Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích sự dịch chuyển lao động từ nông thôn sang thành thị ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.96 KB, 17 trang )

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Phân bố nguồn nhân lực
Phân bố nguồn nhân lực là sự hình thành và phân phối các nguồn nhân lực vào
các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế theo những quan hệ tỷ lệ
nhất định nhằm sử dụng đầy đủ và có hiệu quả cao các nguồn nhân lực.
Thực chất quá trình phân bố các nguồn nhân lực là sự đổi mới tình trạng phân
công lao động xã hội lạc hội sang tình trạng phân công lao động xã hội tiến bộ hơn. Sự
đổi mới và phát triển của phân công lao động có quan hệ chặt chẽ với tiến bộ khoa
học, công nghệ thông qua hệ thống công cụ lao động mà con người sử dụng. Tiến bộ
khoa học, công nghệ thúc đẩy quá trình độ phân công lao động.
Sự phát triển phân công lao động xã hội gắn chặt với sự phát triển nền kinh tế,
còn sự phát triển kinh tế lại dựa trên tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự thay đổi có tính chất
cách mạng của hệ thống công cụ sản xuất. Lịch sử của xã hội loài người đã chứng
minh rất rõ rằng, những bước phát triển mới về kinh tế xã hội đều gắn liền với những
biến đổi mới và cao hơn về phân công lao động xã hội.
1.1.2. Cơ cấu nguồn nhân lực
Cơ cấu nguồn nhân lực phản ánh tỷ trọng nguồn nhân lực theo từng tiêu thức
nghiên cứu trong nguồn nhân lực xã hội.
Kết quả của phân bố nguồn nhân lực giữa các ngành và nội bộ ngành kinh tế:
công nghiệp – xây dựng với nông lâm nghiệp và thương mại – dịch vụ và trong nội bộ
từng ngành sẽ hình thành cơ cấu nguồn nhân lực theo ngành kinh tế và nội bộ ngành;
kết quả của phân bố nguồn nhân lực giữa các thành phần kinh tế của đất nước hình
thành cơ cấu nguồn nhân lực theo thành phần kinh tế; kết quả của phân bố nguồn lực
giữa các vùng kinh tế của đất nước hình thành cơ cấu nguồn nhân lực theo vùng; còn
kết quả của phân bố nguồn nhân lực giữa thành thị nông thôn hình thành cơ cấu nguồn
nhân lực thành thị và nông thôn.
Để đo lương cơ cấu nguồn nhân lực thường dùng hai đơn vị tính là: người lao
động và thời gian lao động ( ngày – người và giờ - người).
Cơ cấu lao động là tổng thể các mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận lao động
trong tổng lực lượng lao động xã hội và được biểu hiện thông qua những tỷ lệ nhất


định.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình thay đổi tỷ trọng và chất lượng lao
động vào các ngành và các vùng khác nhau. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
tiến bộ là quá trình thay đổi tỷ trọng và chất lượng lao động vào các ngành, các vùng
theo xu hướng tiến bộ nhằm sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các nguồn nhân lực để
tăng trưởng và phát triển kinh tế.


Giữa chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế quyết định
chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thực tiễn các công trình nghiên cứu đã chứng minh cơ cấu lao động phân bố theo
ngành có quan hệ chặt chẽ với GDP bình quân đầu người. Nếu GDP bình quân đầu
người tăng lên thì tỷ trọng lao động trong nông nghiệp càng giảm và tỷ trọng lao động
trong công nghiệp, dịch vụ càng tăng.
1.2. Những yêu cầu cơ bản của phân bố nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế.
Thứ nhất, phải đảm bảo một cơ cấu lao động phù hợp với một cơ cấu kinh tế
trong từng thời kỳ phát triển. Đây là yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất. Thật vậy, vấn
đề đặt ra đối với phân bố nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế là phải xóa bỏ
khoảng cách quá xa giữa cơ cấu lao động còn lạc hậu và cơ cấu kinh tế đang phát triển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.
Thứ hai, tiếp tục giải phóng sức lao động đảm bảo phát huy tối đa nội lực nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế. Để thực hiện được yêu cầu đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi
mới tư duy về chính sách lao động – việc làm, nâng cao khả năng cạnh tranh của lao
động; đảm bảo cho người lao động thực sự được tự do trong phát triển nghề nghiệp, di
chuyển lao động, tự do thuê mướn lao động dựa vào những điều khoản được quy định
trong Bộ luật Lao động; tạo động lực lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ
lao động, đẩy mạnh phát triển thị trường lao động,...
Thứ ba, phải đảm bảo việc làm đầy đủ cho người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động và có nhu cầu được làm việc. Trong tương lai phải hướng tới việc làm

hợp lý, việc làm có hiệu quả, có năng suất và việc làm được tự do lựa chọn.
Thứ tư, phân bố nguồn lực và sử dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường
phải được bảo hiểm và an toàn. Trong kinh tế thị trường người lao động muốn tham
gia như là một lực lượng của thị trường phải chấp nhận cạnh tranh, phải có năng lực
cạnh tranh và phải đối mặt với những rủi ro do cơ chế thị trường gây nên. Vì thế,
nguồn lực con người, một mặt phải được phát triển , phân bố và sử dụng hợp lý, có
hiệu quả; mặt khác, phải được bảo vệ, phải được an toàn và che chắn bởi một hệ thống
an sinh xã hội, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về điều kiện lao động và an toàn,
vệ sinh lao động...
1.3. Dự báo xu hướng phân bố nguồn nhân lực
Thực chất của dự báo xu hướng phân bố nguồn nhân lực là xác định cầu nhân lực
cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, khối lượng công việc, sản lượng sản phẩm,
dịch vụ của các ngành, các thành phần kinh tế trong năm kế hoạch. Căn cứ để xác định
là nhiệm vụ sản xuất, nhu cầu sản phẩm của mỗi ngành, mức năng suất lao động đạt
được của ngành đó, các nhân tố ảnh hưởng đến chúng. Có nhiều phương pháp khác
nhau để dự báo. Tùy thuộc vào đặc điểm mỗi ngành mà lựa chọn các phương pháp
thích hợp.


1.3.1. Phương pháp theo tiêu chuẩn hao phí lao động
Phương pháp này được xác định dựa vào tiêu chuẩn hao phí lao động hoặc mức
thời gian lao động hao phí để hoàn thành một đơn vị công việc thời kỳ kế hoạch.
D=TxQ
Trong đó:
D: Nhu cầu lao động kỳ kế hoạch của một ngành (người)
T: Tiêu chuẩn hao phí lao động cho một đơn vị công việc
Q: Khối lượng công việc kỳ dự báo
Phương pháp này áp dụng cho các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp.
1.3.2. Phương pháp tính theo năng suất lao động
Cầu lao động năm kế hoạch tính dựa vào năng suất lao động bình quân và sản

lượng, doanh thu, giá trị tổng sản lượng kỳ kế hoạch của ngành.
D=Q/W
Trong đó:
D: Cầu lao động năm kế hoạch của ngành (người)
Q: Sản lượng, doanh thu, giá trị tổng sản lượng của ngành kỳ kế hoạch.
W: Năng suất lao động bình quân của một lao động kỳ kế hoạch
Phương pháp này áp dụng cho các ngành công nghiệp, dịch vụ...
1.3.3. Phương pháp tính theo tiêu chuẩn định biên
Tiêu chuẩn định biên là khối lượng công việc / nhiệm vụ mà một người phải đảm
nhận. Phương pháp này áp dụng cho ngành giáo dục, ý tế, phục vụ...
Để tính theo phương pháp trên cần dựa vào các căn cứ sau:
- Nhiệm vụ cần hoàn thành năm kế hoạch, như tổng số học sinh nhập trường theo
từng loại lớp học hoặc tổng số giường bệnh cần phục vụ.
- Định mức phục vụ của một giáo viên, bác sĩ... trong năm kế hoạch.
1.3.4. Phương pháp tỷ lệ
Dựa vào tỷ lệ phân bố nguồn nhân lực cho một ngành trong năm báo cáo, xem
xét phương hướng phát triển của ngành đó trong năm kế hoạch và tính đến những nhân
tố ảnh hưởng đến nhu cầu nhân lực của ngành trong năm kế hoạch, từ đó xác định tỷ lệ
nguồn nhân lực trong năm kế hoạch.
N=SxK


CHƯƠNG 2: GIẢI THÍCH SỰ DỊCH CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ NÔNG
THÔN SANG THÀNH THỊ Ở VIỆT NAM
Di cư nói chung và di cư nông thôn ra thành thị nói riêng là quá trình làm cân
bằng các nguồn lực kinh tế để tạo lập một bước tiến mới trong sự phát triển kinh tế. Có
nhiều nguyên nhân theo các nhà nghiên cứu dẫn đến di cư từ nông thôn ra thành thị mà
nhóm nghiên cứu nêu ra 3 nguyên nhân chính dưới đây.
2.1. Đô thị hóa nông thôn làm tăng tỷ trọng dân số thành thị và các nguồn nhân
lực thành thị tăng.

2.1.1. Nguyên nhân của sự dịch chuyển lao động từ nông thôn sang thành thị
Như chúng ta đã biết,Quá trình đổi mới kinh tế đã từng bước chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp hiện đại. Trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nhiều khu công nghiệp lớn đã được xây dựng
ở các thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh,
Biên Hòa, Bình Dương,... Cùng với quá trình công nghiệp hóa là quá trình đô thị hóa
cũng diễn ra hết sức nhanh chóng.
Trong khi các khu công nghiệp, khu đô thị phát triển và sự năng động của các
thành phần kinh tế đã tạo ra được nhiều công ăn việc làm thì ở đó nguồn nhân lực lại
bị thiếu hụt, không đủ để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp và
các ngành dịch vụ của thành phố. Nông thôn sẽ là nguồn cung cấp chính về lao động
cho sự thiếu hụt ấy thông qua các dòng di dân từ nông thôn ra thành thị.
Trong các vùng mà dòng người di cư từ nông thôn tìm đến thì miền Đông Nam
Bộ là vùng có sức thu hút lớn nhất, vì đây là khu vực hoạt động hết sức năng động với
nhiều khu công nghiệp lớn ra đời. Tiếp đến là tam giác kinh tế trọng điểm ở Bắc Bộ
gồm các thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh cũng là nơi thu hút đông đảo
dòng người di cư từ nông thôn ra thành phố. Hai thành phố là Đà Nẵng và Cần Thơ
cũng thu hút khá nhiều người nhập cư hơn các thành phố còn lại.
Điều này nói lên rằng, các khu công nghiệp và các khu đô thị có sức hấp dẫn
mạnh mẽ nguồn lao động ở nông thôn, bởi lẽ, đó là nơi có thể đáp ứng nhu cầu về việc
làm, tăng thêm thu nhập, là mảnh đất có nhiều cơ hội thăng tiến cho lao động di cư từ
nông thôn ra thành thị, đặc biệt là lớp người trẻ tuổi.
Nếu chỉ nhấn mạnh đến sự sôi động trong các khu công nghiệp và dịch vụ ở
thành phố làm cho bộ mặt đô thị thay đổi từng ngày và tạo ra sức hấp dẫn đối với dòng
di cư từ nông thôn ra thành thị thì chưa đủ, bởi vì chính những điều kiện sản xuất, sinh
sống ở nông thôn cũng góp phần thúc đẩy sự gia tăng dòng di cư này.
2.1.2. Đô thị hóa nông thôn làm tăng tỷ trọng dân số thành thị và các nguồn
nhân lực thành thị tăng.
Để hiểu được vấn đề thay đổi tỷ trọng dân số thành thị chúng ta cần hiểu rõ khái
niệm: Đô thị hóa nông thôn là gì? Đô thị hóa nông thôn được biểu hiện qua: Đến nay,

sự nhận biết những biểu hiện, hiện tượng của đô thị hóa đa phần là qua vẻ bề ngoài,
qua những biểu hiện vật chất. Người ta nói, nông thôn giờ cũng có nhà nhiều tầng,


cũng dùng những vật liệu, thiết bị tương tự thành thị. Về mặt kiến trúc, xây dựng với
những hình hài na ná như đô thị. Đó là biểu hiện mà ta dễ thấy và dễ nói.
Nông thôn xuất hiện hệ thống hạ tầng rất giống đô thị, như là hệ thống đường sá
bê tông hóa, nhựa hóa.
Nông thôn cũng xuất hiện những dạng đường phố trên cơ sở Phố hóa đường làng,
như xuất hiện những tiệm, cửa hàng như đô thị, tuy với quy mô nhỏ hơn từ karaoke
đến gội đầu, café…
Một biểu hiện hiển thị nữa, đó là trong cách ăn mặc, sinh hoạt của đa phần người
dân nông thôn, nhất là tầng lớp trẻ…
Nhìn vào tất cả những yếu tố đó, người ta gọi đó là biểu hiện của đô thị hóa. Nói
như thế mới chỉ là sự nhận biết bề ngoài, không sâu xa và chưa hẳn đã là bản chất.
Như vậy, chúng ta không có đầy đủ những “cơ may” để định hướng, dẫn dắt, can thiệp
vào quá trình vận động đô thị hóa nông thôn đang tự phát như hiện nay. Nông thôn với
tư cách là những làng xóm, là những cấu trúc cộng cư bao giờ cũng phát triển theo
hướng tự phát và phát triển rất chậm, từ nội lực bên trong và ít bị tác động bởi động
lực bên ngoài. Sự phát triển nông thôn bị chi phối rất chậm, lâu, bền và dai dẳng bởi hệ
tư tưởng của xã hội, chế độ xã hội, từ đó sinh ra lực quán tính. Cấu trúc cộng cư nông
thôn và cấu trúc cộng cư đô thị, đều là cấu trúc cộng cư cả nhưng là biểu hiện của hai
tầng nấc tiến hóa của văn minh cộng cư. Hình thái cộng cư nông thôn hình thành trên
cơ sở sản xuất nông nghiệp, những người phần lớn làm ruộng và nền kinh tế tự cung tự
cấp, yếu tố giao lưu thông thương hết sức mờ nhạt, hãn hữu. Các làng xóm Việt Nam
thường có xu hướng khép lại, thu mình vào bởi nền tảng kinh tế tự cung tự cấp. Người
nông dân “sống trong làng, chết ra đồng”, ra đồng để cấy cày, hoặc ra đồng để chết.
Còn sống là sống trong khuôn khổ ngôi làng, bị chi phối bởi luật lệ của làng (thành
văn hoặc bất thành văn) – rất sâu xa. Sự độc khép ấy được kéo dài từ thời này qua thời
khác, được củng cố bởi hệ thống tư tưởng hệ phong kiến và hệ thống quản lý nông

thôn là sản phẩm hết sức tinh tế, bền dai của chế độ phong kiến, phân tầng rất chặt chẽ.
Và, với làng quê Việt Nam, cái cơ bản ấy chính là nét đặc trưng của một cấu trúc cộng
cư nông thôn – phát triển hết sức chậm và định hình dần dần, rất ít biến đổi và nó
không bao giờ có sự phát triển nhanh, nhạy như đô thị. Ngược lại với nó, đô thị là một
cấu trúc thoát ly khỏi nền sản xuất nông nghiệp với hoạt động chính là làm ra những
sản phẩm đi lên từ nông nghiệp, thủ công… phục vụ đời sống nhưng không phải là cấy
trồng và từ trao đổi hàng hóa.
Vậy, Đô thị hóa nông thôn không chỉ nằm ở những biểu hiện bên ngoài mà nằm
ở bản chất của sự thay đổi ở nông thôn.
Bản thân quá trình vận động từ làng đến phố diễn ra trong một khoảng thời gian
khá dài. Trước khi đến đô thị thì phải đi từ làng đến thị, từ thị đến phố. Khi người nông
dân ra phố, trở thành con người khác. Con người thứ nhất là con người gia công, con


người thứ hai là con người buôn bán. Người gia công, người buôn bán trong sự cộng
cư tứ xứ đã hình thành, đúc kết, tinh chế lên một nền văn hóa đô thị, văn hóa phố.
Thành phố khi đó trở thành một thiết chế động, còn nông thôn là một thiết chế đọng bị
chi phối bởi lực quán tính, nền sở hữu chia chác… Chính cái động làm cho đô thị là
một cơ thế luôn luôn chuyển động, biến đổi trong sự cạnh tranh, giao lưu, sàng lọc và
đào thải rất nhanh, tiếp thu cũng rất nhanh. Cộng với việc nâng cao dân trí, sự thoát ly
ràng buộc với lũy tre làng, người dân đô thị có sức bứt phá nhưng chưa quá nhanh.
Bởi, tính đến thời điểm hiện tại, người phố cũng chưa khác xa người nông dân nhiều
lắm, vì họ cũng mới thoát ly khỏi đồng ruộng mà thôi. Nhưng, dù sao những con
người đó cũng đã được “nạp acquy”, có nhân tố sản xuất phi nông nghiệp, có buôn
bán, có cạnh tranh, trở nên rất tích cực.
Nông thôn Việt Nam là một cấu trúc cộng cư cố hữu sâu xa không chỉ bởi cấu
trúc cơ thể xóm làng mà còn bởi lực quán tính không dễ gì buông nới người nông dân.
Làng Việt Nam với lũy tre bao quanh, là một biểu hiện của sự ngưng đọng với sự phát
triển hết sức chậm, một thiết chế mà cái cổng sinh ra không phải để đi ra, mà là để
bước vào. Người ta sống với nhau trong khuôn viên nhà, khuôn viên làng xóm. Cái

làng là một thiết chế cứng, đọng, từ cổng làng đến ngõ xóm, đến mỗi gia đình đều có
cổng. Sự phân chia không gian ấy cũng là phân chia của cả xã hội và mối quan hệ.
Người nông dân sống trong khuôn viên đất của mình đều vo lại trong cái khuôn viên
riêng đó, tự cung tự cấp. Họ trồng cây lấy gỗ làm nhà, lấy quả để ăn, trồng rau, nuôi
gà… với cái ao được coi là “vạn năng” vừa là công cụ vi khí hậu, vừa là nơi để nuôi
cá, tắm giặt, lấy nước… hoàn toàn đều có ý nghĩa riêng của nó… như một “sơ đồ
khép” mà chỉ nông thôn Việt Nam mới có. Tư duy ấy chi phối quan điểm, cuộc sống
của người dân đến tận hiện tại, và ảnh hưởng tới tư duy quản lý của cả đất nước. Miền
Bắc (Bắc Ninh) ảnh hưởng rõ nhất qua việc xây tường gạch phân chia giữa hai nhà.
Vào đến miền Trung như Huế, phân cách bằng việc rào dậu bằng cây trà tàu. Miền
Nam thì gần như để buông… Đó hoàn toàn xuất phát từ hệ tư tưởng, không phải từ
vấn đề đất chật người đông. Do bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng phong kiến, người ta phải
khoanh lại sau bức tường.
Chúng ta phải nhìn nhận nông thôn Việt Nam như thế, không phải chỉ ở cuộc vận
động cách mạng hướng về đô thị rằng người nông dân phải dùng các đồ tiện nghi như
đô thị, hàng hóa của đô thị, thì đã là đô thị hóa. Người nông dân, dù có ra đô thị ở 20 –
30 năm trong mỗi con người vẫn tồn tại tính chất riêng. Cái đó đôi khi nhầm, người ta
coi đó chính là “bản sắc” Việt Nam. Nhưng, người nông dân là gì, là sở hữu nhỏ lẻ, tư
duy ngắn gọn, thiết thực, ngại cái mới, bảo thủ, ăn chắc mặc bền... Cuối cùng, người
nông dân Việt Nam phần lớn bị chi phối bởi tư duy tự phát, tư duy ứng biến.
Sự thay đổi lớn nhất của nông thôn thời điểm hiện nay mà chúng ta có thể nhìn ra
ngay, đó là chất lượng sống thay đổi, phương thức sản xuất thay đổi, hạ tầng thay
đổi… Nhưng thay đổi bản chất nhất hiện nay là: thôn làng là những hạt nhân cộng cư


kiểu nông thôn đang trở thành những thiết chế cộng cư động, nhưng rất bị động. Tuy
có tính động như đô thị nhưng chậm hơn. Thiết chế này được thể hiện rõ khi người
nông dân không hạn chế trong một ngôi làng hoặc liên xã, huyện mà họ có khả năng
nhìn xa hơn rất nhiều. Người nông dân thoát ly khỏi nông thôn cũng rất nhiều. Tái
nhập trở lại nông thôn cũng rất nhiều. Hãy nhìn lại một làng quê nông thôn hiện tại,

còn lại bao nhiêu người, người ra thành thị học, người ra làm việc, người bán hàng…
có chăng còn lại toàn người già và trẻ em, những người trong độ tuổi lao động đã
không còn mấy ai mặn mà với con trâu, thửa ruộng. Người ta khi làm ra tiền của lại
mang về quê. Hàng ngàn hàng vạn người dân đang phủ kín các đô thị và chính lực
lượng ấy đang nông thôn hóa những hạt nhân đô thị hiện rất ít ỏi của Việt Nam. Đô thị
Việt Nam thực sự với ý nghĩa là đô thị có văn hóa đang rất ít. Chính sự tràn ra đô thị
một cách ồ ạt như hiện nay lại có một hiện tượng rất hay, đó là nông thôn hóa đô thị,
cả về lối sống, cả về văn hóa. Đô thị dội lại nông thôn bằng những tiện nghi, bằng kiến
trúc, lối sống… và nông thôn chấp nhận một cách vội vàng, có phần đua đòi.
Từ những vấn đề trên, việc đô thị hóa nông thôn khiến cho tỷ trọng nghề nghiệp
ở nông thôn có sự thay đổi, chính sự thay đổi này làm cho một lượng lớn người dân
trong độ tuổi lao động chuyển dịch từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm cơ hội việc
làm, tăng thu nhập.
Chúng ta có thể kết luận rằng:Di cư từ nông thôn ra thành thị và các KCN thời
gian qua ngày càng gia tăng và có tính rộng khắp trên các vùng nông thôn trong cả
nước có những thời điểm diễn ra trên bình diễn rộng với qui mô lớn… tình hình trên
tuy có nhiều nguyên nhân, song có thể khái quát theo các nhóm nguyên nhân chính
dưới tác động của các yếu tố “đẩy” và “hút” lao đông từ nông thôn di cư ra thành thị
và KCN, đó là:
 Sự gia tăng dân số và sức ép về lao động việc làm ở khu vực nông thôn ngày
càng gia tăng
Tỷ lệ tăng dân số ở nước hiện nay ở mức 1,5%/năm. Trong khu vực nông thôn
tăng trên 1,8%/năm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và
thu hút của các ngành,
Hơn nữa, người có việc làm trong nông thôn thì tỷ lệ sử dụng thời gian chỉ đạt
70 -75%.... dư thừa lao động cả về tương đối và tuyệt đối trong nông nghiệp, nông
thôn là rất lớn… thực trạng trên là nguyên nhân chính tạo ra làn sóng dư cư tìm kiếm
việc làm ngày càng lớn, đặc biệt đối với những tỉnh thuộc vùng đồng bằng đất chật
người đông.
 Đất đai sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp trở nên ngày càng khan hiếm thiếu

TLSX và thừa lao động như là một lực đẩy đối với lao động ở khu vực nông
nghiệp, nông thôn


Nông nghiệp, nông thôn với 7 triệu ha diện tích đất canh tác như hiện nay, tương
đương nhu cầu tối đa 19 triệu lao động. So với 25,6 triệu lao động trong khu vực nông
nghiệp thì còn dư 6,6 triệu và con số này không dừng lại, mà còn được tích tụ, dồn nén
thêm bởi lực lượng lao động mới hàng năm tăng thêm và kèm theo đó là đất đai nông
nghiệp bị thu hẹp cho phát triển công nghiệp và đô thị.
 Tình trạng do phát triển không đều, sự chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa
nông thôn thành thị và ngày càng có xu hướng doãnh ra là một trong những
nguyên nhân có sức hút di cư từ nông thôn ra thành thị.
Cuộc sống của đa số người nông dân, đặc biệt các hộ thuần nông và các vùng sản
xuất gặp khó khăn,… thu nhập thấp và cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Tình trạng
nghèo, đói, cơ sở phúc lợi yếu kém, đời sống văn hóa tinh thần thiếu so với thành thị.
Sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, chi phí sản xuất cao và nhiều rủi ro…
Chênh lệch thu nhập và mức sống đã tạo nên lực đẩy chủ yếu dòng người di cư vào
thành thị. Theo Harris - Todaro vấn đề di cư nông thôn ra thành thị xét về cường độ và
qui mô, theo hàm số về mức độ di cư (Mt).
Mt = F (Wu-Wr)
Trong đó: Wu: Mức lương kỳ vọng ở thành thị Wr: Mức thu nhập ở nông
thônWu-Wr: Chênh lệch thu nhập thành thị so với nông thôn
Nhiều tài liệu điều tra về thu nhập ở nước ta cho thấy, mức thu nhập và đời sống
ở thành phố cao hơn nhiều lần so với nông thôn.
Thành phố và các KCN còn mang lại nhiều cơ hội việc làm và có mức thu nhập
cao hơn nhiều so với ở nông thôn. Tuy nhiên, để lao động di cư vào thành phố kiếm
được việc làm và hòa nhập vào nền kinh tế đô thị hoàn toàn không dễ dàng. Vì kỳ
vọng sẽ tìm kiếm được việc làm và thu nhập tốt hơn, nên người lao động di cư từ nông
thôn vẫn sẵn sàng chấp nhận rủi ro và thách thức, bởi không có lựa chọn nào khác.
Mỗi khi chênh lệch thu nhập và cuộc sống giữa thành thị và nông thôn còn có khoảng

cách.
 Ngoài mức thu nhập có tính hấp dẫn nêu trên còn có các điều kiện và lý do
khác như:
Học hành và nâng cao trình độ nghề nghiệp, và tiếp cận với văn minh và môi
trường sống đô thị về y tế, cơ sở hạ tầng vui chơi giải trí… tạo nên tâm lý thích ra
thành thị, nhất là đối với thanh niên muốn học hành và thay đổi môi trường sống…
Theo điều tra ở một số tỉnh cho thấy các nguyên nhân/lý do di cư nông thôn ra thành
phố dưới nhiều hình thức, lý do khác nhau và quyết định di cư có sự tác động của
nhiều động lực khác nhau. Nhưng về kinh tế vẫn là động lực chính đối với người dân
nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm chiếm trên 85%. Điều đó cho thấy tìm việc
làm tìm kiếm thu nhập như là một giải pháp về “sinh kế”. Với mục đích lớn nhất là tìm
việc làm để nâng cao thu nhập, nhằm cải thiện cuộc sống cho gia đình.


2.2. Thành phố luôn là điểm vươn tới của người dân nghèo, có thu nhập thấp ở
nông thôn nhằm tìm kiếm việc làm và kiếm thu nhập.
* Vấn đề lao động nông thôn di cư ra thành thị và các khu công nghiệp tìm
kiếm việc làm là vấn đề có tính xã hội, phụ thuộc khá lớn vào quá trình phát triển kinh
tế- xã hội của mỗi quốc gia. Và không thể phủ nhận vai trò tích cực của làn sóng di cư
lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp (KCN) nhất là đối với các
nước kinh tế chậm phát triển khi thu nhập và điều kiện sống còn có sự chênh lệch lớn
giữa nông thôn và thành thị.
* Với sự khác biệt về thu nhập giữa các vùng, đặc biệt là giữa thành thị và nông
thôn, như Hà Nội, Thành phố HCM và các khu công nghiệp khác luôn có mức thu
nhập cao hơn nhiều sovới khu vực nông thôn đã trở thành lực hút mạnh và khá hấp dẫn
với lao động nông thôn. Do vậy, những năm gần đây di cư tự do, tự phát đã diễn ra
ngày càng có tính phổ biến trong mọi miền quê với quy mô và cường độ ngày càng
cao… đã trở thành xu hướng và có tính quy luật khách quan. Điều này phụ thuộc khá
lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
2.2.1. Tình hình tổng quan lao động nông thôn di cư ra thành thị và vào các KCN

 Di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp
Ở nước ta ngày càng có xu hướng gia tăng và có tính phổ biến rộng khắp trên các vùng
nông thôn trong cả nước: Theo kết quả của các cuộc Tổng điều tra dân số năm
1999 và năm 2009, thì qui mô di cư trong nước năm1999 là 4,5 triệu người (chiếm
khoảng 6,5% dân số), sau 10 năm con số nàyđã đến 6,5 triệu người (chiếm khoảng
7,57% dân số), rõ ràng người di cư đã tăng mạnh hơn nhiều so với tăng dânsố. Việc di
cư lao động nông thôn tập trung nhiều đến các thành phố lớn như: TP. HCM chiếm
31% dân số của địa phương, thậm chí có tới 50% dân số là người di cư trong 7/24
quận/huyện của thành phố; ở Hà Nội dân số di cư chiếm tới 10% dân số; và Đà Nẵng
con số này là khoảng 6,4%;…
 Đặc trưng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị và các KCN
Ở nước ta là ngày càng trẻ hóa: Theo kết quả điều tra gần đây cho thấy lao động di cư
từ nông thôn ra thành thị phần lớn thuộc nhóm dân cư trẻ tuổi (18- 30 tuổi) và chưa kết
hôn. Tuy phần lớn số người di cư là nam giới nhưng nữ giới lại có xu hướng di cư trẻ
hơn nam giới, tỷ lệ nữ di cư ở độ tuổi dưới 25 tuổi chiếm 55,4% còn nam chiếm
42,4%. Mục đích di cư chủ yếu là để tìm kiếm việc làm, lao động kiếm sống và cải
thiện thu nhập. Nhưng nhìn chung, phụ nữ thường có nhiều trách nhiệm về kinh tế gia
đình hơnnam.
 Lao động di cư nông thôn ra thành thị những năm gần đây khá đa dạng, thuộc
nhiều lứa tuổi và điều kiện kinh tế gia đình khác nhau.
Tuy vậy, phần lớn vẫn là những đối tượng thuộc nhóm yếu thế: Nhiều kết quả điều tra
nghiên cứu cho thấy lao động nông thôn di cư ra thành phố làm rất nhiều nghề hoặc
việc làm nặng nhọc, độc hại, với trình độ lao động phổ thông và giản đơn (làm thuê


trong các công trường xây dựng, các cơ sở sản xuất/tái chế nhựa, may mặc, da giày,
bảo vệ,…), bán hàng rong, giúp việc gia đình… Phần lớn làm việc trong các cơ sở
kinh tế thuộc khu vực phi chính thức như các cơ sở kinh tế tư nhân, kinh tế gia đình
hoặc tự làm việc… Nên tỷ lệ được ký hợp đồng lao động thấp, hoặc có hợp đồng
laođộng thì chủ sử dụng lao động cũng ít quan tâm đếntránh thực hiện BHXH và các

phúc lợi xã hội khác đối vớingười lao động trong các cơ sở kinh tế thuộc khu vực phi
chính thức.
Thu nhập thấp, lao động nặng nhọc và không ổn định,mặt khác có thể bị mất việc
làm bất cứ lúc nào, là hiện tượng khá phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu do khủnghoảng
kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực tới việc làm của lao động nôngthôn.
 Dòng lao động di cư từ nông thôn ra đô thị và vào các KCN tìm việc làm với
nhiều hình thức và qui mô khác nhau
Có thể đi một mình hoặc có thể đi cùng bạn bè, họ hàng, người thân trong gia đình,
hoặc qua các kênh tuyển dụng của cáccôngty, doanhnghiệp,hoặcthông quacáctrung tâm
giới thiệu việc làm… nhưng chủ yếu là đi cùng những người bạn bè trang lứa cùng
làng, xã… Qua điều tra có 24,2% người di cư ra đô thị làm việc cùng người nhà;
14,8% cùng những người thân trong dòng họ; 41,2% người di cư đi cùng những người
bạn bè cùng làng, xã, theo các kênh có tổ chức.Thông qua các trung tâm 7,0% và các
hình thức khác 14,%… Điều này phản ánh tính kết cấu cộng đồng cao của những
người di dân rất cao thông qua hình thức di chuyển theo nhóm (cùng bạn bè, làng, xã)
là cơ sở tạo cho người di dân có được tâm lý an toàn khi di chuyển.
2.2.2. Nguyên nhân thúc đẩy sự gia tăng di cư tự tự do của lao động nông thôn vào
thành thị và các KCN của người dân nghèo muốn tìm kiếm việ làm và thu nhập
Di cư từ nông thôn ra thành thị và các KCN thời gian qua ngày càng gia tăng và
có tính rộng khắp trên các vùng nông thôn trong cả nước có những thời điểm diễn ra
trên bình diễn rộng với qui mô lớn…tình hình trên tuy có nhiều nguyên nhân, song có
thể khái quát theo các nhóm nguyên nhân chính dưới tác động của các yếu tố “đẩy” và
“hút” lao đông từ nông thôn di cư ra thành thị và KCN, đó là:
2.2.2.1. Sự gia tăng dân số và sức ép về lao động
Việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng gia tăng: Tỷ lệ tăng dân số ở nước hiện
nay ở mức 1,5%/ năm. Trong khu vực nông thôn tăng trên 1,8%/ năm. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và thu hút của các ngành. Hơn nữa,
người có việc làm trong nông thôn thì tỷ lệ sử dụng thời gian chỉ đạt 70 -75%.... dư
thừa lao động cả về tương đối và tuyệt đối trong nông nghiệp, nông thôn là rất lớn…
thực trạng trên là nguyên nhân chính tạo ra làn sóng dư cư tìm kiếm việc làm ngày

càng lớn, đặc biệt đối với những tỉnh thuộc vùng đồng bằng đất chật người đông.
2.2.2.2. Tình trạng do phát triển không đều, sự chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa
nông thôn thành thị và ngày càng có xu hướng doãnh ra là một trong những nguyên
nhân có sức hút di cư từ nông thôn ra thành thị.


Cuộc sống của đa số người nông dân, đặc biệt các hộ thuần nông và các vùng sản
xuất gặp khó khăn,… thu nhập thấp và cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Tình trạng
nghèo, đói, cơ sở phúc lợi yếu kém, đời sống văn hóa tinh thần thiếu so với thành thị.
Sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, chi phí sản xuất cao và nhiều rủi ro…
Chênh lệch thu nhập và mức sống đã tạo nên lực đẩy chủ yếu dòng người di cư vào
thành thị
Thành phố và các KCN còn mang lại nhiều cơ hội việc làm và có mức thu nhập
cao hơn nhiều so với ở nông thôn.Tuy nhiên, để lao động di cư vào thành phố kiếm
được việc làm và hòa nhập vào nền kinh tế đô thị hoàn toàn không dễ dàng. Vì kỳ
vọng sẽ tìm kiếm được việc làm và thu nhập tốt hơn, nên người lao động di cư từ nông
thôn vẫn sẵn sang chấp nhận rủi ro và thách thức, bởi không có lựa chọn nào khác.
Mỗi khi chênh lệch thu nhập và cuộc sống giữa thành thị và nông thôn còn có khoảng
cách.

Bảng 2. Thu nhập bình quân năm của dân cư
Bảng 2 cho thấy chênh lệch thu nhập giữa thành phố và nông thôn rất lớn trên 2,1
lần, tuy thu nhập ở nông thôn đã có nhiều cải thiện (năm 2008/1996 đã tăng lên 4 lần
cao hơn so với thành phố) nhưng khoảng cách về thu nhập vẫn còn lớn.
Ngoài mức thu nhập có tính hấp dẫn nêu trên còn có các điều kiện và lý do khác
như: học hành và nâng cao trình độ nghề nghiệp, và tiếp cận với văn minh và môi
trường sống đô thị về y tế, cơ sở hạ tầng vui chơi giải trí… tạo nên tâm lý thích ra
thành thị, nhất là đối với thanh niên muốn học hành và thay đổi môi trường sống…
Theo điều tra ở một số tỉnh cho thấy các nguyên nhân/lý do di cư nông thôn ra thành
phố dưới nhiều hình thức, lý do khác nhau và quyết định di cư có sự tác động của

nhiều động lực khác nhau. Nhưng về kinh tế vẫn là động lực chính đối với người dân
nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm chiếm trên 85%. Điều đó cho thấy tìm việc
làm tìm kiếm thu nhập như là một giải pháp về “sinh kế”. Với mục đích lớn nhất là tìm
việc làm để nâng cao thu nhập, nhằm cải thiện cuộc sống cho gia đình.


2.3. Các khu công nghiệp, khu chế xuất hình thành, nhiều hộ nông dân bị mất đất
buộc phải chuyển sang lao động phi nông nghiệp.
2.3.1. Thực trạng quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm
gần đây
Quá trình đô thị hóa nông thôn ở Việt Nam trong những năm gần đây diễn ra với
tốc độ khá nhanh, làm biến đổi bộ mặt kinh tế, văn hóa, xã hội trên cả nước.
Đô thị hóa ở Việt Nam phát triển từ năm 1990, lúc đó cả nước có khoảng 520 đô
thị (tỷ lệ đô thị hóa vào khoảng 17-18%); đến ngày 01/1/1999 (theo cuộc tổng điều tra
dân số cả nước) đã có 624 đô thị với số dân 17,92 triệu người, chiếm 23,5% tổng số
dân. Đến năm 2000 số đô thị là 649, và năm 2003 đã tăng lên 656 đô thị. Kết quả tổng
điều tra dân số lao động của Tổng cục thống kê ngày 01/4/2009 cho thấy, cả nước đã
có trên 800 đô thị với dân số 25.374,262 người, chiếm 29,5% tổng số dân. Theo dự
báo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt khoảng
40%, tương đương với số dân cư sinh sống tại đô thị khoảng trên 45 triệu dân
Hiện nay, cả nước có 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 44 thành phố trực thuộc
tỉnh, 45 thị xã và trên 500 thị trấn. Bên cạnh những đô thị có bề dày lịch sử tiếp tục
được mở mang, nâng cấp, còn xuất hiện ngày càng nhiều các khu đô thị mới tập trung,
trong đó hệ thống các thị trấn, thị tứ ngày càng tỏa rộng, tác động mạnh mẽ tới khu
vực nông thôn.
Chính vì thế, sự phát triển của các thành phố ở Việt Nam đang gặp khó khăn do
sự quá tải về lao động, dân cư, còn thiếu thốn về hệ thống hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ
xã hội - nhà ở, điện, nước sạch, giao thông, bệnh viện và trường học chưa được xây
dựng tương xứng để đáp ứng được nhu cầu của cư dân. Bên cạnh đó, quá trình đô thị
hóa nhanh đã gây ra làn sóng di chuyển vào các đô thị để tìm việc làm của số lao động

nông thôn bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, làm cho các đô thị,bản thân đã chưa đủ
đáp ứng nhu cầu việc làm, cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội, lại ngày càng trở nên chật
chội, đông đúc. Bên cạnh đó số nông dân còn lại ở các vùng thôn quê không còn đất
sản xuất, chuyển đổi nghề không được, đời sống của họ lâm vào cảnh khó khăn, thất
nghiệp
Về diện tích đất nông nghiệp, đất ở bị thu hồi để phát triển các khu công nghiệp,
đô thị và các công trình công cộng
Theo số liệu điều tra của BNNPTNT năm 2010 tại 16 tỉnh trọng điểm về thu hồi
đất, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm khoảng 89% và diện tích đất thổ cư
chiếm 11%. Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích đất bị thu hồi lớn nhất, chiếm
4,4% tổng diện tích 5 đất nông nghiệp của cả nước, tỷ lệ này ở Đông Nam Bộ là 2,1%,
ở nhiều vùng khác là dưới 0,5%. Những địa phương có diện tích đất thu hồi lớn là Tiền
Giang (20.308ha), Đồng Nai (19.752ha), Bình Dương (16.627ha), Quảng Nam
(11.812ha), Cà Mau (13.242ha), Hà Nội (7.776ha), Hà Tĩnh (6.391ha), Vĩnh Phúc
(5.573ha)


Bảng 1.2. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ở một số địa phương trên cả
nước
(Tính đến tháng 6/2009)

Nhìn bảng số liệu trên ta thấy Bắc Ninh là tỉnh có tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồi
cao nhất, chiếm 70,11% tổng diện tích đất nông nghiệp, các tỉnh, thành như Hà Nội,
Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hưng Yên có tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồi tương đối cao,
khoảng trên dưới 30%; còn ở một số tỉnh như Kiên Giang, Đồng Tháp, có tỷ lệ đất
nông nghiệp thu hồi thấp, lần lượt chiếm chỉ khoảng 7,4% và 8,02% tổng diện tích đất
nông nghiệp. Ở nhiều nơi, mặc dù diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm tỷ lệ nhỏ
trong tổng diện tích tự nhiên nhưng hầu hết đất nông nghiệp bị thu hồi tập trung ở một
số huyện, xã có mật độ dân số cao, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người
thấp, có nhiều xã có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm 70-80% diện tích đất

canh tác, có nhiều xã chiếm tới 100%, điển hình ở các huyện nằm trong khu vực Hà
Nội mở rộng và các xã, huyện được quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp, khu đô
thị.
2.3.2. Một số bất cập trong chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân bị thu hồi đất
a- Về phía các cơ quan chức năng
- Thứ nhất, việc bồi thường cho người dân có đất bị thu hồi được thực hiện theo
nguyên tắc bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng (thu hồi đất nông nghiệp thì
bồi thường bằng đất nông nghiệp, thu hồi đất ở thì bồi thường bằng đất ở). Song do
quỹ đất rất hạn chế nên đa số các trường hợp được bồi thường bằng tiền. Đối với đất


nông nghiệp là đối tượng chủ yếu của công tác thu hồi (chiếm 89% diện tích đất thu
hồi giai đoạn 2001 - 2007), thực tế thị trường giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất
giữa những người sản xuất nông nghiệp với nhau là rất ít, nên việc thực hiện quy
định: giá đất để tính bồi thường phải sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thực tế trên thị trường là rất khó khăn và chưa được thực hiện thống nhất.
- Thứ hai, kế hoạch thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp của các cơ quan
chức năng dường như không gắn với kế hoạch đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho
người bị mất đất; chính sách và biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động bị
thu hồi đất chưa được cụ thể hoá bằng các biện pháp khả thi, đồng thời việc triển khai
thực hiện còn nhiều vướng mắc; năng lực của bộ máy chính quyền trong giải quyết
việc làm nói chung vừa yếu, vừa thiếu, không có sự phối hợp, phân công hợp lý giữa
các cơ quan; chưa thiết lập được hệ thống thông tin đủ độ tin cậy, hiệu quả, dễ dàng
tiếp cận giữa người lao động với các cơ quan chức năng liên quan, các doanh nghiệp/
các đơn vị sản xuất kinh doanh và ngược lại.
- Thứ ba, một số trung tâm đào tạo nghề cho nông dân thì chỉ biết đào tạo còn
không biết nhu cầu thị trường sức lao động ra sao, không biết sau đào tạo người nông
dân có được nhận vào các cơ sở sản xuất hay không. Hạn chế của các cơ sở đào tạo
nghề đã làm cho số lượng và đặc biệt là chất lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu của bên tuyển dụng lao động hoặc của bản thân người lao động để tạo

dựng cơ hội việc làm mới.
- Thứ tư, đối với các hộ nông dân mất đất nông nghiệp phải chuyển sang các
ngành nghề phi nông nghiệp, công tác chuẩn bị như tuyên truyền, vận động, làm công
tác tư tưởng, giải quyết việc làm, đào tạo nghề mới chưa được đầu tư thoả đáng nên
kết quả còn nhiều hạn chế.
- Thứ năm, kết cấu hạ tầng nông thôn còn chưa đồng đều đã tác động tiêu cực
đến nhiều mặt sản xuất và kinh doanh dịch vụ của hộ nông dân nói chung và nông dân
mất đất nói riêng.
b-Về phía các doanh nghiệp:
Công tác đào tạo nghề của doanh nghiệp nhận đất không được quan tâm nên kết
quả tạo việc làm cho người nông dân mất đất đạt được thấp. Không ít doanh nghiệp
chưa thực sự quan tâm đến trách nhiệm hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động
có đất đai bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, quy định tuổi tuyển dụng quá thấp
(18-23 tuổi), không tổ chức đào tạo nghề tại doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chỉ
tiếp nhận người lao động bị thu hồi đất vào làm việc mang tính hình thức để thể hiện
rằng họ cũng thực hiện đúng các cam kết về tuyển dụng lao động địa phương, nhưng
sau đó, bằng cách này hay cách khác, họ đã dần dần sa thải lực lượng lao động này.


c-Về phía người lao động
Trong nhiều trường hợp, bản thân người lao động không đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động, thụ động, ỷ vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, vào tiền đền
bù mà không cố gắng vượt qua khó khăn tìm kiếm việc làm. Khả năng có được việc
làm mới của nông dân là rất thấp, do trình độ chuyên môn và khả năng thích ứng với
điều kiện mới của họ không cao. Bên cạnh đó, việc thay đổi tư duy và phong cách làm
việc cho phù hợp với tác phong công nghiệp của họ còn chậm. Đây chính là những lực
cản lớn đối với người nông dân mất đất trong việc kiến tạo việc làm mới cho bản thân.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến việc nông dân lâm vào cảnh thất nghiệp nhiều hơn
khi bị thu hồi đất là do họ không biết sử dụng có hiệu quả nguồn tiền đền bù của Nhà
nước. Nhìn chung, ở một mức độ nhất định, Nhà nước đã có chính sách đền bù tương

đối thoả đáng theo giá đất thị trường. Do vậy, sau khi nhận tiền đền bù giải toả, nhiều
hộ nông dân có một khoản tiền khá lớn. Một số hộ có kinh nghiệm kinh doanh, phát
triển ngành nghề phi nông nghiệp đã sử dụng nguồn vốn đó cho mở rộng sản xuất,
kinh doanh dịch vụ nên thu nhập và đời sống tăng cao so với trước khi thu hồi đất.
Song, đại bộ phận các hộ còn lại không biết cách sử dụng nguồn vốn đó để phát triển
sản xuất các ngành nghề phi nông nghiệp. Nhiều hộ nông dân chưa định hướng được
ngành nghề hợp lý, phù hợp với bản thân và gia đình để ổn định cuộc sống. Chỉ có một
số ít hộ dân dùng tiền đền bù để đi học nghề với hy vọng sẽ tìm được việc làm trong
khu công nghiệp hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương. Thực tế ở khắp các
tỉnh cho thấy, không ít hộ đầu tư vào mua sắm đồ dùng đắt tiền, xây dựng, sửa sang
nhà cửa, ăn tiêu hoang phí không có kế hoạch; nhiều nông dân, đặc biệt là tầng lớp
thanh niên ở các vùng đó thì sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút. Nhìn bề
ngoài, có vẻ như đời sống của các hộ dân được đền bù đất được cải thiện rõ rệt; tuy
nhiên, đằng sau sự thay đổi đó tiềm ẩn một nguy cơ rất lớn; đó là không nghề nghiệp,
không có thu nhập ổn định.


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP LIÊN QUAN
Bên trên là những vấn đề cấp bách đặt ra do tình trạng di dân tự do vào thành thị
để kiếm việc làm. Vậy, giải pháp cho vấn đề nhằm tăng cường quản lý tình trạng di
dân ngoại tỉnh đến các thành phố được đặt ra như thế nào? Về quan điểm chúng ta phải
thấy rằng, di dân ngoại tỉnh vào thành phố lớn là một xu thế tất yếu. Hiện tượng di dân
xuất phát từ sự chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị. Ngoài những nguyên
nhân kinh tế, còn có những nguyên nhân kinh tế khác mà chúng ta đã thấy ở trên. Vì
vậy, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý cần phải nắm bắt tính quy luật nội tại của
hiện tượng di dân để vận dụng vào việc quy hoạch các chính sách, các biện pháp điều
tiết nó vì mục tiêu phát triển. Quan điểm ở đây là không để quá trình di cư (mà đặc
biệt là di cư mạng tính chất thời vụ) trở thành một quá trình tự phát, nhưng đồng thời
cũng không nên duy ý chí, quản lý quá trình này bằng mệnh lệnh hành chính một cách
cứng nhắc. Chúng ta không thể cưỡng chế nó bằng các biện pháp hành chính, nhưng

cũng không khuyến khích hiện tượng này hoặc từ chối nó một cách buông xuôi, tự
phát. Vần đề quản lý và điều tiết di hiện tượng di cư liên quan tới nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực và các cấp quản lý. Do đó các giải pháp phải có tính đồng bộ cao. Các giải
pháp quản lý và điều tiết tình trạng di cư phải mang tính hiệu quả cao cả về mặt kinh tế
và xã hội, cả về trước mắt cũng như lâu dài. Ở đây, chúng ta có thể đề cập đến những
nhóm giải pháp cơ bản sau:
- Thứ nhất, là nhóm giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực của
di dân. Vấn đề này cần đặt ra một cách cơ bản và là trách nhiệm của các cấp
chính quyền trung ương và địa phương, bao gồm những vấn đề sau:
+ Cần phải có chiến lược quy hoạch mở rộng các thành phố lớn, phát triển các khu
đô thị vệ tinh, thông qua đó để giảm áp lực cho sự gia tăng dân số quá mức ở trong
khu vực nội thành, đồng thời tạo thế phát triển về kinh tế và xã hội cho thành phố đó
trong tương lai.
+ Chủ động thu hút và quản lý luồng di dân vào các ngành nghề phù hợp. Di dân
ngoại tỉnh vào các đô thị lớn là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của đất
nước. Do vậy cần có những biện pháp chủ động nhằm tổ chức thu hút lực lượng lao
động theo nhu cầu của thị trường thay vì hạn chế bằng các rào cản hành chính. Việc
phát triển các loại hình dịch vụ có tổ chức thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm,
các trung tâm tư vấn, các lại hình doanh nghiệp…sẽ tạo điều kiện thu hút và quản lý
có hiệu quả hơn tình trạng di cư tránh được tình trạng tự phát như hiện nay.
+ Hoàn thiện chính sách quản lý nhân khẩu, hộ khẩu. Trước kia, trong cơ chế tập
trung bao cấp, việc nhập khẩu vào những thành phố lớn, đô thị lớn được quản lí chặt


chẽ không chỉ vì lý do an ninh mà còn vì lý do kinh tế như chế độ phân phối lương
thực- thực phẩm…Nay chuyển sang cơ chế thị trường nên việc lưu chuyển lao động
cũng linh hoạt và đa dạng hơn. Nhu cầu về các loại lao động đa dạng hơn. Do đó, việc
quản lý nhân khẩu hộ khẩu không phải chỉ là việc thực hiện các thủ tục hành chính, mà
còn lưu ý đến các yếu tố kinh tế xã hội khác: đó là nhu cầu có việc làm và đảm bảo đời
sống-quyền cơ bản của người dân.

- Thứ hai, là nhóm giải pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của tình
trạng di cư. Ở đây có thể nêu lên những giải pháp cụ thể sau:
+ Cần phải có quy hoạch nơi ở và nơi giao dịch việc làm cho người di dân theo
mùa vụ. Đối với người di cư mùa vụ là việc ở thành phố thì vấn đề thông tin việc làm
đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên vấn đề nhà ở là một vấn đề khó khăn đối với
họ. Do vậy, việc hỗ trợ về chỗ ở cho người di cư, ví dụ như: dịch vụ cho thuê phòng
trọ giá rẻ, quy hoạch khu trọ cho người di dân và là nơi giao dịch việc làm là một việc
làm thiết thực cho người di dân, đồng thời đem lại hiệu quả tốt hơn cho nhà quản lý.
+ Xây dựng và phát triển các chính sách xã hội. Việc xây dựng các chính sách xã
hội và đưa chúng vào thực tế đối với người lao động đang là một yêu cầu thiết yếu
hiện nay. Các chính sách đó bao gồm một loạt các vấn đề như: Hỗ trợ việc làm, trợ cấp
thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm y tế…Việc thực hiện các chính sách này
cũng rất cần thiết đối với người di dân tự do, nó giúp người lao động có điều kiện
thực hiện các quyền cơ bản của công dân, tạo điều kiện tốt cho họ tham gia vào thị
trường lao động.
+ Giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức cộng đồng, xây dựng nếp sống
văn minh đô thị cho người di cư. Một vấn đề bức xúc trong hoạt đọng của người dân
di cư theo mùa vụ là ý thức cộng đồng cũng như những hành động tự phát của họ làm
mất mỹ quan đô thị còn kém. Vì vậy, cần có các chương trình tuyên truyền nếp sống
văn minh qua các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó cũng cần có những
chế tài, những hình thức xử phạt hành chính để nhắc nhở họ, qua đó để xây dựng nếp
sống văn minh đô thị ngày một tốt hơn.
+ Thành lập các trung tâm hỗ trợ việc làm cho người di dân. Đây là một giải pháp
nhằm tạo điều kiện giúp người di dân tìm kiếm việc làm, đồng thời nhằm tăng cường
quản lý người dân di cư. Đây có thể là những tổ chức tư vấn việc làm nhằm hướng họ
vào những ngành nghề phù hợp với năng lực của họ. Đồng thời, từng bước hình thành
nên thị trường lao động có thể quản lý được giúp cho nhà quản lý thực hiện tốt chức
năng của mình.




×