Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.26 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................................1
1
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................................................4

I. CỘNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRI THỨC......................................................................................................4
1.1. nghiệp hoá, hiện đại hoá............................................................................4
1.2. Kinh tế tri thức..........................................................................................13
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI GẮN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC......................................................18
III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VÀ VẬN DỤNG Ở
ĐỊA PHƯƠNG....................................................................................................24
KẾT LUẬN........................................................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................................29

Trang 1


MỞ ĐẦU
Quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa
(CNH) là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH). Đảng ta xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực
hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình
tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan
điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) giúp phát triển lực lượng sản xuất,


làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ
tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế nhà
nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Đồng thời, CNH-HĐH là động
lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh-quốc phòng
và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia
một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi
sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ
hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH
đầu tiên, phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau, chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản
xuống còn 70 năm; và các nước công nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam
thực thực hiện quá trình này trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang
phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ
thông tin, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới... đúng như tiên đoán của C.
Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX: ''Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp''. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi
sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Việc chuyển
nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết
không thể trì hoãn.
Trang 2


Vậy, sau đây chúng ta cùng làm rõ thêm sự cần thiết gắn công nghiệp
hóa – hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam và những giải pháp đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở địa phương.

Trang 3


PHẦN NỘI DUNG

I. CỘNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC.
1.1. nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng các lực lượng
sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta ngày càng xác định rõ quan điểm mới về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quan điểm ấy là kết quả tổng kết thực tiễn,
rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây, kết hợp với sự nghiên cứu, học
hỏi kinh nghiệm và kiến thức của thế giới và thời đại.
Hội nghị Trung ương VII của Đảng (1994) đã chỉ rõ: “Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính,
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Coi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới
là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế,
xã hội, Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường lối đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta nhấn mạnh, mục tiêu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là: “ Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.”
Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp
tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học
Trang 4



và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật
trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”
Từ nhận định đó Đại hội IX của Đảng ta xác định: “ Con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi
khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và
phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển
cương lĩnh 1991) do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định: “Từ
nay đến giữa thể kỷ XXI, toàn đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Để thực hiện thành công mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao
tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí
tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt một trong các
phương hướng cơ bản là: “ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”.
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung,
hình thức, qui mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù
này được thể hiện khái quát ở một số điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Qua trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình
rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và bước đi
nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết
hợp giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất của các tác nhân tham gia quá trình.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính bao trùm rất cao, theo đó

Trang 5


đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
nhưng mục tiêu xa hơn là nước ta trở thành một nước “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng khoa học – công nghệ
đang diễn ra mạnh mẽ nước ta phải tiến hành đồng thời và đồng bộ công nghiệp
hoá và hiện đại hoá như một quá trình thống nhất. Có thể nhìn nhận quá trình này
từ hai mặt thống nhất với nhau: Một mặt, đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp
hiện đại, tức là tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế;
Mặt khác, đó là quá trình cải cách thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, quan liêu bao cấp, sang kinh tế thị trường và hội nhập. Công nghiệp
hoá gắn với hiện đại hoá là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các
nước trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và trên thế giới.
Thứ ba: Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần và có thể
được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm
vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh trong nước và
quốc tế cho phép nước ta có thể “rút ngắn” quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Về cơ bản cách để nước ta có thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá “rút
ngắn” bao gồm hai mặt: Một mặt, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách
chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi kịp); Mặt
khác, lựa chọn và áp dụng một phương thức công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho
phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới
một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con đường,
bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà
thống nhất với nhau và đang tiếp tục được làm sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

Thứ tư: Ở nước ta quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có quan hệ chặt
chẽ với quá trình phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua tại không ít các
Trang 6


diễn đàn và công trình nghiên cứu khoa học, mối quan hệ giữa công nghiệp hoá,
hiện đại hoá với kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn
đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức, mới có khả năng thay đổi phương thức và
đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hay nói cách khác phát triển kinh
tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
“rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội
để đi vào phát triển kinh tế tri thức.
1.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt nam.
* Thuận lợi
- Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực của nước ta có những thay đỏi
mạnh mẽ, thể hiện ở những cái mới như:
+ Cấu trúc kinh tế mới. Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, nền kinh tế thuần nhất một thành phần khép kín, được thay bằng nền kinh tế
nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định. Vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu
thành hệ thống kinh tế - xã hội được kết nối chặt chẽ hơn.
+ Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ cao liên tục trong nhiều
năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ.
Từ năm 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình
mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong

chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang
cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải
phóng sức sản xuất.
Từ năm 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái,
Trang 7


đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân
năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh
CNH - HĐH đất nước.
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực
cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử
thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP
bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo
giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng,
tương đương với 640 USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước
ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2
về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Từ năm 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%,
năm 2011 đạt 5,89% với mức 119 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 1.300
USD. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ

trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị
xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%; Năm 2010 là 41,09%. Công nghiệp và xây dựng phát
triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1%
Trang 8


năm 2005, 38,33% năm 2010.
+ Thế phát triển mới: Việt Nam thoát khỏi tình trạng cấm vận kinh tế, qua hệ
thương mại và đầu tư quốc tế mở rộng, đã gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, WTO.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)...Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương
mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song
phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối
ngoại.
+ Động lực phát triển mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới, mạnh
mẽ như cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức mạnh của tinh thần dân
tộc trong cuộc đua tranh phát triển.
Đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng
cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của nhân dân được nâng cao.
Công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo
việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn

5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%. Thu nhập bình quân đầu
người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 1168 USD năm 2010.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng
dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi
thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.
+ Lực lượng, chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể phát triển:
Nhà nước, nhân dân, đội ngũ doanh gia, tri thức, quản trị được nâng cao, các yếu tố
Trang 9


bên ngoài vốn, công nghệ - kỹ thuật, thị trường, tri thức trở thành lực lượng thúc
đẩy phát triển quan trọng.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà
nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào
những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản
lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao
cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh
nghiệp trong kinh doanh.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực
và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2006 đến 2011, tổng vốn đầu tư của khu vực
kinh tế tư nhân luôn chiếm khoảng từ 33 đến 38% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của
cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan
trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào
ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân. Tổng vốn ODA cam kết
đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng

13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện
đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và
tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so
với giai đoạn 2001- 2005.
- Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những ưu thế nổi trội bao gồm: Toàn cầu hoá
kinh tế, phát triển kinh tế tri thức, hoà bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển giữa
các quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Việt Nam.
Trang 10


Trong bối cảnh đó Việt Nam đã và đang theo đuổi và thực hiện chính sách
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiện quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường. Việc tham gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song
phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát huy
hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về
vốn, kỹ thuật, công nghệ, tri thức, kỹ năng của thế giới cho đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó việc tham gia toàn cầu hoá kinh tế cũng tạo động
lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại phù hợp với
khung khổ chung của quốc tế.
- Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận dụng được
những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh việc thu hút những nguồn lực vật chất
và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các nước đi sau như Việt Nam còn có thể học hỏi
kinh nghiệm phong phú về công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước đi trước.
Một lợi thế nữa của nước đi sau là chúng ta dế chuyển đổi cơ cấu, vì không lệ thuộc
vào những cơ sở vật chất đã có (các phí tổn không phải là quá lớn để thay đổi

những cái cần thay đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển
kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã lựa chọn bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu
vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế.
- Thứ tư: Nước ta có vị trí địa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế
năng động Đông Nam Á. Thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế;
nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú để phát triển một số
ngành công nghiệp quan trọng. Đặc biệt nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ
cấu trẻ, năng lực trí tuệ con người Việt Nam không thua kém các nước, tiếp thu
nhanh các tri thức mới, dễ đào tạo có khả năng sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên
lợi thế quan trọng trong cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển những ngành , những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn.
* Khó khăn
Trang 11


- Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sở đủ vững chắc, hiệu quả và sức
cạnh tranh chưa cao, trình độ phát triển lực lượng sản xuất thấp, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm, lậc hậu và còn nghiêng về hướng nội… là những đặc tính của
nền kinh tế nước ta sau gần 30 năm đổi mới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa mới chỉ đang hình thành, chưa đồng bộ và chưa vận hành tốt, môi
trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa có tính khuyến khích cao. Nói một cách
ngắn gọn nền kinh tế nước ta đang phát triển, đang chuyển đổi. Thực tế này là khó
tranh khỏi đói với một quốc gia đang phát triển, có tính tạm thời và được khắc phụ
dần trong quá trình đổi mới, tuy nhiên nó đang là một trở ngại lớn đối với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay.
Trong đó thách thức đặt ra là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới.
- Tình hình thế giới luôn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chứa
đựng những yếu tố khó lường. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn
cầu hoá, đặt nền kinh tế Việt nam trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự

dễ bị tổn thương trước các cú xốc từ bên ngoài và những ảnh hưởng mặt trái khác
và những ảnh hưởng "mặt trái" khác của toàn cấu hoá kinh tế hiện nay. Nếu chúng
ta không có chính sách và biện pháp để hạn chế và vượt qua những khó khăn trên
thì chúng có thể có những tác động mang tính phá huỷ ghê gớm kéo lùi tiến trình
phát triển của đất nước trong nhiều năm.
- Là nước tiến hành công nghiệp hoá muộn, Việt Nam gặp phải những khó
khăn của nước đi sau. Khó khăn rõ nét là chúng ta phải ở thế bất lợi trong cạnh
tranh quốc tế do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp hàm lượng vốn và trí tuệ
trong sản phẩm không cao lại thường bị động trong việc tuân thủ các luật lệ quốc
tế. Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước ta phải đối
mặt với những vấn đề tài nguyên môi trường, dân số và công ăn việc làm ngày càng
gay gắt. Mức độ suy kiệt tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi
trường sống là hệ quả của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên qui mô toàn cầu,
nhưng người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát triển, trong đó có nước
Trang 12


ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Nó làm cho chi phí của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tăng lên đáng kể, đồng thời làm giảm tính bền vững của
quá trình này. Trong khi đó sự gia tăng của dân số của lực lượng lao động nhanh
hơn tốc độ tăng việc làm. Ở nước ta đây là một bài toán chưa có lời giải hữu hiệu.
1.2. Kinh tế tri thức
1.2.1. Quan niệm về kinh tế tri thức
* Quan niệm trên thế giới về kinh tế tri thức
Trên thế giới hiện nay vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế
tri thức, có thể phân loại một cách tương đối các cách hiểu khác nhau về kinh tế tri
thức vào ba cách tiếp cận sau:
- Cách hiểu kinh tế tri thức dựa trên khía cạnh hẹp về tri thức. Có hai cách:
+ Hiểu "tri thức" với nghĩa hẹp, tức đồng nghĩa tri thức với khoa học và công
nghệ, hoặc đôi khi còn coi "tri thức" chủ yếu là cuộc cách mạng khoa học và công

nghệ hiện đại, trong đó 4 công nghệ trụ cột là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ không gian vũ trụ. Cách hiểu này khá phổ
biến ở Mỹ vào cách đây khoảng 7, 8 năm, như có thể thấy qua các tài liệu của
thượng nghị viện Mỹ (2000). Một số nước như Ấn Độ, Philippin cũng đã có lúc
chấp nhận cách hiểu này.
+ Cách tiếp cận ngành - Tách biệt nền kinh tế quốc dân thành hai bộ phận là
khu vực kinh tế tri thức và khu vực kinh tế cũ.
Theo quan niệm này khu vực kinh tế tri thức bao gồm các ngành được gọi là
các ngành dựa trên tri thức (theo phân loại của OECD). Hai khu vực kinh tế này
hoạt động với những cơ chế, qui luật và kết quả khác hẳn nhau. Nền kinh tế tri thức
phát triển tới trình độ càng cao khi các ngành kinh tế dựa trên tri thức chiếm phần
ngày càng lớn trong nền kinh tế. Có hai cột mốc cho thấy nền kinh tế đã chuyển
sang giai đoạn kinh tế tri thức:
Một là, Tỷ trong của khu vực công nghiệp và nông nghiệp lên đến điểm cực
đại và ngày càng giảm đi. Điểm mốc này đã xuất hiện ở các nước tiên tiến nhất
cách đây khoảng 30 năm.
Trang 13


Hai là, Tỷ trọng của các ngành dựa trên tri thức lớn hơn 70% (theo phân loại
của OECD 1996).
- Cách tiếp cận rộng
Cách tiếp cận này dựa trên cách hiểu rộng về tri thức: Tri thức bao gồm mọi
hiểu biết của con người đối với bản thân và thế giới. OECD đã phân ra 4 loại tri
thức quan trọng là biết cái gì, biết tại sao, biết như thế nào, biết ai. Kinh tế tri thức
không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến bộ vượt bậc của các công nghệ mới mà là kết
quả tập hợp của ba nhóm nguyên nhân trực tiếp tác động tương tác lẫn nhau bao
gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật; nền kinh tế toàn cầu hoá và cạnh tranh quyết liệt; và
các biến đổi văn hoá, chính trị, tư tưởng của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Cách tiếp
cận nà cũng có hai nhánh tiếp cận tương tự nhau:

+ Từ khía cạnh lực lượng sản xuất: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất.
+ Từ khía cạnh sự đóng góp của tri thức vào phát triển kinh tế. Cách quan
niệm này diễn giải định nghĩa của OECD đã nêu ở trên theo đúng nghĩa đen của nó,
tức là tri thức hay cụ thể hơn là những hoạt động sản xuất, truyền bá và sử dụng tri
thức, đã vượt qua vốn và lao động để trở thành nguồn lực chi phối mọi hoạt động
tạo ra của cải trong nền kinh tế tri thức. Trong đó tri thức là một khái niệm rất rộng
bao trùm mọi hiểu biết của con người.
- Cách tiếp cận bao trùm. Theo cách tiếp cận này kinh tế tri thức thực chất là
một loại môi trường kinh tế - văn hoá - xã hội mới có những đặc tính phù hợp và tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho việ học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó,
tri thức tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự phát triển
kinh tế và hàm lượng tri thức được nâng cao trong mọi hoạt động kinh tế, văn hoá,
xã hội. Do vậy cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức, không chỉ đơn
thuần là phát triển khoa học - công nghệ mà là phát triển một nền văn hoá đổi mới,
sáng tạo thể hiện trong cách nghĩ, cách làm của mọi tác nhân kinh tế, xã hội để tạo
thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi tri thức, mọi loại hiểu biết
của loài người, cũng như xây dựng và phổ biến các năng lực tri thức nội sinh.
Trang 14


Xét theo nghĩa này, kinh tế tri thức có thể được hiểu như một giai đoạn phát
triển mới của toàn bộ nền kinh tế, hoặc nói rộng hơn điều này sẽ dẫn tới một giai
đoạn phát triển mới của xã hội nói chung.
* Cách tiếp cận của Việt Nam về kinh tế tri thức
Ở Việt nam, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, vấn đề kinh tế tri thức
đã được giới các nhà khoa học, những người hoạch định chính sách, các nhà quản
lý đưa ra bàn luận khá nhiều. Kinh tế tri thức được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau, với những tầm mức và phạm vi khác nhau.
Trong không ít hội thảo, hội nghị, người ta đã bàn đến không ít các định

nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức, tuy nhiên trong các vă bản chính thức của đảng
và nhà nước, chưa có văn bản nào nêu ra định nghĩa về kinh tế tri thức. Mặc dù
vậy trong số các định nghĩa về kinh tế tri thức được bàn đến, dường như có một
định nghĩa nổi lên và được công nhận bởi nhiều người. Đó là định nghĩa của OECD
và APEC nêu ra năm 2000. Định nghĩa rằng: " Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự
tăng trưởng, tạo của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế".
1.2.2. Đặc trưng của kinh tế tri thức
Thứ nhất, tri thức trở thành nhân tố chủ yếu nhất của nền kinh tế.
Trong kinh tế tri thức, của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dạư vào tài
nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, tuy nhiên vốn và các nguồn lực khác
vẫn là những yếu tố rất cơ bản, khong thể xenm nhẹ. Kinh tế tri thức được đặc
trưng bởi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển ngày càng mạnh các
ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức: đó là các ngành công
nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp cong nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào
sử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công
nghệ và ứng dụng trực tiếp đẻ tạo ra sản phẩm. Do vậy tổng giá trị sản phẩm tăng
nhanh, nhưng tổng tiêu hao nhiên liệu, nguyên liệu, vật tư hầu như không tăng mấy
số lượng người lao động trong khu vực sản xuất vật phẩm hàng hoá có xu hướng
ngày càng ít đi, trong khi số người làm việc ở các văn phòng hiện đại đa chức năng
Trang 15


và làm công việc sử lý thông tin ngày càng tăng và sẽ chiếm tỷ lệ rất lớn trong cơ
cấu tổng thể của lực lượng lao động xã hội.
Hai là, kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động và đổi mới nhanh.
Trong nền kinh tế công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là
bằng cách tối ưu hoá, tức là hoàn thiện cái đã có để giảm chi phí sản xuất; còn
trong kinh tế tri thức thì quyết định năng lực cạnh tranh chủ yếu là sự sáng tạo ra
cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới tiêu dùng nhanh hơn. Kinh tế phát

triển là do sáng tạo, không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Vòng đời
công nghệ và vòng đời sản phẩm từ lúc mới nảy sinh phát triển, chín muồi đến tiêu
vòng ngày càng rút ngắn; tốc độ đổi mới của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền
kinh tế ngày càng nhanh. Do đó kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động rất nhanh. Làm
việc và kinh doanh theo tốc độ của tư duy. Trong kinh tế tri thức, sáng tạo trở thành
động lực chủ yếu của phát triển.
Các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới, số doanh nghiệp dựa vào sáng chế,
công nghệ mới, sản phẩm mới, nhất là doanh nghiệp khoa học hay doanh nghiệp
sáng tạo tăng lên nhanh chóng; số doanh nghiệp không đổi mới bị phá sản rất
nhiều; số chõ làm việc cũ mất đi nhiều, nhưng số chỗ làm việc mới được tạo ra còn
nhiều hơn và tổng số chỗ làm việc không ngừng tăng lên. Như thế nền kinh tế tri
thức là nền kinh tế có rất nhiều biến động và có cả nhiều rủi ro. Có người gọi kinh
tế tri thức là nền “kinh tế rủi ro”, “kinh tế mạo hiểm” (dám chấp nhận mạo nhận
đầu tư vào sản phẩm mới, lĩnh vực mới để phát triển).
Ba là, mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng nhất.
Nhờ có mạng thông tin, tri thức được quảng bá rộng rãi đến mọi người;
mạng gắn kết mọi người, mọi tổ chức với nhau, rút ngắn thời gian, xoá khoảng
cách không gian; các hoạt đọng sản xuất kinh doanh trở nên sôi động, nhanh nhạy,
sản xuất gắn chặt với thị trường; tổ chcứ quản lý có hiệu quả, hiệu lực hơn, thúc
đẩy phát triển dân chủ công khai, minh bạch. Mạng thông tin trở thành cở sở hạ
tầng quan trọng nhất của nền kinh tế. Nhiềungười gọi kinh tế tri thức là “kinh tế
thông tin”. Có xã hội thông tin mới có kinh tế tri thức.
Trang 16


Bốn là, Kinh tế tri thức là nền kinh tế học tập.
Mọi người có điều kiện thuận lợi để học tập suốt đời, không ngừng phát triển
tri thức, nâng cao kỹ năng, phát triển sức sáng tạo, thích nghi với sự phát triển, thúc
đẩy đổi mới. Xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức. Trong thời đại bùng nổ
về thông tin, sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại

đòi hỏi con người phải không ngừng học tập, cập nhật kiến thức, sáng tạo tri thức
mới, công nghệ mới, đồng thời phải chủ động theo kịp sự đổi mới và có khả năng
thúc đẩy sự đổi mới. Mặt khác con người phải học và tự học suốt đời mới thích ứng
linh hoạt với sự biến đổi hết sức mau lẹ của của môi trường và điều kiện làm việc
mới. Vì vậy, xã hội học tập trở thành một đặc trưng, một yếu tố quan trọng của nền
kinh tế tri thức.
Năm là, kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá.
Quá trình phát triển khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế tri thức cùng với
quá trình phát triển kinh tế thị trường, phát triển thương mại thế giới và quá trình
toàn cầu hoá là những quá trình đi liền với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy nhau
phát triển. Sự sản sinh ra, truyền bá, sử dụng tri thức không thể chỉ nằm trong biên
giới quốc gia. kinh tế tri thức ra đời trong điều kiện nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá;
bất cứ ngành sản xuất, dịch vụ nào cũng đều dựa vào nguồn cung ứng từ nhiều nước
và được tiêu thụ trên toàn thế giới. Người ta thường gọi nền kinh tế tri thức là nền
kinh tế toàn cầu hoá nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.
Sáu là, kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững.
Trong kinh tế tri thức, các công nghệ mới được sử dụng phổ biến, nhất là các
công nghệ sạch, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng, lại công nghệ môi trường để
bảo vệ, cải thiện môi trường, cho nên kinh tế tri thức ít gây hại cho môi trường, bảo
vệ được thiên nhiên. Nhờ trình độ dân trí cao, nhờ sử dụng một cách phổ biến các
tri thức mới trong mọi hoạt động, từ qui hoạch, chiến lược, kế hoạch đến các hoạt
động sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý, đời sống hàng ngày, mọi người luôn có
ý thức gìn giữ, bảo vệ các giá trị của thiên nhiên, của truyền thống văn hoá, biết kết
hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, bảo đảm được yêu cầu phát triển
Trang 17


bền vững.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI GẮN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HOÁ VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC.

Nghị quyết đại hội XI của Đảng khẳng định: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường”. Chủ trương đó của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.
Thứ nhất: Công nghiệp hóa hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức là phù hợp với xu thế và trình độ phát triển của nền kinh tế thế giới trong thế
kỷ 21.
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là một quá trình lịch sử tất yếu mà Việt Nam phải trải qua nhằm cải
biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ; trang bị và tái trang bị công nghệ ngày
càng hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, chuyển từ lao động thủ công
lạc hậu sang sử dụng lao động với công nghệ (phương tiện, phương pháp) tiên tiến
hiện đại, có hàm lượng trí tuệ cao; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, bảo vệ nền
độc lập tự chủ và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc, bằng
tất cả các nguồn lực chúng ta có thể huy động được một cách có hiệu quả nhất. Tuy
nhiên, do sự thay đổi nhanh chóng các điều kiện phát triển, cả ở trong nước và trên
thế giới, đòi hỏi phải có những nhận thức mới về nội dung và phương thức thực
hiện CNH, HĐH.
Trên thế giới hiện nay, công nghiệp hóa không chỉ gắn với các mục tiêu, giải
pháp có “tính chất truyền thống”, mà phải đạt tới mục tiêu hiện đại và dựa trên các
công cụ, giải pháp hiện đại. Theo nghĩa đó, công nghiệp hóa phải là quá trình hiện
đại hóa. Vì thế, CNH, HĐH được hiểu là quá trình công nghiệp hóa với các mục
tiêu và giải pháp phù hợp với điều kiện và xu hướng phát triển hiện đại.
Thực tế đã cho thấy, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển kinh tế tri
Trang 18


thức đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình CNH, HĐH ở
các nước đang phát triển và nó đòi hỏi CNH, HĐH ở những nước đi sau (như Việt

Nam) phải đồng thời thực hiện hai quá trình:
Một là, xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại.
Hai là, phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là hai nội dung của một quá trình diễn ra đồng thời và phải được thực
hiện đồng thời. Đảng ta đã xác định: CNH, HĐH ở nước ta phải dựa vào tri thức,
theo con đường đi tắt, rút ngắn. CNH, HĐH phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ:
chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức. Từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật,
muốn đi lên nhanh và phát triển theo hướng hiện đại cần kết hợp phát triển tuần tự
với phát triển nhảy vọt. Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng
ghép”, một mặt, phải phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản, mặt
khác, đồng thời phải phát triển những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ
cao.
Như vậy, có thể hiểu rằng, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức là một phương thức CNH mới trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Có
mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương
thức và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện được các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
Mặc dù, về cơ bản, hiện nay Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển
và đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế phi thị trường sang nền kinh tế định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp..,
song xét trên nhiều phương diện, Việt Nam có đầy đủ khả năng và từng bước phát
triển kinh tế tri thức. Điều này được thể hiện rõ nét ở những thành tựu kinh tế - xã
hội quan trọng mà nước ta đã đạt được trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua trên các
khía cạnh chủ yếu sau:
Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao 7 - 8% trong thời gian dài và là một
Trang 19



trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Trong hơn 10
năm qua GDP bình quân đầu người tăng gấp hơn ba lần (GDP bình quân đầu người
năm 2000 là 390 USD, năm 2005 là 642 USD và năm 2010 là 1168 USD). Đời
sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Nền kinh tế đang chuyển mạnh sang kinh tế
thị trường và thể chế kinh tế thị trường đã bắt đầu hình thành và đang trong quá
trình hoàn thiện. Các loại thị trường đã được thiết lập và bắt đầu phát triển; hệ
thống tài chính ngân hàng đang từng bước lành mạnh hóa. Chính sách khuyến
khích đầu tư trong nuớc đối với khu vực tư nhân đã tạo nên động lực mới cho khu
vực này phát triển nhanh, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm
cho xã hội.
Trình độ công nghệ của một số lĩnh vực được nâng cao theo kịp trình độ
chung các nước trong khu vực; đã bắt đầu phát triển một số ngành công nghiệp
công nghệ cao (công nghệ thông tin và truyền thông, điện tử …). Công nghệ thông
tin và viễn thông (CNTT) Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao. Về sử dụng
internet, năm 1996 nước ta mới bắt đầu sử dụng, đến nay, tỷ lệ số người sử dụng
internet so với số dân đã đạt xấp xỉ 24%, ngang mức bình quân thế giới. CNTT
được ứng dụng có kết quả bước đầu trong các ngành tài chính, ngân hàng, thống kê,
kế hoạch, điện lực, hàng không, y tế, giáo dục, v.v... Đã bắt đầu nối mạng thông tin
đến các vùng sâu vùng xa. Các doanh nghiệp nói chung tích cực, chủ động sử dụng
CNTT để cải tiến tổ chức quản lý, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Nước ta là một trong những nước thu hút nhiều đầu tư nước ngoài; và hiện
nay đầu tư nước ngoài đang gia tăng nhanh chóng. Vốn đàu tư nước ngoài lớn cộng
với đầu tư trong nước chiếm tỷ lệ cao trong GDP đã góp phần đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất và phát triển cơ sở hạ
tầng. Kết cấu hạ tầng nước ta phát triển nhanh và được hiện đại hóa một bước; hệ
thống giao thông, các đô thị đã có bộ mặt mới. Quan hệ kinh tế đối ngoại không
ngừng mở rông, khối lượng xuất nhập khẩu tăng nhanh; Việt Nam là nước có tỷ lệ
xuất nhập khẩu so với GDP vào loại cao của thế giới. Nước ta cũng là một trong
Trang 20



những nước đã kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, đã chú trọng đầu
tư phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Và cũng là nước được các tổ chức quốc
tế thừa nhận có thành tích xóa đói giảm nghèo nhanh nhất.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém, nhất là chất
lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả kém, đang tiềm ẩn nguy cơ phát triển không bền
vững, chưa rút ngắn được khoảng cách so với nhiều nước trong khu vực. Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu rõ: “Tăng trưởng kinh tế chưa tương
xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm”.
Nền kinh tế nước ta đang còn dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động, giá trị
do tri thức tạo ra chưa đáng kể. Cơ cấu kinh tế vẫn còn nặng về nông nghiệp và
khai thác tài nguyên, tỷ trọng các ngành chưa hợp lý (nông nghiệp 21,6%, công
nghiệp 41,1%, dịch vụ 38,3%).
Năng suất lao động ở nước ta còn thấp hơn từ 2 đến 15 lần so với các nước
ASEAN. Năng suất lao động trong ngành thực phẩm của ta chỉ bằng 7% của Đài
Loan, 13% của Malaixia, 6% của Hàn Quốc và 67% của Trung Quốc. Đầu tư kém
hiệu quả; thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản lớn, nhiều công trình đầu tư chưa
hợp lý, nên hiệu quả đầu tư kém. Hệ số ICOR năm 1995 là 3,4; từ năm 2001 đến
nay tăng lên đến trên 5 và năm 2010 là 5,26.
Tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam tuy không thua kém các nước,
nhưng do nhiều yếu kém trong công tác đào tạo nên chất lượng nguồn nhân lực
nước ta còn thấp, bất cập trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức. So với các nước
trong khu vực, nguồn nhân lực nước ta thua kém về số lượng, cơ cấu, cũng như về
trình độ, năng lực. Nước ta chưa có đủ chính sách trọng dụng nhân tài. Lực lượng
lao động dồi dào, nhưng tỷ lệ qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kỹ thuật rất
thấp, cơ cấu đào tạo lại bất hợp lý. Công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật phục
vụ các ngành công nghệ cao còn thiếu nghiêm trọng.
Năng lực khoa học và công nghệ quốc gia còn yếu; kết quả ứng dụng còn ít,

số công trình công bố, số bằng sáng chế phát minh trên đầu cán bộ R&D rất thấp so
Trang 21


với các nước. Thị trường khoa học và công nghệ chậm được hình thành. Sự gắn kết
hoạt động KH&CN với giáo dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh còn yếu.
CNTT ở Việt Nam đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề: thu nhập người
dân còn thấp, chi phí cho CNTT khá cao, năng lực hoạch định chính sách còn yếu
so với yêu cầu phát triển CNTT, đội ngũ nhân lực chưa sẵn sàng. Tỷ lệ vi phạm bản
quyền của Việt nam xấp xỉ khoảng 90%, vào loại cao nhất thế giới. Ứng dụng
CNTT ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp; môi trường pháp lý còn
chưa rõ ràng, thiếu chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ứng dụng và phát
triển CNTT.
Hai là: Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để nước ta rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các nước trong khu vực.
Như đã biết, Việt Nam hiện nay nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, nông
dân vẫn là lực lượng đông đảo trong xã hội; nông dân còn nhiều khó khăn, nhiều
nơi chưa thoát khỏi đói nghèo, lao động thủ công còn là phổ biến ở vùng sâu, vùng
xa; năng suất lao động trong toàn xã hội còn rất thấp. Vì thế khả năng tụt hậu xa
hơn về kinh tế của nước ta với nhiều nước trong khu vực và thế giới là một nguy cơ
rất lớn.
Để khắc phục nguy cơ đó trong bối cảnh quốc tế hiện nay chúng ta không
còn con đường nào khác hiệu quả hơn là công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn,
tức là phải gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức phát
triển kinh tế tri thức. Gắn việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát
triển kinh tế tri thức không chỉ là cơ hội để nước ta khắc phục nguy cơ tụt hậu mà
còn là phương cách tốt nhất để Việt Nam bắt kịp xu thế của thời đại, đi tắt, đón đầu
và “tăng tốc” để theo kịp các nước tiên tiến.
Ba là: Do yêu cầu xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Theo tư duy mới của Đảng ta, nền kinh tế độc lập tự chủ là độc lập tự chủ về
đường lối chính trị, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, không lệ thuộc vào sức ép
Trang 22


từ bên ngoài; có tiềm lực kinh tế đủ mạnh đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân, đồng thời có tích luỹ ngày càng cao; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh
tranh cao, có khả năng ứng phó hiệu quả với những tác động bất lợi từ bên ngoài;
giữ vững được ổn định kinh tế - tài chính, bảo đảm an ninh lương thức, an toàn
năng lượng và môi trường.
Tất cả những thuộc tính của một nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế mà chúng ta xây dựng chỉ có thể trở thành hiện thực khi chúng
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn chặt với phát triển kinh tế tri
thức. Chỉ có gắn hai quá trình đó thì chúng ta mới có thể từng bước tạo dựng được
các yếu tố trên đây của một nền kinh tế độc lập tự chủ và cũng mới có được vị thế
đủ mạnh để chủ động họi nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là: Do yêu cầu xây dựng và củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
Bước sang thế kỷ 21, các nước tư bản đứng đầu là Mỹ vẫn đang nắm những
ưu thế về vốn, khoa học – công nghệ, nguồn nhân lực trình độ cao, cho nên có điều
kiện để phát triển kinh tế, lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế để thao túng các dân tộc
đang phát triển, tìm mọi cách thực hiện toàn cầu hoá chính trị, văn hoá và xã hội,
đẩy các nước, các dân tộc vào vòng xoáy của chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, chúng lợi
dụng những thành quả của khoa học – công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức để
tiếp tục củng cố vị trí siêu cường, áp đặt sự thống trị lên toàn cầu. Sử dụng con bài
kinh tế (hợp tác, trao đổi thương mại, vốn, công nghệ…) để tiếp tục đẩy mạnh
chiến lược diễn biến hoà bình nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó
Việt nam được coi là một trọng điểm. Đặc biệt trong tương lai để xoá bỏ chủ nghĩa
xã hôi ở nước ta, không loại trừ địch có thể sử dụng chiến tranh công nghệ cao.
Do vậy, để có đủ sức đánh thắng địch trong mọi tình huống dưới mọi mô

thức chiến tranh, Việt Nam cần phải tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chỉ có như vậy, chúng ta mới vừa tạo được
vị thế bình đẳng, cùng có lợi trong hợp tác kinh tế quốc tế; vừa tạo điều kiện để
phát triển công nghiệp quốc phòng nhằm trang bị vũ khí, trang bị tiên tiến, nguồn
nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh.
Trang 23


III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VÀ VẬN DỤNG Ở
ĐỊA PHƯƠNG
Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý giữa
chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững,
Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức, góp
phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự
phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa,
chúng ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông
nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp
lên kinh tế tri thức. Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau,
thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với
nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn
CNH-HĐH với phát triển kinh tế tri thức.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức là lựa chọn để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào
công nghệ cao, công nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia
tăng cao. Trong ''Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, ngoài một số mục

tiêu khối lượng như: tăng trưởng GDP bình quân 7-8%/năm; GDP bình quân đầu
người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD... còn có một số chỉ tiêu về chất
lượng, như là những nấc thang trên lộ trình CNH-HĐH, phát triển KTTT. Cụ thể là:
tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP; giá trị sản
phẩm công nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng
trưởng đạt 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm; giảm tỷ lệ
lao động nông nghiệp xuống còn 30-35%...
Trang 24


Để đạt những chỉ tiêu trên điều tiên quyết là phải cơ cấu lại sản xuất công
nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa
trong sản phẩm. Đồng thời phải sử dụng tri thức mới để chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, khai khoáng, luyện
kim, hóa chất, chế biến nông sản, năng lượng... và đẩy nhanh CNH-HĐH nông
nghiệp, nông thôn bằng cách đổi mới công tác đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản
xuất, kinh doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử dụng
công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản.
Quán triệt quan điểm của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với tri thức và
phát triển bền vững, nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi chúng ta cần thực
hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân.
Trong vấn đề này cần coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng. Phấn
đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn
với phát triển con người; từng bước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao
chất lượng sống và bảo đảm ngày càng tốt hơn nhu cầu về văn hóa, giáo dục cho
con người. Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành, lĩnh vực và vùng
lãnh thổ. Phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao

dựa nhiều vào tri thức. Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát
huy năng lực sáng tạo ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri
thức của thế giới.
Hai là, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 khẳng định: Phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một
đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm phát triển nhanh,
Trang 25


×