.
- Trình độ, năng lực của đội ngũ đảng viên được nâng cao một bước; đội ngũ đảng viên trẻ
hiện nay có tư duy, năng động sáng tạo hơn đảng viên đi trước.
* Hạn chế
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái chính trị và tư tưởng,đạo đức, lối
sống( phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.)


- Trình độ, năng lực của đảng viên có nhiều mặt còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới.
- Đảng viên nguy cơ lão hóa, sự phân bố không đồng đều giữa các vùng miền, tỷ lệ kết nạp
đảng viên là công nhân còn thấp.
- Tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một số bộ
phận đảng viên chưa được chặn đứng và đẩy lùi.
- Tình trạng mất đoàn kết vẫn còn diễn ra ở một số tổ chức cơ sở đảng .c. Giải pháp
- Cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên đến từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị.

- Làm tốt công tác phân công nhiệm vụ,quản lý, kiểm tra đảng viên.
- Làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên.
- Làm tốt công tác kết nạp đảng và thường xuyên đưa những người không đủ tư cách đảng
viên ra khỏi Đảng.
- Làm tốt công tác đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên.
- Tiếp tục củng cố tổ chức cơ sở đảng, gắn nhiệm vụ xây dựng đảng với nhiệm vụ phát triển
kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở.
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên, phối hợp tốt giữa tổ chức đảng với chính quyền,
mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội trong việc xây dựng đội ngũ đảng viên.
Thực trạng Đảng viên tại đơn vị:
+ tổng quan về dội ngũ đảng viên của đvi (bao nhiêu người, nam, nữ, trình độ ctri , chuyên
môn, văn hóa...)
+ưu khuyết điểm của đảng viên dvi
+ nguyên nhân của những ưu khuyết điểm đó
+ đề xuất giải pháp (tổ chức: tạo điều kiện...) (cá nhân: có ý thức học tập, cố gắng...)
*KL* Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, với cả những mặt tích cực và tiêu cực. Đây là thử thách mới, quyết liệt đối
với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đội ngũ này phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản,
trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục, nâng cao bản lĩnh chinh trị, trung thành tuyệt đối với Đảng, với
cách mạng; đồng thời cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên về chuyên môn


nghiệp vụ đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Câu 5: Đánh
giá của Đảng
ta về công tác
cán bộ hiện
nay? Liên hệ
công tác cán
bộ tại đơn vị?

Đề xuất giải
pháp nâng cao
chất lượng đội
ngũ cán bộ.

Trong công tác cán bộ, đánh giá cán bộ được xem là khâu tiền đề, cơ sở, có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các
chế độ, chính sách đối với cán bộ.
Nếu đánh giá đúng, bố trí đúng người, đúng việc làm sẽ nhân thêm sức mạnh của tổ chức, cán bộ phát
huy được sở trường, phẩm chất, năng lực của mình. Ngược lại nếu đánh giá không đúng sẽ dẫn đến bố trí, sử
dụng sai gây ra tâm tư, thắc mắc, ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ, làm mai một động lực phấn đấu, phát triển.
Làm mất lòng tin, thui chột tài năng của cán bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản thân cán bộ và tổ chức.
Với ý nghĩa quan trọng như trên trong thời gian qua, việc đánh giá cán bộ đã có những bước chuyển biến mới
và đạt nhiều kết quả khả quan như: Việc đánh giá đã được đổi mới theo hướng mở rộng dân chủ hơn, nội
dung đánh giá và quy trình đánh giá cũng đã sát hơn với từng nhóm cán bộ khác nhau.
Tuy nhiên việc đánh giá vẫn còn được nhận định là khâu bộc lộ nhiều mặt yếu kém: Ở một số nơi khâu đánh
giá cán bộ còn chưa được đề cao, chưa chú trọng, nhiều khi còn hình thức, qua loa. Trong đánh giá có tình
trạng nể nang, nâng đỡ, cục bộ, bè cánh…, tư tưởng dĩ hòa vi quý, dễ người dễ ta và những biểu hiện xuề xòa
làm cho chất lượng đội ngũ cán bộ có phần giảm sút, làm trì trệ bộ máy lãnh đạo, quản lý. Nghị quyết Trung
ương 4 Khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã nhận định:
“Trong thời gian qua việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI có một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu
cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại
va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc
được giao”. Trong đánh giá, các tiêu chí còn chung chung, khó định lượng, hiệu quả công việc là căn cứ chính
để đánh giá nhưng lại chưa đưa ra được những tiêu chí quan trọng, cụ thể để xác định các mức độ hoàn thành
nhiệm vụ cho từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý trên từng lĩnh vực; chưa phân định được thành tích
hoặc hạn chế của cá nhân với tập thể dẫn đến đánh giá hoặc phân định trách nhiệm chưa rõ ràng.
Một trong số những nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ sự yếu kém trong khâu đánh giá cán bộ, cụ
thể là việc “đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ”. Công tác đánh giá cán bộ chưa có chiều

sâu, chưa nhận diện hết những biểu hiện thiếu tu dưỡng, thiếu rèn luyện, sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, “tự chuyển hóa”, chưa gắn đánh giá cán bộ với những sát hạch thường ngày,
vào công việc được giao và vị trí việc làm. Chính những biểu hiện về “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, có thể dẫn tới
tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc”. Điều đó nguy hại cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, tận tâm mẫn cán đối với Đảng, Nhà
nước và nhân dân.


Gắn đánh giá đội ngũ cán bộ với những quan điểm của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII là việc làm cần
thiết. Mục tiêu chung của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII là“Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong
công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên
phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ
của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng”.
Để làm tốt khâu công tác này, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác đánh giá cán bộ.
Phát huy tinh thần dân chủ, trách nhiệm, hiệu quả trong khâu đánh giá, để lựa chọn đội ngũ cán bộ đáp ứng
với tiêu chuẩn chức danh và nhiệm vụ đảm nhận.
Thứ hai, việc đánh giá cần phải dựa vào tiêu chuẩn của vị trí đảm nhận, lấy hiệu quả hoạt động thực tế
của cán bộ làm cơ sở chính trong đánh giá. Hiệu quả lao động thực tế phải làm thước đo phẩm chất, năng lực
cán bộ để đánh giá.
Thứ ba, trong quá trình đánh giá cần bảo đảm đúng quy trình, thực hiện dân chủ rộng rãi; bảo đảm
đúng các nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể.
Mỗi cán bộ là một thành viên của một tập thể, một cộng đồng, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với nhau
nên sẽ có nhiều mối quan hệ. Do đó, bên cạnh ý kiến nhận xét của cán bộ lãnh đạo, quản lý, của cơ quan tham
mưu, cần coi trọng ý kiến của tập thể cán bộ và ý kiến của đông đảo quần chúng. Mở rộng tính dân chủ rộng
rãi còn là phương pháp đánh giá cán bộ sát thực, hiệu quả, tăng lòng tin của quần chúng đối với đội ngũ cán
bộ.
Khi đánh giá cán bộ phải xem xét, nhận định giá trị (đạo đức, năng lực, xu hướng phát triển) cán bộ

đúng như những gì họ có, phải tôn trọng sự thật, không cảm tính, không định kiến, không phiến diện khi nhận
định, đánh giá. Việc đánh giá cán bộ cũng là việc con người đánh giá con người. Mà đã là con người thì ai
cũng có những tình cảm riêng, các mối quan hệ riêng (tính tình, sở thích, họ hàng, bè bạn…). Đó là lẽ bình
thường, vì vậy, cần đưa ra các chuẩn mực cụ thể để làm căn cứ khách quan, mà đã là khách quan thì người
(hoặc tập thể) khi đánh giá cán bộ phải phục tùng, vượt qua tình cảm riêng, quan hệ riêng.
Khi đánh giá cần nhìn nhận bao quát, xem xét trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Các tiêu chí
đánh giá càng cụ thể, càng bảo đảm đánh giá chính xác, hiệu quả bấy nhiêu. Cụ thể trong từng hoạt động,
hành động, từng kết quả lao động trong thực tiễn, cụ thể trong từng việc làm, biểu hiện để nhận định, phán
xét. Coi trọng sát hạch thường ngày khi đó kết quả nhận định cuối cùng sẽ khách quan và toàn diện hơn.
Đánh giá cán bộ là cả một quá trình nhìn nhận khách quan, không thể lấy một kết quả, một hoạt động
của một giai đoạn, một thời kỳ nhất định làm căn cứ đánh giá cho cả một giai đoạn dài, do vậy, đánh giá cán
bộ cần bảo đảm tính lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa, tư tưởng
của con người cũng biến hóa, vì vậy cách xem xét cán bộ quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến


hóa… Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay
chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người
không phải luôn giống nhau, có người lúc cách mạng lên cao thì hăng hái, lúc cách mạng gặp khó khăn thì
đâm ra hoang mang…
Thứ tư, cần nhận diện đúng đắn các biểu hiện về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống
cùng những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kịp thời xây dựng nội
dung, tiêu chí, phương pháp đánh giá sát nhất đối với cán bộ ứng với mỗi vị trí việc làm, yêu cầu công việc
được giao. Trong quá trình đánh giá cũng cần phải rút ra được những mặt ưu điểm, hạn chế, đồng thời chỉ ra
nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm đó để cán bộ nỗ lực hoàn thiện.
Thứ năm, mạnh dạn áp dụng những giải pháp trong đánh giá sử dụng cán bộ gắn với những giải pháp
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đề ra, đó là: “Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối
với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức,
tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng
đầu”.
Ngoài ra, hằng năm hoặc khi chuẩn bị đề bạt, luân chuyển, điều động công tác đối với cán bộ, tiêu chí

quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức và cán bộ, đảng viên là: chương trình hành động của tập thể và cá
nhân; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; kết quả thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức,
lối sống; tự phê bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu quả đấu tranh, khắc phục
suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Câu 6:Những
nhận
thức
chung về công
tác tư tưởng
của TCCSĐ?
Theo anh/ chị
công tác tư
tưởng hiện nay
cần tập trung
vào những nội
dung trọng tâm
nào? Liện hệ
công tác tư

Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành, phát
triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng đi tới hành động.
Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng, là hoạt động truyền bá, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm
xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn. Công tác tư tưởng góp
phần tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy tính chủ động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Vị trí, vai trò của công tác tư tưởng

a. Vị trí
Công tác tư tưởng là một bộ phận hợp thành trong hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng, một mặt công
tác trọng yếu của chính quyền và các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị.
Công tác tư tưởng có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa; xây dựng hệ thống chính trị phát triển vững mạnh,


tưởng tại đơn
vị? đề xuất
giải pháp nâng
cao hiệu quả
công tác tư
tưởng?

toàn diện.
b. Vai trò
- Công tác tư tưởng trước hết nhằm xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có sức
chiến đấu cao và không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
- Công tác tư tưởng có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự
lực, tự cường, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhằm biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước thành hiện thực, thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
- Công tác tư tưởng có vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thống nhất cao trong tổ chức đảng,
sự đồng thuận trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nội dung công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng bao gồm các nội dung chính sau đây:
- Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng. Đây là nội dung
quan trọng hàng đầu, nhằm bồi dưỡng, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, lòng yêu nước, yêu quê
hương, tình cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, thông qua việc tổ chức nghiên cứu, học
tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác giáo dục lý

luận chính trị tạo nên sự nhất trí, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền nhằm phổ biến, truyền bá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống, thông
tin kịp thời tình hình thời sự, chính trị..., định hướng tư tưởng trước các sự kiện tác động đến tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng của quần chúng nhân dân.
- Công tác cổ động, nêu gương tốt, điển hình tiên tiến nhằm cổ vũ hành động của quần chúng
nhân dân, biến nhận thức tư tưởng thành niềm tin, hành động cách mạng cụ thể, thành phong trào quần
chúng rộng rãi...
- Công tác văn hoá, văn nghệ. Lĩnh vực văn hoá ở đây được hiểu chủ yếu ở khía cạnh tư
tưởng, chính trị của văn hoá. Công tác văn hoá, văn nghệ nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, qua
đó giáo dục đạo đức, lối sống, phát huy truyền thống cách mạng, xây dựng đời sống văn hoá.
- Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và định hướng tư tưởng, dư luận xã hội...
- Đấu tranh tư tưởng, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, tin đồn và tài liệu xấu lan truyền, phát
tán trong xã hội.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, công tác tư tưởng còn có các nội dung khác, như giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục thể lực, giáo dục về sinh thái, môi trường... qua các hoạt động trong lĩnh vực khoa giáo.
Nguyên tắc, phương châm công tác tư tưởng


a. Nguyên tắc công tác tư tưởng
- Nguyên tắc tính đảng
Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng phải đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng; chủ động đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng thù địch,
phản khoa học, đi ngược lại với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc.
- Nguyên tắc tính khoa học
Công tác tư tưởng được tiến hành trên cơ sở khoa học, tuân theo các quy luật vận động, biến đổi của
lĩnh vực tư tưởng. Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu công tác tư tưởng được tiến hành có kế hoạch, nội dung
và hình thức phù hợp với từng đối tượng, đáp ứng nhu cầu giải đáp vướng mắc và định hướng tư tưởng cho

mọi đối tượng. Công tác tư tưởng phải sử dụng các phương tiện tác động ngày càng hiện đại.
- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
Công tác tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn; đồng thời phải được soi sáng,
định hướng bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách khoa học. Tổng kết thực tiễn là nhiệm
vụ và phương thức căn bản để thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng,
khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ những nguyên tắc trên là yêu cầu chung của công tác tư tưởng của
Đảng. Nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của
Đảng nói chung và ở cơ sở nói riêng.
b. Phương châm công tác tư tưởng
Phương châm công tác tư tưởng của Đảng là những định hướng có tính chỉ đạo trong hoạt động công
tác tư tưởng ở các cấp, các ngành. Phương châm công tác tư tưởng bao gồm:
- Công tác tư tưởng phải gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của
quần chúng, với từng đối tượng.
- Kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức khoa học, phẩm chất và đạo đức cách
mạng; kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục tình hình và nhiệm vụ trước mắt.
- Kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và các mặt công tác khác.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức, kết hợp công tác tư tưởng
trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.


- Kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán mạnh mẽ những biểu hiện tư tưởng
sai trái; biểu dương những ưu điểm đi đôi với phê bình nghiêm khắc những khuyết điểm.
Nhiệm vụ công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng có sáu nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức
đúng đắn, kiên định, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống những quan

điểm sai trái, thù địch; ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn góp phần phát triển, hoàn thiện đường lối và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam. Tiến hành phổ biến, quán triệt sâu rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ,
đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, thực hiện có hiệu quả việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh".
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố con người qua thực hiện tốt các lĩnh vực khoa giáo ở cơ
sở. Chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước và các phong trào xã hội khác,
coi trọng việc bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ chính trị trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”, cơ hội chính trị, lôi kéo,
chia rẽ sự đoàn kết toàn. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéo
dài, khiếu kiện tập thể, không có điểm nóng
Bối cảnh mới trên thế giới và trong nước đang đặt ra cho công tác tư tưởng, lý luận những yêu cầu hết
sức mới mẻ, chưa từng có, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải đổi mới nhận thức, xây dựng và tổ chức
thực hiện hệ thống các giải pháp đồng bộ, phù hợp để đáp ứng yêu cầu đặt ra. Giải quyết tốt yêu cầu về công
tác tư tưởng, lý luận vẫn sẽ là một trong những điều kiện quyết định hàng đầu để thực hiện thắng lợi những
mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong thời gian tới.
Trong khi khẳng định hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và hợp tác quốc tế vẫn là xu hướng lớn, có


tính chủ đạo, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, dân tộc, vùng lãnh thổ cũng như toàn thể nhân loại tiến
bộ trên thế giới, quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã trở thành động lực phát
triển của nhân loại, trong đó có Việt Nam, Đại hội XII của Đảng cũng nhận định rằng, tình hình chính trị, an
ninh, cục diện chung của thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng với nhiều diễn biến phức tạp khó

lường. Những vấn đề toàn cầu, như an ninh năng lượng, an ninh mạng, thiên tai, dịch bệnh, khủng bố ngày
càng phức tạp. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế
ngày càng nổi lên. Cạnh tranh thương mại, tranh đoạt nguồn tài nguyên giữa các quốc gia ngày càng gay gắt.
Quan hệ quốc tế vừa bị chi phối bởi xu hướng ngày càng phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, các quốc
gia, các khu vực trong các quan hệ toàn cầu về vốn, công nghệ, lao động và quá trình liên kết sản xuất, vừa
trở nên mong manh, dễ đổ vỡ trước các nguy cơ hiện thực về khủng bố, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chiến
tranh mạng, những xung đột văn hóa, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo và nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống
khác.
Khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung tiếp tục phát triển năng
động, ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng trên trường quốc tế, đồng thời cũng đang trở thành khu vực
“nóng”, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định.
Ở trong nước, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước
tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao. Đời sống của các tầng lớp nhân dân cả nước được cải
thiện một bước cơ bản và quan trọng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của đất nước được tăng cường.
Những kết quả của quá trình thực hiện đường lối đổi mới trong thời gian vừa qua cho phép và đặt ra yêu cầu
đất nước nhanh chóng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, phát triển kinh tế tri
thức. Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đó là những cơ sở căn bản để mở ra những thời cơ, vận hội rộng lớn cho sự phát triển đất nước,
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đang đặt ra. Bốn nguy cơ đe dọa sự
tồn vong của Đảng, của chế độ, của dân tộc - tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và “diễn biến hòa bình” chưa thể nhanh chóng khắc phục. Đặc biệt, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng, lãng
phí, tệ quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ còn diễn biến phức tạp, chưa thể giải quyết triệt để chính là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến giảm sút lòng tin của nhân dân. Trong bối cảnh đó, công tác tư tưởng, lý luận của Đảng
càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Phương hướng, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong điều kiện hội nhập quốc tế


Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ về nội dung, phương thức
và các bình diện của công tác tư tưởng, lý luận.

Vấn đề đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác tư tưởng, lý luận trước hết xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu,
nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
trong giai đoạn mới: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn
hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”(1). Để thực hiện mục tiêu ấy
trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhiều nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra. Trước hết, vấn đề
then chốt là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đổi mới chính trị gắn liền với xây dựng, hoàn thiện mối
quan hệ Đảng, Nhà nước với nhân dân, bảo đảm năng lực lãnh đạo đất nước, quản lý và tổ chức thực hiện
thành công các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới mô hình phát triển kinh tế từ phát triển theo
chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu gắn với kinh tế tri thức. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, đồng bộ, hợp
lý các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, y tế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo. Quản lý tốt phát triển xã hội,
bảo vệ tài nguyên môi trường, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và những nguy cơ về an ninh phi
truyền thống. Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, chính sách an ninh - quốc phòng tích
cực nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của dân tộc, bảo vệ cuộc sống hạnh
phúc của nhân dân.
Mặt khác, yêu cầu đổi mới xuất phát từ thực tế môi trường xã hội với những thay đổi to lớn đã diễn ra
trong thời gian qua. Tiến trình hội nhập quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã tạo
ra một diện mạo mới về thông tin cho xã hội. Các nguồn thông tin được quản lý, định hướng chủ động, như
báo chí, phát thanh, truyền hình không còn chiếm vị thế độc quyền cung ứng thông tin, chưa làm tốt vai trò
chủ đạo trong định hướng dư luận xã hội. Các nguồn thông tin trực tiếp được chuyển tải trên môi trường
mạng xã hội ngày càng có vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ vào quá trình hình thành nhận thức, thái độ
của nhân dân đối với các vấn đề, sự kiện chính trị - xã hội. Người dân có điều kiện thuận lợi, phong phú hơn
trong việc tiếp nhận dòng thông tin vô cùng đa dạng thông qua mạng in-tơ-net và các sản phẩm thông tin liên
lạc cầm tay thông minh. Một dung lượng lớn thông tin và các sản phẩm văn hóa từ nước ngoài hằng ngày,
hằng giờ tác động trực tiếp đến người dân, nhất là giới trẻ, không thông qua bất cứ một sự hạn chế nào và hầu
như chưa có sự hướng dẫn tiếp nhận kịp thời, đúng đắn và hiệu quả.
Yêu cầu đổi mới cũng xuất phát từ chính những thành tựu và hạn chế, khuyết điểm của công tác tư



tưởng, lý luận trong thời gian vừa qua. Cùng với tiến trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà
nước Việt Nam luôn coi trọng, quan tâm đến công tác tư tưởng, lý luận. Công tác này đã có những chuyển
biến tích cực, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, đấu tranh chống lại các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Công tác nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề mới nảy sinh, củng cố hệ thống lý luận về con đường và
bước đi của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần hình
thành cơ sở khoa học, thực tiễn cho quá trình hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, những kết quả của công tác tư tưởng, lý luận vẫn còn có khoảng cách không nhỏ so với
yêu cầu đặt ra. Nhiều vấn đề từ thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
chưa được làm rõ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa phục vụ tốt yêu cầu hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Việc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch chưa thật chủ động, thiếu sắc bén. Việc giáo dục, bồi dưỡng chính trị, đường lối, chủ trương
của Đảng cho cán bộ, đảng viên chậm đổi mới, hiệu quả thấp. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ
có phần giảm sút. Đặc biệt, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự giảm sút về ý chí chiến
đấu, lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, sự xuất hiện của những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong xã hội có phần trách nhiệm không nhỏ của công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng.
Từ thực tế ấy, việc đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác tư tưởng, lý luận được Đại hội XII của Đảng
chỉ ra gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết
phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai
đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp
với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả”(2).
Mục đích đặt ra đối với công tác tư tưởng là tạo sự đồng thuận trong xã hội trên cơ sở tuyên truyền,
giáo dục về nền tảng tư tưởng của chế độ, về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, hướng dẫn nhân dân nhận thức đúng đắn về các vấn đề, sự kiện thời sự quan trọng có ý nghĩa đối với
lợi ích quốc gia, dân tộc và cuộc sống của người dân. Để đạt được mục đích đó, trước hết phải thay đổi nhận
thức về vai trò, vị trí và yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của giai đoạn
mới. Trên cơ sở nhận thức ấy, cần đổi mới phương pháp, cách thức tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho



nhân dân, trong đó chú ý đến thế hệ trẻ. Đấu tranh chống những tư tưởng sai trái, những thủ đoạn phá hoại để
bảo vệ lý tưởng cách mạng, bảo vệ con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng củng cố niềm tin của nhân dân
vào chế độ. Tăng cường thông tin, cổ vũ các nhân tố mới, các gương tốt, điển hình tiên tiến, phát huy chủ
nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần sáng tạo, ý thức trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước.
Huy động và sử dụng hợp lý, hiệu quả mọi loại hình phương tiện, mọi lực lượng trong xã hội tham gia
thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng. Đặc biệt quan tâm đến mạng xã hội, các loại hình báo chí, truyền
thông hiện đại, đồng thời tận dụng khả năng tích cực của các loại hình, phương thức truyền thông truyền
thống. Gắn việc thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ
Tổ quốc, bảo đảm an ninh xã hội và công tác đối ngoại. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 3 khóa XII
(ngày 7-7-2016), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa đã nhấn mạnh nhiệm vụ công tác tư
tưởng mà toàn Đảng cần quan tâm: “Chú trọng công tác tư tưởng, tuyên truyền, báo chí, thông tin, tạo sự
đồng thuận trong xã hội; kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, phản bác những luận điệu sai trái”.
Thứ hai, “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn
chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin,
quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”(3).
Giáo dục văn hóa, đạo đức, xây dựng lối sống tích cực, có trách nhiệm trong nhân dân, nhất là trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ căn bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng trong
điều kiện hiện nay. Đó cũng chính là nhiệm vụ góp phần xây dựng con người mới, xây dựng đội ngũ cán bộ
vừa hồng, vừa chuyên, đủ năng lực, điều kiện lãnh đạo nhân dân, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ xây dựng,
phát triển đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Yêu cầu đặt ra là nghiên cứu xây dựng các chuẩn mực văn hóa, đạo đức của con người Việt
Nam hiện đại nói chung và của cán bộ, đảng viên nói riêng, truyền bá, giáo dục để những chuẩn mực đó đi
vào cuộc sống, trở thành lối sống của mỗi người dân, mỗi cán bộ, đảng viên. Các phương tiện công tác tư
tưởng đồng thời trở thành môi trường giám sát đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đấu tranh không
khoan nhượng với những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, mất dân chủ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và trong nhân dân.
Đồng thời, đề cao cảnh giác, phát huy tính chiến đấu, kịp thời phát hiện, phản bác các âm mưu, luận
điệu của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Thường xuyên


cảnh giác, phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ.
Thứ ba, “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan
điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho
việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới”(4).
Chất lượng, hiệu quả công tác lý luận được xem xét, đánh giá trước hết căn cứ vào chất lượng, hiệu
quả của việc xây dựng, cung cấp các cơ sở khoa học và thực tiễn phục vụ cho công tác hoạch định đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều kỳ đại hội Đảng gần đây đều có chung một nhận
xét “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”(5). Từ
thực tế ấy, vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lý luận của Đảng càng trở nên bức thiết.
Công tác lý luận của Đảng cần được đổi mới trên cả hai phương diện. Một mặt, đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác nghiên cứu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên
cứu chọn lọc để vận dụng những thành tựu, bài học kinh nghiệm của nhân loại vào điều kiện, hoàn cảnh của
Việt Nam. Mặt khác, tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới, rút ra những vấn đề, bài học tích cực, phát
hiện những sai lầm, hạn chế trong chính sách và tổ chức thực hiện chính sách và đề xuất giải pháp khắc phục.
Nội dung đặt ra cho công tác nghiên cứu lý luận trong điều kiện hiện nay trước hết là làm sáng tỏ
nhận thức và quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, trong đó có
yêu cầu xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc giải quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh tính quy luật
của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đó là các mối quan hệ giữa đổi mới với ổn định, phát triển; giữa
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tuân thủ quy luật thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa
phát triển lực lượng sản xuất với hoàn thiện quan hệ sản xuất; giữa nhà nước với thị trường; giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ

nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò
quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân...
Công tác lý luận cũng được triển khai trên những nội dung quan trọng, như phương thức lãnh đạo,
phương thức cầm quyền, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; phát triển văn hóa, con người
Việt Nam và môi trường sống an toàn, hạnh phúc của nhân dân; bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, công tác
đối ngoại của Đảng, Nhà nước, thời đại và thế giới đương đại. Đó là những vấn đề quan trọng làm cơ sở cho


×