Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ một đảm bảo quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.34 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................2
NỘI DUNG.............................................................................................................4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGUYÊN TẮC...........................................................4
II. NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ....................................9
2.1. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ...............................................................9
2.2. Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.............................................................10
2.3. Những giải pháp cho việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ đáp ứng với thực
tiễn tổ chức, hoạt động của Đảng và bộ máy nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ở nước ta hiện nay:.......13
III. THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ - MỘT ĐẢM BẢO QUAN TRỌNG ĐỂ XÂY
DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH........................................................................19

KẾT LUẬN...........................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................25

1


LỜI MỞ ĐẦU
Tập trung dân chủ là những vấn đề thuộc về quan điểm và nguyên tắc của
Chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng HCM mà Đảng và Nhà nước XHCN do Đảng
lãnh đạo phải thực hiện nhất quán trong thực tiễn hoạt động của mình.
Nguyên tắc TTDC là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và
dân chủ. Hai mặt đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống nhất, tác động, bổ
sung cho nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Dân chủ là điều kiện, tiền đề
của tập trung; tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được xác định và phát huy.
Thực hiện nguyên tắc TTDC, mọi cán bộ, đảng viên (CB,ĐV) đều có quyền tham
gia vào việc quyết định công việc của Đảng; có quyền được thông tin, thảo luận,
tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; nhưng khi Đảng đã có


nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức đảng trong toàn Đảng
phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính
trị. Việc phát triển và mở rộng dân chủ trong Đảng phải luôn đi đôi với tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật; dân chủ càng
phát triển thì tập trung càng vững chắc, sức mạnh của Đảng càng được khẳng
định. Nếu thực hành dân chủ tốt, Đảng sẽ quy tụ được trí tuệ, khơi dậy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi CB,ĐV, tạo bầu không khí cởi mở, tin cậy
lẫn nhau, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, tình đồng chí, giúp nhau hoàn thành
tốt mọi nhiệm vụ. Bởi vậy, trong quá trình sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức
đảng, phải kết hợp chặt chẽ dân chủ với tập trung, không được tuyệt đối hóa mặt
nào: tuyệt đối hóa dân chủ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, vô tổ chức, kỷ luật;
tuyệt đối hóa tập trung dẫn đến quan liêu, chuyên quyền, độc đoán. Cả hai biểu
hiện trên đều gây nguy hại và làm giảm sức mạnh của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định Đảng phải là khối thống nhất ý chí và hành động,
trong tổ chức, Đảng phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ - một
nguyên tắc quyết định sức mạnh của Đảng. Người chỉ rõ rằng dân chủ phải đi đôi
với với tập trung, phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Trong lãnh đạo, Hồ Chí
Minh đòi hỏi Đảng phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”. Thực hiện đúng đắn
nguyên tắc này mới tránh cho Đảng không rơi vào chủ quan, độc đoán, chuyên
quyền và mới biến đường lối của Đảng trở thành thực tiễn sinh động. Trong sinh
hoạt Đảng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề phải thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và
phê bình - một vũ khí và là quy luật làm cho Đảng trở nên trong sạch, vững mạnh.
Đồng thời, Đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự
giác, cũng như nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, cán bộ đảng viên
phải tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng, phải giữ gìn sự thống nhất của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Ngay từ khi ra đời, Đảng đã xác định: TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản,

có vai trò trực tiếp chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt
2


động lãnh đạo của Đảng; quy định cơ cấu, hình thức tổ chức đảng; thiết lập chế
độ các cơ quan lãnh đạo của Đảng; đồng thời, xác lập nguyên tắc giải quyết các
mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Bởi vậy, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhất là
khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức; vẫn phát huy được vai trò tiền phong, gương
mẫu, sức sáng tạo của mọi CB,ĐV và tổ chức đảng; tập trung được trí tuệ của
toàn Đảng, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững
mạnh, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc. Ðảng ta luôn khẳng
định: Ðảng là tổ chức tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng cộng sản;
mọi đảng viên đều có quyền biết, thảo luận và biểu quyết các công việc của
Ðảng; được ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Ðảng; phê
bình, chất vấn về hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; đề
xuất các kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm; v.v... Từ khi trở thành Ðảng cầm
quyền, Ðảng ta vẫn luôn kiên định và có bước phát triển mới trong việc phát huy
dân chủ nội bộ, thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ cả trong Ðảng và trong tổ
chức, hoạt động của Nhà nước. Hội nghị Trung ương 9, (khoá IX) của Đảng ta đã
nhấn mạnh: phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Vậy, sau đây chúng ta cùng làm rõ thêm vấn đề “Thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ - một đảm bảo quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh”.
.

3



NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGUYÊN TẮC
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức, nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ
đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt, mọi hoạt động và phong cách làm việc của Đảng
Cộng sản. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa phát huy được tính
tích cực, chủ động sáng tạo, trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức
đảng, vừa tập trung được trí tuệ, bảo đảm cho sự thống nhất ý chí và hành động,
tạo nên sức mạnh vô địch của một đảng cách mạng, đây là một tiêu chuẩn để
phân biệt chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân với các đảng phái khác.
Đồng thời, đây cũng là tiêu điểm mà các thế lực chống đối thường công kích
nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Xa rời, phủ nhận nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng Cộng sản là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất, sẽ dẫn đến
làm cho Đảng tan rã, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ mất
quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức, nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ
đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt, mọi hoạt động và phong cách làm việc của Đảng
Cộng sản. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa phát huy được tính
tích cực, chủ động sáng tạo, trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức
đảng, vừa tập trung được trí tuệ, bảo đảm cho sự thống nhất ý chí và hành động,
tạo nên sức mạnh vô địch của một đảng cách mạng, đây là một tiêu chuẩn để
phân biệt chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân với các đảng phái khác.
Đồng thời, đây cũng là tiêu điểm mà các thế lực chống đối thường công kích
nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Xa rời, phủ nhận nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng Cộng sản là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất, sẽ dẫn đến
làm cho Đảng tan rã, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ mất
quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Chế độ tập trung dân chủ trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của phong
trào vô sản. Chính vì địa vị của giai cấp công nhân trong nền sản xuất gắn liền với
đại sản xuất cơ khí, nên họ hướng tới tổ chức và tập trung thành lực lượng cách
mạng. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, giai cấp vô sản phải đương

đầu với một kẻ thù có tổ chức, có bộ máy nhà nước đồ sộ là giai cấp tư sản. Muốn
chiến thắng, giai cấp vô sản phải đoàn kết thống nhất và phải thành lập chính
Đảng của giai cấp vô sản.
Xét về bản chất, giai cấp công nhân có tính dân chủ sâu sắc, quan hệ giai
cấp của họ là quan hệ bình đẳng. Sau khi chiến thắng tư bản, giai cấp công nhân
tạo điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động có thể phát huy tính tích cực, chủ
động tham gia rộng rãi vào hoạt động xã hội. Đảng mác xít -Lênin nít do giai cấp
công nhân thành lập từ trong động ngũ của mình, lãnh đạo cuộc đấu tranh đó,
Đảng hoàn toàn phù hợp với giai cấp công nhân về những đặc điểm và phẩm chất
cơ bản. Đảng là lãnh tụ của giai cấp và là bộ phận tiên phong của giai cấp công
nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
4


của cả dân tộc. Chính bản chất và những nhiệm vụ lịch sử của Đảng đòi hỏi Đảng
phải được xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Tư tưởng về xây dựng một Đảng vô sản trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân
chủ đã được Mác và Ăngghen, những người sáng tạo ra chủ nghĩa cộng sản khoa học,
đưa vào Điều lệ những người cộng sản, vào Văn kiện Điều lệ Hội Liên hiệp công
nhân quốc tế. Điều lệ cũng xác định cả cơ cấu tổ chức của Liên đoàn. Cơ cấu đó thấm
nhuần tinh thần tập trung dân chủ. Nhiều chi bộ cơ sở hợp thành một công xã gồm từ
3 đến 20 thành viên. Đó là cơ sở của Đảng, là trung tâm và hạt nhân công tác chính trị
của Đảng trong quần chúng lao động.
Nhiều công xã hợp thành một quận, đứng đầu là quận ủy của Đảng. Cơ
quan lãnh đạo cao nhất của Liên đoàn là đại hội hàng năm và giữa hai nhiệm kỳ
đại hội là Ban Chấp hành Trung ương.
Liên đoàn được xây dựng trên cơ sở dân chủ triệt để, mọi đảng viên đều bình
đẳng, các cơ quan lãnh đạo của Đảng được bầu ra, có thể bị thay thế và bãi miễn;
đảng viên được tự do thảo luận những vấn đề về sinh hoạt đảng; tranh luận trong

khuôn khổ tính đảng… Cơ cấu của Liên đoàn thật sự dân chủ, các ban chấp hành
được bầu ra, có thể bị thay thế, bãi miễn bất kỳ lúc nào. Do đó, ngăn chặn mọi âm
mưu và thủ đoạn chiếm độc quyền trong Liên đoàn. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn
mạnh: dân chủ phải thống nhất với tập trung với kỷ luật chặt chẽ, bộ phận phải phục
tùng toàn thể, thiểu số phải phục tùng đa số.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu gương
đấu tranh có nguyên tắc để củng cố sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức của các
tổ chức vô sản, kiên quyết đấu chống bọn cơ hội, xét lại, chống lại tất cả những
kẻ nào không tôn trọng và không chấp hành kỷ luật Đảng. Hai ông đã vạch trần
những quan điểm chống chủ nghĩa xã hội thâm nhập vào Quốc tế I. Bọn này đã
không tôn trọng kỷ luật và tính tập trung mà còn mưu toan xây dựng không phải
là một đảng vô sản mà là một tổ chức bí mật, hẹp hòi của những người đầy âm
mưu. Theo yêu cầu của Mác, Hội nghị Luân Đôn của Quốc tế I đã giáng một đòn
chí mạng vào chủ nghĩa cơ hội, khai trừ bọn chúng ra khỏi đội ngũ Hội Liên hiệp
công nhân quốc tế.
Sau khi Mác và Ăngghen qua đời, những tư tưởng và truyền thống về tổ
chức cũng như quan điểm chính trị của các Ông đã bị các lãnh tụ của Quốc tế II
xuyên tạc, phản bội. Họ đã lái các đảng dân chủ - xã hội thích nghi với hoạt động
nghị trường thuần túy; đã xóa bỏ tinh thần cách mạng và biến các đảng đó thành
đảng cải lương.
Trong điều kiện lịch sử mới, khi cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ
trực tiếp, kế tục sự nghiệp của Mác và Ăngghen, Lênin đã xây dựng, luận chứng
và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tất yếu trong xây dựng
và trong hoạt động của Đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
Ở nước Nga, ngay từ khi Đảng vô sản được thành lập, bọn men sê vích và
những kẻ cơ hội đã đấu tranh gay gắt chống lại chế độ tập trung dân chủ. Vào
5


những năm 1903 - 1904, thời kỳ diễn ra Đại hội II của Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga và sau đó Đảng mác xít lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng,

đứng trước những thử thách to lớn họ phải đấu tranh chống bọn cơ hội trên những
vấn đề về nguyên tắc tổ chức đảng. Những người cơ hội chủ nghĩa trong Đảng
như Mác tốp, Ácxenrốt đã coi thường và hạ thấp ý nghĩa vấn đề tổ chức của
Đảng, vấn đề tập trung thống nhất của phong trào công nhân. Họ chủ trương,
đảng viên của Đảng không cần tham gia sinh hoạt trong một tổ chức của đảng,
không cần chấp hành nghị quyết và phục tùng kỷ luật của Đảng, thậm chí trong
Đảng không cần tổ chức rõ rệt.
Lênin đã kiên quyết đấu tranh vạch trần những sai lầm của Mác tốp và đã
đánh bại chủ nghĩa cơ hội trên những vấn đề tổ chức của Đảng. Người cho rằng,
đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo toàn xã hội không chỉ bằng cương
lĩnh, bằng tư tưởng, đường lối, mà còn bằng tổ chức. Tổ chức đảng có được xây
dựng và củng cố vững mạnh thì mới bảo đảm cho cương lĩnh, đường lối của Đảng
được thực hiện. Nói cách khác, sức mạnh về chính trị, tư tưởng của Đảng được
thực hiện bằng tổ chức và thông qua tổ chức. Lênin nhiều lần nhấn mạnh “Sức
mạnh của giai cấp công nhân là ở tổ chức. Không tổ chức quần chúng thì giai cấp
vô sản không là cái gì hết. Được tổ chức, giai cấp vô sản sẽ là tất cả”.
Bài báo Tổ chức lại Đảng của Lênin là cơ sở của Nghị quyết “Tổ chức lại
Đảng” được thông qua ở Hội nghị Tam mác pho của các đảng viên Bôn sê vích,
họp vào năm 1905. Trong nghị quyết đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được thừa
nhận hoàn toàn. Như vậy, thuật ngữ “tập trung dân chủ” được nêu lên đầu tiên,
với tính cách là nguyên tắc chính thức hợp pháp, biểu hiện bằng nghị quyết đảng
của những người Bôn sê vích. Sau đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được ghi
trong Điều lệ và được thông qua tại Đại hội IV của Đảng công nhân dân chủ - xã
hội Nga (1906).
Tư tưởng trên đây của Lênin đặt nền móng cho việc xây dựng Đảng ở Nga, sau đó
được các đảng trong Quốc tế Cộng sản thừa nhận. Điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản
là các Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta đã vận
dụng sáng tạo học thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể ở Việt Nam để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình xây

dựng Đảng. Người đã quán triệt đầy đủ nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân và chỉ rõ rằng Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, do đó
tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Dưới sự lãnh đạo tập thể
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, toàn Đảng ta là một khối thống nhất về ý
chí và hành động, có sự nhất trí cao về đường lối chính trị, bảo đảm thống nhất tư
tưởng và tổ chức, thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Người chỉ rõ:
trong lãnh đạo cấp bộ đảng phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, “Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể. Khi đã quyết định rồi,
thì phân phối công tác phải rạch ròi, giao cho một hoặc mấy đồng chí phụ trách làm
đến nơi đến chốn”.

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, dân chủ phải đi đôi với tập trung “Phải
kiên quyết thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít
phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục từng cấp trên, địa phương phải phục
tùng Trung ương”. Người căn dặn Đảng ta phải chống lại mọi biểu hiện tập trung
quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức, đồng thời cũng phải chống lại mọi biểu
hiện phân tán cục bộ, hẹp hòi, bè phái, tự do vô kỷ luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ nói về tập trung dân chủ mà chính Người luôn luôn gương mẫu thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện bảo đảm cho tổ chức đảng
cố kết về mặt tổ chức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đồng thời phát huy
sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi đảng viên, mọi tổ chức đảng. Nguyên
tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa quan trọng như vậy, nên đó cũng là tiêu điểm mà
các thế lực chống đối thường công kích nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Chúng cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ là sự gán ghép giữa
hai nguyên tắc tập trung và dân chủ. Mà tập trung và dân chỉ thì luôn có xu hướng
đối lập, triệt tiêu nhau. Nếu thực hiện tập trung sẽ tất yếu dẫn đến thu hẹp dân

chủ, triệt tiêu dân chủ; ngược lại nếu muốn thực hiện dân chủ thì phải từ bỏ tập
trung. Từ lập luận đó, chúng cho rằng, tập trung quan liêu và dân chủ vô chính
phủ là bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề thuộc về bản chất của
Đảng Cộng sản.
Một quan điểm khác tấn công nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng
sản bằng lối phân tích học thuật. Họ cho rằng, tập trung là danh từ, còn dân chủ là
tính từ; là cái bổ nghĩa cho tập trung làm cho tập trung bớt cứng đi, còn thực chất
của nguyên tắc tập trung dân chủ là chế độ tập trung. Đó là một kiểu tuyệt đối hóa
tập trung, tầm thường hóa dân chủ. Hoặc có quan điểm coi tập trung là mục đích,
còn dân chỉ là phương tiện và đi tới kết luận rằng: tập trung là tất yếu, là quyết
định, còn dân chủ hay không, dân chủ đến đấu là tùy thuộc điều kiện, tùy thuộc
vào quyền của các cơ quan lãnh đạo.
Có quan điểm lại lập luận rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đúng và
thích hợp với hoạt động của Đảng trong điều kiện Đảng hoạt động bí mật hoặc
trong điều kiện lãnh đạo chiến tranh. Trong hoàn cảnh đó phải có kỷ luật chặt chẽ,
phải có tập trung thống nhất cao độ, còn trong hoàn cảnh hòa bình xây dựng, kẻ
thù không còn, nhân dân đã làm chủ, cần gì phải thực hiện chế độ tập trung, kỷ
luật và chuyên chính. Lúc này mà họ còn thực hiện tập trung dân chủ là không
thức thời, là vi phạm dân chủ, là tạo điều kiện để quay về chế độ phong kiến
chuyên quyền…
Tất cả những luận điệu sai trái trên đều nhằm đi tới xóa bỏ nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, để giữ vững nguyên tắc tập trung
dân chủ, trong khi kiên quyết đấu tranh, bác bỏ những luận điệu, những âm mưu
sai trái của các thế lực thù địch, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào sự thật những
khuyết điểm trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Suốt trong
thời gian dài ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ được
hiểu và thực hiện có phần thiên lệch về phía tập trung quan liêu, thống nhất cứng
7



nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng, xuất hiện hàng loạt những tư tưởng
sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân, lãnh tụ là thống soái, cá nhân
trùm lên tập thể. Trong kinh tế thì nhấn mạnh một chiều tập trung thống nhất, coi
nhẹ dân chủ; nhấn mạnh một chiều tính kế hoạch, coi nhẹ cơ chế thị trường; nhấn
mạnh một chiều quan hệ dọc, coi nhẹ quan hệ ngang, do đó không phát huy được
tính đa dạng phong phú, tính năng động sáng tạo của các thành phần kinh tế, các
cơ sở kinh tế.
Phát hiện ra những sai lầm “ấu trĩ tả khuynh” và kiên quyết khắc phục
những sai lầm đó là rất cần thiết và đúng đắn. Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới
ở các nước xã hội chủ nghĩa được đặt ra cũng chính là nhằm sửa chữa những sai
lầm đó. Nhưng từ chỗ chống tập trung quan liêu, độc đoán ở nhiều nước lại rơi
vào thái cực phủ nhận hoặc hạ thấp tính tập trung thống nhất đề cao một chiều tự
do dân chủ dẫn đến sự hỗn loạn, vô chính phủ, không kiểm soát được mà nhiều
người đã ngộ nhận đó là “đổi mới”.
Nhìn lại công cuộc xây dựng Đảng ta và các Đảng Cộng sản anh em cho
thấy, ở đâu và nơi nào, lúc nào nguyên tắc tập trung dân chủ được nhận thức đúng
đắn, đầy đủ, mối quan hệ tập trung - dân chủ được giải quyết đúng đắn thì nơi đó,
khi đó nguyên tắc tập trung dân chủ được giữ vững, dân chủ được mở rộng, tính
tập trung thống nhất cao, kỷ luật nghiêm minh, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức đảng được nâng cao. Ngược lại thì tổ chức đảng lỏng lẻo, kỷ
luật bị xem thường, dân chủ sẽ bị vi phạm.
Nhận thức được vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ, trung
thành với những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc
tổ chức cơ bản của Đảng.
Đảng ta đã vận dụng thành công nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với tình
hình đặc điểm và nhiệm vụ xây dựng Đảng qua các giai đoạn và các thời kỳ khác nhau.
Đảng thường xuyên đấu tranh phê phán nghiêm khắc những biểu hiện quan liêu, gia
trưởng, độc đoán, không tôn trọng ý kiến cấp dưới, không phát huy trí tuệ tập thể dẫn
tới những quyết định sai lầm, làm suy yếu sự đoàn kết trong Đảng, cũng như những

hiện tượng cục bộ, buông lỏng kỷ luật, gây ra những hậu quả tai hại, làm cho sự lãnh
đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước kém hiệu lực.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “Tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
đảng cách mạng chân chính, với các đảng phái khác. Phủ nhận nguyên tắc này là
phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất. Đảng chống tập trung quan liêu, độc đoán,
chuyên quyền, song triệt để tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ có thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ mới có thể vừa chống được tập trung quan liêu,
vừa chống được tình trạng vô chính phủ và bè phái, bảo đảm sự thống nhất ý chí
và hành động của Đảng, chỉ có như vậy Đảng mới có sức mạnh và sức chiến
đấu”.

8


Từ Đại hội VI đến nay, cùng với việc hoàn thiện nội dung cơ bản của
nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng ta liên tục chỉ ra những biện pháp cơ bản cấp
thiết để giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tình hình mới. Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) đã xác định: Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ là một
trong những quan điểm có tính nguyên tắc mà toàn Đảng phải luôn luôn kiên định
trong bết kỳ hoàn cảnh nào.
Từ những góc độ phân tích khác nhau, cho phép khẳng định nguyên tắc tập
trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt, hoạt động của Đảng
và củng cố giữ vững, tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng giai
đoạn hiện nay là yếu tố quan trọng để bảo đảm, giữ vững sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đổi mới toàn diện đất nước, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh đưa cả nước tiến lên con đường
xã hội chủ nghĩa.

II. NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN
CHỦ
2.1. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguyên tắc tập trung dân chủ, từ bài học gần đây của các đảng anh em và qua hoạt
động thực tiễn, Đảng ta chỉ rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ,
đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên. Giữa hai
nhiệm kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở
mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
- Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
Đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình
hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê
bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số
phải phục tùng đa số; cấp dưới phải phục tùng cấp trên, cá nhân phải phục tùng tổ
chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban
Chấp hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi
có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết,
mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại
biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền
9


bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem

xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình,
song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Như vậy, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ đã chỉ rõ những vấn đề
cơ bản cấu thành hai thành tố tập trung và dân chủ.
Tập trung có nghĩa là Đảng cộng sản phải có một cương lĩnh cách mạng
chung, trong đó nêu lên mục tiêu của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán
triệt và thực hiện. Trong Đảng phải có một điều lệ thống nhất, thể hiện những tiêu
chuẩn sinh hoạt đảng mà tất cả các tổ chức đảng và toàn thể đoàn viên phải tuân
theo. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo của các tổ chức đảng, các công tác
của Đảng do một trung tâm thực hiện là Đại hội đại biểu toàn quốc và giữa hai
nhiệm kỳ Đại hội là Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các nghị quyết của Đại
hội và Ban Chấp hành Trung ương với tính cách là biểu hiện ý chí của toàn Đảng,
bắt buộc các tổ chức và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tập trung đòi hỏi Đảng
phải có kỷ luật thống nhất, phải tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng, các tổ
chức đảng phải có ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng, phải hoạt động theo
nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cấp dưới phải phục tùng cấp trên,
thiểu số phải phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức. Do đó, tập trung trong
Đảng không những là uy quyền của tư tưởng, mà còn là uy quyền của quyền lực
do các cơ quan đảng và những người lãnh đạo các cơ quan đó thể hiện. Đó là việc
thừa nhận sức mạnh về sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Tập trung là điều kiện
cần thiết do sự tồn tại, hoạt động và phát triển của Đảng Cộng sản.
Dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của toàn thể đảng viên. Đó
là sự tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào việc quản lý công việc của
Đảng một cách trực tiếp, hay thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch ra
đường lối, chính sách, vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của đảng, đó là tất
cả các cơ quan đảng đều phải hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ thông báo tình hình hoạt động của
mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nguyên tắc chế độ tự phê bình và

phê bình; đó là đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, song
phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng. Quyền làm chỉ của toàn thể
đảng viên chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện có tính tổ chức cao, tỉnh kỷ
luật chặt chẽ và sự thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất của toàn Đảng.
2.2. Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng
giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ dưới
sự chỉ đạo của tập trung, dân chủ có lãnh đạo. Sự thống nhất đó không phải là
ngẫu nhiên, mà nó được quy định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi nhiệm vụ của Đảng Cộng sản phải
lãnh đạo cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi cuối cùng.
10


Hai thành tố tập trung và dân chủ không mâu thuẫn nhau mà luôn thống
nhất, tác động bổ sung cho nhau. Tăng cường tập trung phải trên cơ sở mở rộng
và phát triển dân chủ. Mở rộng và phát triển dân chủ phải có sự bảo đảm của tập
trung và hướng tới tập trung. Chỉ có trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa hai
thành tố thì dân chủ trong Đảng càng phát triển, tập trung trong Đảng sẽ càng
vững chắc và ngược lại. Đó không phải là tập trung tuyệt đối, tập trung bất chấp
dân chủ. Những hiện tượng tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán hoặc dân
chủ vô chính phủ, tự do vô kỷ luật, dân chủ hình thức đều trái với bản chất
nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản.
Tập trung trên cơ sở dân chủ, xét về mặt trình tự là dân chủ trước, tập trung
sau. Dân chủ là tiền đề, là điều kiện, tập trung là kết quả. Điều này làm cho tập
trung khác biệt về bản chất so với chuyên chế, chuyên quyền. Nội dung của
nguyên tắc chỉ rõ: Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của
Đảng, đó là tập trung. Nội dung của nguyên tắc lại chỉ rõ: Nghị quyết của cơ quan
lãnh đạo các cấp của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành
viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát

biểu ý kiến của mình. Như vậy, nghị quyết của các tổ chức đảng là sản phẩm của
dân chủ trong nội bộ Đảng. Nghị quyết là sự tập trung cao trí tuệ, nguyện vọng
của cán bộ, đảng viên. Để có sự chấp hành nghị quyết một cách nghiêm chỉnh, vô
điều kiện thì điều kiện tiên quyết là nghị quyết đó phải là sản phẩm của dân chủ
thật sự.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng có thẩm quyền ra chỉ thị, nghị quyết cho
cấp dưới thực hiện, kiểm tra, đôn đốc mọi hoạt động và tiến hành khen thưởng
hay kỷ luật cấp dưới. Nhưng các cơ quan đó đều do dân chủ bầu cử mà lập ra, là
đại biểu cho trí tuệ, sức mạnh của tập thể đảng viên. Các cơ quan đó cũng là kết
quả của sinh hoạt dân chủ. Vì vậy nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu: các cơ
quan lãnh đạo của Đảng phải báo cáo và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của
mình trước tổ chức đảng; gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình của cấp
dưới, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
Tập trung trên cơ sở dân chủ khác hoàn toàn về chất với tập trung quan
liêu, chuyên quyền độc đoán, tập trung quyền lực. Tập trung trên cơ sở dân chủ là
sự tập trung trí tuệ, sức mạnh của đa số mà thiểu số phải phục tùng. Nó có nguồn
gốc từ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và tiến tới nhằm mục đích xóa bỏ hết
tư hữu, bóc lột, thực hiện bảo vệ lợi ích của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Còn tập trung quyền lực là của thiểu số giai cấp bóc lột, buộc đa số
quần chúng nhân dân lao động phải phục tùng, là thứ tập trung có nguồn gốc từ chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, một kiểu tập trung để duy trì chế độ bóc lột, bảo vệ
lợi ích của giai cấp bóc lột, kiểu tập trung chà đạp dân chủ. Cũng chính vì vậy, tập
trung trên cơ sở dân chủ luôn luôn gắn liền với quần chúng, với cấp dưới, với cơ
sở, khác hẳn với thứ tập trung thoát ly cơ sở, cản trở, bóp nghẹt dân chủ, trấn áp cơ
sở, trấn áp cấp dưới.
Như vậy, trong mối quan hệ với tập trung, dân chủ có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng. Dân chủ của Đảng Cộng sản không đối lập với tập trung, không tách rời
11



tập trung. Dân chủ là cơ chế phát huy cao trí tuệ của đại đa số, làm cơ sở cho tập
trung. Dân chủ càng mở rộng thì tập trung càng cao.
Đảng Cộng sản tồn tại sẽ không có ý nghĩa nếu không có dân chủ trong
Đảng. Đảng là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập, sức mạnh của Đảng ; à
do tính tích cực, tự giác của toàn thể đảng viên hợp lại. Chỉ khi nào đảng viên tự
giác thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc thành lập cơ quan lãnh
đạo của Đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao.
Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới có điều kiện giáo dục, rèn luyện
đảng viên, mới phát huy tốt nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối,
chính sách, nghị quyết của Đảng.
Dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là
sự tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào việc quản lý công việc của Đảng
một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch đường lối,
chính sách vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Dân chủ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Mở rộng dân chủ trong Đảng có tác dụng to lớn khai thác và phát huy trí tuệ,
năng lực sáng tạo của đông đảo cán bộ, đảng viên, nêu cao tính tự giác, tính tích
cực của mọi người. Chỉ có như vậy, Đảng mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt dân chủ sẽ tạo
ra bầu không khí cởi mở, phấn khởi, tin cậy giữa cấp trên và cấp dưới, giữa Trung
ương và địa phương; là cơ sở để củng cố kỷ luật, tăng cường sự tập trung, đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
Dân chủ là cơ sở của tập trung, đồng thời dân chủ phải có sự lãnh đạo của tập
trung, dân chủ phải có lãnh đạo. Chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, tính kỷ luật
chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất thì mọi đảng viên mới có thể thực hiện
được nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Mọi cuộc sinh hoạt trong Đảng đều tiến
hành trên cơ sở dân chủ thực sự. Nhưng tất cả các cuộc sinh hoạt đó đều phải có
tổ chức, tiến hành trong tổ chức, có sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, thiểu số phải
phục tùng đa số, chấp hành nghị quyết vô điều kiện.
Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo”

đi đôi với “cá nhân phụ trách”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: tập thể lãnh đạo
là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung; tập thể lãnh đạo cá nhân phục trách là
dân chủ tập trung.
Tập trung nói đến ở đây là tập trung trên cơ sở dân chủ, sản phẩm của dân
chủ. Đường lối, chủ trương, điều lệ, quy chế, các cơ quan lãnh đạo… đều do dân
chủ bàn bạc mà quyết định xây dựng nên, đều là sản phẩm của dân chủ, đều là đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể đảng viên. Là sản phẩm của dân chủ,
đến lượt nó, các chỉ thị, nghị quyết, quy chế, điều lệ, các cơ quan lãnh đạo đều
yêu cầu sự tuân thủ vô điều kiện của đảng viên. Đường lối, chỉ thị, nghị quyết,
điều lệ, quy chế được thực thi nghiêm túc; các cơ quan lãnh đạo có thẩm quyền
được các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm chấp hành triệt để. Đó là đòi hỏi của

12


tập trung. Thực hiện chế độ tập trung là con đường để dân chủ được thực hiện
triệt để, dân chủ có hiệu lực trên thực tế chứ không phải dân chủ hình thức.
Như vậy, dân chủ có sự bảo đảm của tập trung hoàn toàn khác về bản chất
với các hiện tượng dân chủ hình thức, dân chủ không có giới hạn, tự do vô kỷ luật.
Sự khác nhau biểu hiện ở chỗ: dân chủ có sự bảo đảm của tập trung là dân chủ có
tổ chức, dân chủ có tính mục đích, có tính định hướng rõ ràng trên cơ sở bình đẳng
thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, về lợi ích. Nó khác hoàn toàn với lối dân chủ dựa
trân sự bất công, bất bình đẳng, mang bản chất của chế độ bóc lột. Thứ dân chủ mà
nó chỉ là có thực với tầng lớp quý tộc, chiếm thiểu số trong xã hội. Còn đối với
quần chúng nhân dân lao động chiếm đa số trong xã hội thì dân chủ đó chỉ hoàn
toàn là hình thức là sự lòe bịp.
Sự khác nhau đó còn được biểu hiện ở chỗ: dân chủ trong Đảng là dân chủ
mang bản chất giai cấp công nhân; dân chủ đối với giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, là thứ dân chủ của đa số được xây dựng trên chế độ xã hội công
bằng - bình đẳng - bác ái, nhằm xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng chế độ xã hội

không có bóc lột. Dân chủ trong Đảng là dân chủ hướng tới tập trung, không phải
dân chủ nhằm phá vỡ tập trung. Bởi vì dân chủ trong Đảng nhằm tạo ra sức mạnh
đoàn kết thống nhất; dân chủ càng mở rộng thì thống nhất càng cao, chứ không
phải thứ dân chủ “không có thật”, dân chủ vô chính phủ, tạo ra sự chia rẽ bè phái,
phá vỡ tập trung thống nhất.
Như vậy, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất, sự kết
hợp hài hòa, chặt chẽ giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong mối quan hệ hữu
cơ, biện chứng chứ không phải chỉ là tập trung hoặc chỉ là dân chủ. Không phải là
tập trung chuyên quyền hay dân chủ vô chính phủ. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề
của tập trung, cũng như tập trung là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Tuyệt đối hóa một mặt nào đều có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm có hại
đến sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ chính là
điều kiện bảo đảm cho tổ chức đảng cố kết về mặt tổ chức, thống nhất ý chí,
thống nhất hành động; đồng thời phát huy sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của
mọi đảng viên, mọi tổ chức đảng.
2.3. Những giải pháp cho việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ
đáp ứng với thực tiễn tổ chức, hoạt động của Đảng và bộ máy nhà nước
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp
quyền và xã hội dân sự ở nước ta hiện nay:
Thứ nhất, cần phân định rõ chức năng lãnh đạo, chức năng chỉ đạo
(quản lý, điều hành) của các cơ quan của Đảng.
Đây là yêu cầu cần thiết để xác định rõ chức năng, trách nhiệm của các cơ
quan của Đảng, đồng thời nâng cao được năng lực cầm quyền của Đảng hiện nay.
Cần nhận thức rõ rằng, đại hội của Đảng ở các cấp chính là các cơ quan có chức
năng lãnh đạo (cơ quan lãnh đạo), tức các "đại biểu" trong đại hội thảo luận, đề ra
các cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng tùy theo nhiệm vụ ở mỗi cấp; còn
các ban chấp hành của Đảng ở các cấp là các cơ quan có chức năng chỉ đạo (cơ
13



quan điều hành), tức các "ủy viên" trong ban chấp hành đưa ra các chủ trương,
biện pháp để chỉ đạo, điều hành thực hiện các cương lĩnh, đường lối đã được đại
hội đề ra tùy theo nhiệm vụ ở mỗi cấp. Từ nhận thức đó, cần phải trở lại quan
điểm của Đảng trong việc nhìn nhận các ban chấp hành chỉ là các "cơ quan chỉ
đạo" giữa hai nhiệm kỳ đại hội như đã được xác định trong Điều lệ Đảng thông
qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951). Điều đó có nghĩa, các ban chấp
hành của Đảng tuy hiện nay được gọi là các cơ quan lãnh đạo nhưng thực chất là
có chức năng chỉ đạo trong nội bộ Đảng. Thực tế cho thấy, các ban chấp hành của
Đảng đều bao gồm các ủy viên được giao phụ trách, thực hiện việc chỉ đạo, điều
hành các cơ quan, lĩnh vực công việc tùy theo nhiệm vụ của Đảng ở mỗi cấp.
Chẳng hạn, người đứng đầu Đảng ở mỗi cấp được coi là người chỉ đạo điều hành
ban chấp hành ở cấp đó; mỗi ủy viên ban chấp hành là người chỉ đạo điều hành
các ban chấp hành ở cấp dưới hoặc các lĩnh vực công việc khác nhau. Do vậy, các
nghị quyết của các ban chấp hành của Đảng không thể được nhìn nhận như các
văn kiện để lãnh đạo, tức định hướng đường lối chung rồi thể chế hóa vào pháp
luật cũng như các văn bản dưới luật như hiện nay chúng ta đang thực hiện. Điều
này đồng nghĩa với việc chúng ta cần phải có sự đổi mới phương thức cầm quyền
của Đảng, tức chuyển đổi từ thể chế "Đảng lãnh đạo Nhà nước" sang thể chế
"Đảng cầm quyền" - thể chế phù hợp với việc phát triển nền kinh tế thị trường,
xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Khi thực hiện thể chế "Đảng
cầm quyền", thì các nghị quyết về chủ trương, biện pháp điều hành, quản lý các
mặt của đời sống kinh tế - xã hội do cơ quan ban chấp hành của Đảng xây dựng,
tổ chức chỉ đạo thực hiện như hiện nay sẽ phải được tiến hành ở các cơ quan, tổ
chức, đơn vị của Nhà nước các cấp như Quốc hội, các Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, đồng thời các cơ quan, tổ chức, đơn vị này trực tiếp tổ chức lãnh đạo
hoặc chỉ đạo thực hiện tùy theo chức năng của mình. Đồng thời, lúc đó các nghị
quyết (thực chất là các chỉ thị) của các ban chấp hành của Đảng sẽ chỉ còn tập
trung vào việc chỉ đạo nội bộ, tức làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; công tác
quần chúng, xây dựng Đảng; quản lý và đào tạo, giáo dục, xây dựng đội ngũ cán
bộ đảng viên của Đảng vững mạnh, có năng lực, phẩm chất tốt, uy tín cao, có khả

năng đảm đương các công việc của Đảng và Nhà nước, cũng như để sẵn sàng giới
thiệu, ứng cử vào các chức danh chủ chốt của bộ máy nhà nước.
Thực tế ở các quốc gia có nhà nước pháp quyền hoàn thiện trên thế giới
hiện nay cũng cho thấy, phương thức cầm quyền của các đảng cầm quyền ở các
quốc gia đó là không thực hiện cách thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của ban
chấp hành của đảng đó vào pháp luật, chính sách như ở nước ta. Phương thức
cầm quyền của các đảng cầm quyền hiện nay thường là thông qua các đảng viên
trong đảng đoàn ở nghị viện, chính phủ để trực tiếp chi phối việc xây dựng pháp
luật, thực hiện chính sách theo định hướng của cương lĩnh hoặc đường lối chính
trị được đảng đó vạch ra tại các đại hội. Phương thức cầm quyền như vậy là đảm
bảo được dân chủ vì phát huy được trí tuệ của cả xã hội, của người ngoài đảng
cầm quyền trong bộ máy nhà nước và xã hội thông qua việc tranh luận, phản biện
đối với các chủ trương, biện pháp của những người lãnh đạo đảng cầm quyền, từ
đó hiệu quả cầm quyền được nâng cao.
14


Việc đổi mới thể chế "Đảng lãnh đạo Nhà nước" sang thể chế "Đảng cầm
quyền" như nêu ở trên về thực chất chính là xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn để
thực hiện chuyển đổi cách thức "cầm quyền bằng nghị quyết" của các "nhà cầm
quyền" hiện nay sang cách thức "cầm quyền theo luật" nhằm đáp ứng với yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự
ở nước ta.
Thứ hai, cần phân định rõ chức năng lãnh đạo, chức năng chỉ đạo
(quản lý, điều hành) của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Đây là yêu cầu rất cần thiết để xác định rõ chức năng và từ đó nâng cao ý
thức trách nhiệm của các chủ thể, cơ quan trong bộ máy nhà nước. Cần nhận thức
rõ rằng, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là các cơ quan có chức năng lãnh
đạo (cơ quan lãnh đạo) trong bộ máy nhà nước, tức phải gắn thẩm quyền và trách
nhiệm của mình trong việc lập pháp, giám sát, ban hành luật, các đường lối, chính

sách về phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội tùy vào vai trò,
nhiệm vụ của mỗi cấp. Chẳng hạn, Quốc hội có thẩm quyền là cơ quan lập pháp.
Trong khi đó, Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ như các Bộ, Ủy ban nhân
dân (cơ quan hành chính) là các cơ quan có chức năng chỉ đạo (cơ quan điều
hành), tức các "thành viên", "ủy viên" của các cơ quan này phải gắn thẩm quyền
và trách nhiệm của mình trong việc đưa ra các chủ trương, biện pháp (quyết định,
chỉ thị, thông tư...) để chỉ đạo (điều hành, quản lý) thực hiện các đường lối, chính
sách mà cơ quan lãnh đạo đã đề ra tùy vào vai trò, nhiệm vụ của mỗi cấp. Chẳng
hạn, Chính phủ có thẩm quyền là cơ quan hành pháp. Do vậy, cá nhân những
người đứng đầu các cơ quan hành pháp (hành chính) này phải được coi là những
người lãnh đạo (người có chức vụ) có thẩm quyền "phụ trách" chỉ đạo, điều hành
Chính phủ hoặc điều hành Bộ, chính quyền địa phương các cấp. Những người
lãnh đạo với các chức trách nhất định này phải chịu trách nhiệm về những quyết
định theo thẩm quyền được trao trong quá trình chỉ đạo, điều hành của mình. Việc
đề cao ý thức trách nhiệm của những người này trong chỉ đạo điều hành công việc
cần phải được nhìn nhận là nguyên lý cơ bản của tổ chức cơ quan hành pháp. Đây
được coi là vấn đề rất cơ bản để xác định rõ thẩm quyền gắn với trách nhiệm của
cá nhân, thực hiện việc "cột chặt trách nhiệm" đối với những người được giao phụ
trách như quan điểm chỉ đạo của người đứng đầu Chính phủ nêu ra mới đây:
"Không có gì bằng trách nhiệm hết, làm sao cột chặt trách nhiệm, anh nào quyết
định phải chịu trách nhiệm rõ ràng, đừng có tập thể chung chung".
Từ nhận thức nêu trên, cần xem xét lại một số vấn đề về chức năng của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng... trong cơ quan hành pháp (điều
hành) như đã được hiến định trong Hiến pháp, văn bản pháp luật. Ngoài ra, cũng
cần phải nhìn nhận lại việc phân định chức năng "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý" trong cơ chế vận hành hay mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ" như đã được xác định (chế định) trong các văn bản, tài liệu
của Đảng và Nhà nước. Cơ chế vận hành hay mối quan hệ này về thực chất là xác
định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đồng thời phân định ra các
chức năng giữa Đảng và Nhà nước để thực thi quyền lực trong bộ máy cầm quyền

nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, việc phân định ra các
15


chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước như vậy là
không khoa học xét về mối quan hệ giữa hai chủ thể đó trong bộ máy cầm quyền.
Cần nhận thức rõ rằng, Đảng cũng vừa có chức năng lãnh đạo, vừa có chức năng
chỉ đạo, quản lý, điều hành tùy theo nhiệm vụ của các cơ quan trong tổ chức bộ
máy của Đảng; Nhà nước cũng vừa có chức năng lãnh đạo, vừa có chức năng chỉ
đạo, quản lý, điều hành tùy theo nhiệm vụ của các cơ quan trong tổ chức của bộ
máy nhà nước. Theo chúng tôi, việc vận hành phương thức thực thi quyền lực để
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay cần phải dựa trên nền
tảng của thể chế "Đảng cầm quyền", tức là Đảng phải hóa thân vào Nhà nước để
trực tiếp thực hiện vai trò cầm quyền (lãnh đạo và chỉ đạo, điều hành của cá nhân
đảng viên) theo cơ chế "phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Cơ chế này
về thực chất ở các quốc gia phát triển hiện nay là thực hiện "tam quyền phân lập"
- một kiểu thực thi quyền lực của nhà nước dân chủ tư sản mà Lênin cũng đã từng
nhìn nhận có thể áp dụng nó bằng sự cầm quyền trực tiếp của giai cấp vô sản vào
thời kỳ đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ông cho rằng, trong giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản "không những vẫn còn pháp quyền tư sản mà vẫn còn cả nhà
nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản!". Ở nước ta, Đảng trở thành
đảng cầm quyền cũng chính là do được lòng dân. Việc thực hiện vai trò cầm
quyền của Đảng về thực chất là phải xác định rõ được tính chính đáng của sự cầm
quyền, phương thức cầm quyền, xây dựng cơ chế tối ưu để nhân dân có thể cầm
quyền hay nhân dân nắm chính quyền thật sự như Hồ Chí Minh đã từng chỉ
rõ: "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt
mình thi hành chính quyền ấy". Điều đó cho thấy, cần nhận thức rõ rằng, sự cầm
quyền của Đảng hay áp dụng thể chế "Đảng cầm quyền" thay cho thể chế "Đảng
lãnh đạo Nhà nước", đồng thời thực hiện cơ chế "phân quyền" thay cho cơ chế

"tập quyền", tức quyền lực nhà nước có sự phân công, kiểm soát giữa các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp, cốt để quyền lực đó thực thi "sao cho được lòng
dân" chính là cơ chế phù hợp, thiết thực và hiệu quả, có thể đảm bảo được quyền
làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay.
Từ những vấn đề được phân tích ở trên, cũng cần nhận thức cho đúng hơn
một số vấn đề về nguyên tắc "tập trung dân chủ" trong tổ chức bộ máy thực thi
quyền lực (bộ máy cầm quyền) nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức bộ máy thực thi quyền lực rất cần
phải được nhìn nhận từ vấn đề cốt lõi làchức năng và thẩm quyền gắn với trách
nhiệm của các chủ thể trong bộ máy đó. Điều đó có nghĩa, mỗi chủ thể là tổ chức
hay cá nhân trong bộ máy cầm quyền của Quốc gia đều có các chức năng, thẩm
quyền do nhân dân "trao cho" và "quy định" trách nhiệm với các hình thức khác
nhau, tức mọi chủ thể đều phải bị kiểm soát theo một cơ chế nhất định, và do vậy
không thể có một cơ quan quyền lực nào cao nhất (đứng trên) so với các cơ quan
khác cùng cấp trong bộ máy cầm quyền. Chỉ có thể nhận thức đúng khi cho rằng,
"quyền lực cao nhất" (quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất) trong quốc gia
là nhân dân (toàn dân) - người có chủ quyền "tối thượng" thể hiện qua văn bản
Hiến pháp do toàn dân phúc quyết. Từ đó có thể thấy rằng, rất cần thiết phải nhận
16


thức cho đúng hơn, đồng thời nghiên cứu thực hiện một số vấn đề về tổ chức bộ
máy nhà nước chủ yếu dưới đây:
Một là, cần nghiên cứu, xây dựng Luật Trưng cầu ý dân như Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra, đồng thời phải tiến hành thực hiện "phúc
quyết" của toàn dân đối với Hiến pháp. Chỉ khi nào thực hiện được các điều này
thì Hiến pháp ở nước ta mới có quyền lực tối thượng và nhân dân cũng mới có thể
có quyền làm chủ theo đúng nghĩa. Ngoài ra, cũng cần nghiên cứu lập ra Tòa án
hiến pháp để ngăn ngừa các hiện tượng vi hiến có thể xảy ra. Điều đó đồng nghĩa
với việc phải nghiên cứu xây dựng cơ chế "kiểm soát giữa các cơ quan trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Chẳng hạn, nghiên cứu xây
dựng cơ chế giám sát đối với Quốc hội (cơ quan lập pháp), hoặc cơ chế buộc phải
"từ chức" của Chính phủ (cơ quan hành pháp), cụ thể là đối với Thủ tướng, các bộ
trưởng... một khi các chủ thể này vi phạm nghiêm trọng các vấn đề liên quan đến
"thẩm quyền" và "trách nhiệm".
Hai là, cần phải nhận thức rõ rằng, Quốc hội chỉ được coi là cơ quan có
chức năng lãnh đạo (cơ quan lãnh đạo) cao nhất so với các cơ quan lãnh đạo khác
là Hội đồng nhân dân các cấp, tức Quốc hội là cơ quan lập pháp, chủ yếu xây
dựng, ban hành pháp luật, các nghị quyết (chính sách) về các vấn đề quan trọng
của đất nước..., chứ không phải là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" như đã
được khẳng định tại Điều 69 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, Quốc hội cũng
không thể được coi là cơ quan có toàn quyền bầu ra người đứng đầu cơ quan hành
pháp (Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng) như hiện nay. Do vậy cũng cần nghiên cứu,
xây dựng cơ chế để nhân dân trực tiếp bầu ra chức danh người đứng đầu cơ quan
hành pháp (đứng đầu nhà nước). Thực hiện được các điều này sẽ góp phần bảo
đảm về thực chất mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân ở nước ta.
Ba là, phải nhận thức rõ rằng, quyền lực của Đảng rất cần phải được "hóa
thân" vào Nhà nước để trở thành một chủ thể cầm quyền duy nhất trong quốc gia,
chứ không phải có sự tách rời ra hai chủ thể cầm quyền là Đảng và Nhà nước như
trong thể chế "Đảng lãnh đạo Nhà nước" hiện nay. Thể chế này có khá nhiều bất
cập, bởi về thực chất là đã "Đảng hóa" Nhà nước, tức Nhà nước mặc dù là người
"đại diện" (nhân dân ủy thác ra) thực thi quyền lực của nhân dân nhưng lại chỉ
như công cụ thực thi dưới quyền lực của Đảng. Điều này làm cho Đảng như là
“đang đứng trên” cả nhân dân - chủ thể phải có quyền lực cao nhất. Ngoài ra, thể
chế đó đã thiếu sự ràng buộc (bắt buộc) Đảng phải được "lòng dân" (làm tròn
trách nhiệm với dân) để có thể luôn giữ vai trò "lãnh đạo Nhà nước".
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức bộ máy cầm
quyền theo hướng nêu trên sẽ phù hợp với thể chế "Đảng cầm quyền". Thể chế
này về thực chất là quyền lực của Đảng đã được "ẩn giấu" trong quyền lực của
Nhà nước, làm cho quyền lực của Đảng không bao trùm lên cả xã hội như hiện

nay, từ đó có thể đạt được "văn hóa cầm quyền" của Đảng; đồng thời tạo ra sự
ràng buộc đối với Đảng là muốn có được vị thế "cầm quyền" thì tất yếu phải làm
tròn trách nhiệm với nhân dân, phải "làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân
mến, dân yêu" để từ đó nhân dân mới "bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành
chính quyền" của mình như Hồ Chí Minh đã nêu rõ. Thể chế "Đảng cầm quyền"
17


như vậy về thực chất cũng chính là nhân dân cầm quyền hay nhân dân nắm chính
quyền - những người giữ vị trí "chủ quyền nhân dân" (quyền lực tối thượng) hay
"mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân" như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Thứ ba, cần nhận thức và phân định rõ chức năng lãnh đạo, chức năng chỉ
đạo (quản lý, điều hành) của các cá nhân cán bộ, đảng viên có các chức trách
nhất định trong hệ thống chính trị.
Đây là yêu cầu cần thiết để xây dựng cơ chế nâng cao trách nhiệm cá nhân
của những người có chức trách trong hệ thống chính trị. Như trên đã phân tích,
chức năng hay hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo là thực tế khách quan đối với các cá
nhân, nhất là đối với những người có các vị trí, có "chức vụ". Lãnh đạo và chỉ đạo
là hai hoạt động khác nhau nhưng gắn kết với nhau của các cá nhân cán bộ, đảng
viên, những người lãnh đạo (những người đảng viên có chức vụ). Trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc viết năm 1947, Hồ Chí Minh đã phân biệt rất rõ cách
làm việc đối với con người nói chung và với nhân dân nói riêng của những người
lãnh đạo. Những người lãnh đạo làm việc với con người nói chung hay với nhân
dân nói riêng thường theo hai cách: cách dân chủ và cách quan liêu (chỉ đạo, quản
lý, điều hành theo luật, quy định...). Hai cách này đã được Hồ Chí Minh phân tích
rõ thông qua hoạt động của các cá nhân người lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh,
những người lãnh đạo khi làm việc với con người, đặc biệt với dân chúng thì tốt
nhất là làm theo cách thứ nhất - cách dân chủ. Cách làm việc này đã được Hồ Chí
Minh nhấn mạnh, bàn kỹ trong tác phẩm và đề cập nhiều trong mục riêng "Cách
lãnh đạo" như đã nêu ở trên.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng cũng đã xác định rõ: "Đảng lãnh đạo thông
qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính
trị". Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng có nghĩa là sự lãnh đạo của tập thể,
hay "tập thể lãnh đạo", tức sự lãnh đạo gắn với các "đại hội", "hội nghị" đại biểu
để xây dựng các cương lĩnh, đường lối thể hiện trong các nghị quyết. Cần hiểu
rằng, lãnh đạo tập thể trong Đảng về thực chất lại xuất phát từ hoạt động lãnh đạo
của các cá nhân, bởi các cá nhân đảng viên từ nhận thức lý luận, thực tiễn kinh
nghiệm của mình tham gia vào việc thảo luận đóng góp, đề xuất đưa ra các sáng
kiến... trong các đại hội, hội nghị đại biểu để xây dựng các cương lĩnh, đường lối
của Đảng. Lãnh đạo tập thể xuất phát từ các cá nhân còn biểu hiện trong các hoạt
động như cổ vũ, động viên, thuyết phục, chia sẻ, khích lệ các đối tượng lãnh đạo
thực hiện các đường lối của chủ thể lãnh đạo. Đảng lãnh đạo thông qua đảng viên
có nghĩa là các hoạt động lãnh đạo của cá nhân các đảng viên, như được nêu ở
trên. Hoạt động lãnh đạo như vậy của các đảng viên là không sử dụng đến công
cụ quyền lực, tức không bao hàm các hoạt động chỉ đạo, điều hành, quản lý. Về
phương diện này có thể hiểu rằng, lãnh đạo của cá nhân các đảng viên là hoạt
động có nét tương đồng với công tác dân vận. Lãnh đạo và công tác dân vận của
người đảng viên là có các chức năng giống nhau. Thực tế, hoạt động hay thực
hiện chức năng lãnh đạo, công tác dân vận của cá nhân mỗi đảng viên có ngay từ
thời kỳ Đảng được thành lập năm 1930. Bởi thực hiện vai trò lãnh đạo quần
chúng nhân dân lúc bấy giờ, các đảng viên chủ yếu đều đã làm công tác dân vận
18


như tuyên truyền, giáo dục, tập hợp quần chúng nhân dân đoàn kết, đi theo Đảng
làm cách mạng giành độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Nhiệm vụ
chủ yếu của các đảng viên lúc bấy giờ là tập trung vào việc "tổ chức ra các ban
chuyên môn về các giới vận động như: Công vận, nông vận, thanh vận, phụ
vận,...".

Việc nhận thức rõ các vấn đề nêu trên là cơ sở quan trọng để xác định rõ
vai trò lãnh đạo của tập thể và vai trò lãnh đạo của cá nhân những người có chức
trách trong hệ thống chính trị. Trên thế giới hiện nay, ở các quốc gia phát triển,
các nhà nghiên cứu Lãnh đạo học cũng chỉ nói đến vai trò, hoạt động lãnh đạo
(kỹ năng, hành vi, cách thức lãnh đạo...) của các cá nhân chứ không nói đến hoạt
động lãnh đạo của tập thể. Trong khi ở các quốc gia đó, các hình thức làm việc
theo kiểu "lãnh đạo tập thể" thông qua các cuộc họp của nghị viện (quốc hội), các
hội đồng địa phương với sự thảo luận, phản biện, sau đó biểu quyết theo đa số các
vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương vẫn diễn ra một cách thông lệ
như ở nước ta. Do vậy, cần phải nhận thức rõ rằng, nguyên tắc "tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách" chính là chỉ muốn nhấn mạnh đến trách nhiệm của các chủ thể
(tập thể hoặc cá nhân) trong lãnh đạo hoặc điều hành công việc. Nói cách khác,
thực hiện nguyên tắc này có nghĩa là phải xây dựng cơ chế sao cho những chủ thể
(tập thể hoặc các cá nhân) được trao "thẩm quyền", có quyền hạn nhất định,
nhưng đồng thời lại cần phải gắn các chủ thể đó với "trách nhiệm", hay "cột chặt"
trách nhiệm của chủ thể với các quyền hạn được trao.
Từ những điều đã được phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, việc nhận thức
và vận dụng đúng đắn nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta có vai trò hết sức quan trọng
và là yêu cầu cần thiết, tất yếu hiện nay. Đây cũng là vấn đề, nội dung cơ bản nhất
của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và bộ máy nhà nước mà thực hiện
đúng đắn sẽ làm "nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo" như Đảng
đã yêu cầu trong Cương lĩnh, tức cũng là nâng cao được năng lực lãnh đạo, quản
lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đáp ứng với yêu cầu của nền quản trị quốc gia
hiện đại và xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân ở
nước ta. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm đến vấn đề này, đưa ra
những định hướng đúng đắn về cơ chế vận hành thực thi quyền làm chủ của nhân
dân, cũng như thẳng thắn loại bỏ những cơ chế, phương thức lạc hậu không phù
hợp với thực tiễn vận hành trong thực thi quyền lực và phát triển đất nước, đáp
ứng với xu thế tiến bộ của xã hội hiện đại trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay.

III. THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ - MỘT
ĐẢM BẢO QUAN TRỌNG ĐỂ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG
MẠNH
Suốt chặng đường 86 năm qua, trong từng giai đoạn cách mạng cũng như
từng nhiệm vụ cụ thể, nguyên tắc TTDC luôn được coi trọng trong hoạt động, tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Hội nghị
Trung ương 6 lần 2 (khoá VIII) của Đảng đã thông qua Nghị quyết quan trọng đối
với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó nhấn mạnh: “TTDC là nguyên
tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng”. Bởi vậy, cần phải
19


“Nâng cao nhận thức thống nhất trong Đảng về nguyên tắc TTDC. Xây dựng và
bổ sung các quy định, quy chế thực hiện nguyên tắc này. Cụ thể hóa nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chế độ trách nhiệm của người đứng đầu; quy
định cụ thể về bảo lưu ý kiến, bảo đảm cho người có ý kiến bảo lưu được phát
biểu đầy đủ trong tổ chức đảng và một số cơ quan lý luận thích hợp”. Trong các
kỳ Đại hội: IX, X và XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định phải phát huy dân chủ trong
sinh hoạt, coi trọng và thực hiện đúng quy chế làm việc, thực hiện nghiêm kỷ luật
Đảng. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng còn mở rộng nội hàm của nguyên tắc
TTDC trong Đảng, đó là: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế,
đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và
nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”. Gần đây, Hội
nghị Trung ương 9 (khóa XI) đã ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng. Đây là
một nét mới trong công tác tổ chức, sinh hoạt đảng, là bước tiến trong quá trình
thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng. Quy chế bầu cử trong Đảng là văn kiện
quan trọng, phù hợp với tình hình thực tiễn xây dựng Đảng và yêu cầu bầu cử
trong Đảng hiện nay nhằm đảm bảo cho việc bầu cấp ủy các cấp được thực hiện
chặt chẽ, đúng nguyên tắc, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong các tổ chức đảng
(TCĐ). Việc thực hiện nghiêm nguyên tắc TTDC đã góp phần đảm bảo giữ

nghiêm kỷ luật Đảng, phát huy được trí tuệ tập thể trong xác định chủ trương,
biện pháp lãnh đạo, tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và trong xã hội; khắc phục
được những biểu hiện nghi kỵ, hiềm khích, bằng mặt nhưng không bằng lòng,
thiếu tôn trọng nhau trong sinh hoạt và hoạt động. Đồng thời, là cơ sở để đấu
tranh ngăn chặn các hiện tượng độc đoán, chuyên quyền, cục bộ địa phương, dân
chủ vô độ, vi phạm nguyên tắc TTDC trong cấp ủy, TCĐ từ Trung ương tới địa
phương.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nguyên tắc TTDC, ở nhiều TCĐ cũng
còn bộc lộ không ít bất cập, có biểu hiện hình thức; chưa gắn việc thực hiện dân
chủ với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và chức trách của
từng cá nhân. Các quy chế, quy định về phát huy dân chủ ở cơ sở tuy đã ban
hành, nhưng một số cấp ủy, TCĐ thực hiện thiếu nghiêm túc, không triệt để dẫn
đến vi phạm quyền dân chủ trong Đảng. Tình trạng “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng
không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, nói và làm tùy tiện, chấp hành nghị quyết
của Đảng và pháp luật của Nhà nước không nghiêm, giảm sút tinh thần đấu tranh
bảo vệ nguyên tắc Đảng, bảo vệ chân lý,... của một số cán bộ, đảng viên (CB,ĐV)
chưa được khắc phục. Những biểu hiện trên bị các thế lực thù địch, cơ hội về
chính trị triệt để lợi dụng để nói xấu Đảng ta và cổ súy cho cái gọi là “dân chủ vô
giới hạn”, “dân chủ tuyệt đối”, “đa nguyên, đa đảng”. Ý đồ xấu xa, thâm độc của
chúng nhằm chia rẽ nội bộ, làm tan rã tổ chức và phá vỡ sự thống nhất trong
Đảng; phá vỡ tính thống nhất, kỷ luật, kỷ cương của Nhà nước ta, làm mất ổn
định về chính trị - xã hội, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo quỹ đạo
của chúng.
Hiện nay, toàn Đảng đang tiến hành công tác chuẩn bị tổ chức đại hội Đảng
các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng
nhằm phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội
20


ngũ CB,ĐV, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

đặt ra. Trong quá trình đó cũng như trong sinh hoạt Đảng, việc thực hiện nghiêm
nguyên tắc TTDC, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sẽ là cơ sở quan trọng
để đại hội thành công, đề ra được chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn và bầu
được những người xứng đáng, có đủ “tâm” và “tầm” vào cấp ủy nhiệm kỳ tới.
Bởi vậy, hơn lúc nào hết, vào thời điểm này, toàn Đảng cần phải có nhận thức
đúng và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc TTDC, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân
công cá nhân phụ trách, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình (TPB&PB). Nhưng
việc mở rộng dân chủ phải gắn với giữ vững quyền tập thể lãnh đạo, đề cao kỷ
luật Đảng, tăng cường đoàn kết, thống nhất, đấu tranh có hiệu quả với mọi luận
điệu đòi từ bỏ nguyên tắc TTDC trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Trước hết, cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi
CB,ĐV, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì, cấp ủy viên các cấp có nhận thức đúng,
đầy đủ về bản chất, nội dung, mối quan hệ biện chứng của nguyên tắc
TTDC. Cấp ủy, TCĐ các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung,
bản chất và mối quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ gắn với việc liên
hệ, kiểm điểm về nhận thức và thực hiện nguyên tắc này ở cấp mình. Trong
nguyên tắc TTDC, hai thành tố “tập trung” và “dân chủ” không tách rời nhau mà
hòa quyện với nhau; tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập
trung. Từ nhận thức đúng, các cấp ủy chỉ ra được kết quả và những yếu kém trong
tổ chức thực hiện, tìm ra các nguyên nhân chủ quan, khách quan của những
khuyết điểm hoặc những biểu hiện cố tình vi phạm nguyên tắc để khắc phục. Quá
trình nghiên cứu, quán triệt, cần phải xác định rõ vai trò cá nhân cán bộ lãnh đạo,
người đứng đầu đơn vị; cụ thể hóa chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối
quan hệ phối hợp công tác của từng CB,ĐV, của từng cấp ủy, TCĐ. Các cấp cần
sâu sát cơ sở, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những nhận thức không đúng, tư
tưởng giản đơn, thiếu trách nhiệm trong thực hiện nguyên tắc TTDC; đấu tranh
khắc phục bệnh quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức cũng như mọi biểu hiện
cục bộ địa phương chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật; cần đưa ngay ra khỏi Đảng
những người phủ nhận và không chấp hành nguyên tắc TTDC.
Hai là, nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, phân

công cá nhân phụ trách, mở rộng sinh hoạt dân chủ. Tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách là biểu hiện cụ thể nội dung, yêu cầu của nguyên tắc TTDC trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng. Theo đó, mọi vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương của
Đảng đều do tập thể các cơ quan lãnh đạo hoặc TCĐ dân chủ bàn bạc và quyết
định theo đa số; cá nhân không được tự quyết định những vấn đề thuộc về chức
năng, quyền hạn của các TCĐ. Để buổi sinh hoạt có chất lượng, cấp ủy, bí thư
hoặc phó bí thư chủ trì sinh hoạt phải làm tốt việc chuẩn bị nội dung, xây dựng dự
thảo nghị quyết, bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và tạo mọi điều
kiện cho đảng viên đóng góp xây dựng chủ trương, biện pháp lãnh đạo. Người
chủ trì sinh hoạt phải lắng nghe và tập hợp các ý kiến của đảng viên; khi có ý kiến
khác nhau về một vấn đề cần phải điều hành thảo luận đi đến thống nhất trước khi
biểu quyết. Khi đã có nghị quyết, cấp ủy chịu trách nhiệm phân công nhiệm vụ
cho cấp ủy viên, TCĐ phân công nhiệm vụ cho đảng viên, phù hợp với chức
21


trách, nhiệm vụ của từng người; đồng thời, phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm,
tính tích cực, sự sáng tạo của mỗi cá nhân, bảo đảm cho nghị quyết được thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả. Đối với những vấn đề quan trọng cần bỏ phiếu kín,
phải chấp hành nghiêm quy trình bỏ phiếu, tổ chức kiểm phiếu chặt chẽ, công bố
kết quả theo quy định và lập biên bản bảo lưu kết quả. Mọi đảng viên phải
nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết đã ban hành, không được phát ngôn và có
hành động trái với nghị quyết. Việc xây dựng, ban hành các quy định cụ thể hoá
nguyên tắc TTDC phải đảm bảo yêu cầu tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và
mở rộng sinh hoạt dân chủ. Mỗi cấp ủy, TCĐ cần ban hành quy định về chế độ
trách nhiệm của người đứng đầu, xác định rõ chức trách của cán bộ lãnh đạo,
quản lý; quy định cụ thể các quy tắc phối hợp trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện
nghị quyết của bí thư, cấp ủy và đảng viên. Cấp ủy viên, người đứng đầu và các
đảng viên phải tự giác chấp hành các quy định đã đề ra.
Ba là, phát huy vai trò của bí thư, cấp uỷ trong việc duy trì các nền nếp,

chế độ, thủ tục, nguyên tắc của Đảng; thực hiện tốt TPB&PB trong sinh hoạt
đảng. Đội ngũ bí thư, cấp ủy là người chủ trì về công tác Đảng, là hạt nhân đoàn
kết, phát huy sức mạnh tập thể thực hiện sự lãnh đạo đối với mọi hoạt động của
đơn vị. Thực tiễn công tác xây dựng Đảng những năm qua cho thấy, ở đâu, nơi
nào đội ngũ bí thư, cấp ủy có phẩm chất, năng lực, tính đảng, tính nguyên tắc cao,
thì nơi đó nguyên tắc TTDC được thực hiện nghiêm túc; các chế độ, nền nếp
được giữ vững, đoàn kết nội bộ được tăng cường, vai trò, hiệu quả lãnh đạo của
cấp ủy được khẳng định trong thực tiễn. Để giữ vững nguyên tắc TTDC trong
sinh hoạt và hoạt động của Đảng, các cấp cần tập trung bồi dưỡng cho đội ngũ bí
thư, cấp ủy nắm vững những vấn đề cơ bản về nguyên tắc TTDC, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách và các thủ tục, chế độ sinh hoạt đảng; rèn luyện tính tổ
chức, tính kỷ luật cao; phương pháp làm việc cẩn thận, tỉ mỉ, chặt chẽ, tránh mọi
biểu hiện chủ quan, giản đơn trong chuẩn bị cũng như trong điều hành sinh hoạt.
Đồng thời, thực hiện nghiêm túc TPB&PB trong sinh hoạt Đảng theo Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Trên cơ sở cụ thể hoá Quy chế Dân
chủ ở cơ sở, cấp ủy, TCĐ các cấp cần có cơ chế phù hợp để lấy ý kiến góp ý, phê
bình tổ chức đảng và CB,ĐV hằng năm. Việc tổ chức TPB&PB phải được tiến
hành trên tinh thần dân chủ, thẳng thắn và xây dựng, có tình đồng chí, thương yêu
lẫn nhau, để cùng tiến bộ. Tránh lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích lẫn nhau,
gây rối nội bộ hoặc tình trạng nể nang, hình thức, bao che cho nhau, thấy đúng
không kiên quyết bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh hoặc khi được phê bình
thì tiếp thu một cách miễn cưỡng và không sửa chữa khuyết điểm.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nguyên tắc TTDC; tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong cấp ủy, TCĐ các
cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp ủy cấp trên kiểm tra, giám sát cấp ủy cấp dưới,
kiểm tra chéo, kiểm tra định kỳ và không định kỳ. Cùng với việc kiểm tra, giám
sát các mặt hoạt động của các TCĐ, cần chú trọng kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các chế độ, nền nếp, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng; tiếp tục kiểm tra, bổ
sung, hoàn thiện các quy định chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động cụ thể
của các loại hình TCĐ. Đối với CB,ĐV, TCĐ, cần tăng cường kiểm tra, giám sát

22


cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và nhận thức, chấp hành nguyên tắc
TTDC, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và kết quả thực hiện nhiệm vụ. Quá trình kiểm tra, giám sát phải kịp thời
phát hiện, làm rõ sai phạm và chấn chỉnh những biểu hiện sai trái, tháo gỡ những
vướng mắc trong thực hiện nguyên tắc TTDC. Các TCĐ cần có biện pháp quản lý
chặt chẽ tình hình tư tưởng và các mối quan hệ của CB,ĐV; kiên quyết xử lý
nghiêm những hành động tự do, vô kỷ luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết
của tập thể, không tuân thủ mệnh lệnh của cấp trên; khắc phục tình trạng mất
đoàn kết, cục bộ, bè phái hoặc tự do, tùy tiện, phát ngôn thiếu tính xây dựng; thực
hiện nói, viết và làm theo nghị quyết của Đảng.

23


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Trong toàn
bộ quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm
lo đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt của
cách mạng nước ta. Trong công tác xây dựng Đảng, Người đặc biệt coi trọng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát huy
sức mạnh của tập thể phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng đã đề ra.
Những luận điểm về nguyên tắc tập trung dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đều rất cô đọng, hàm súc vừa cụ thể giản dị, vừa khái quát sâu sắc. Trong
Tác phẩm Dân vận năm 1947, Người viết: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng

đều ở nơi dân". Đồng thời, Người cũng đặc biệt nhấn mạnh: “Tập thể lãnh đạo là
dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung”. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một
vấn đề không tách rời nhau mà luôn đan xen, bổ sung cho nhau, dân chủ là điều
kiện, tiền đề của tập trung, đồng thời tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ
được thực hiện và phát huy. Dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc,
sức mạnh của Đảng càng được khẳng định. Tập trung mà không có dân chủ là tập
trung nửa vời, độc đoán, chuyên quyền; dân chủ mà không gắn với tập trung là
dân chủ hình thức, quá trớn, tùy tiện, phân tán, tự do vô chính phủ. Cũng theo V.I.
Lê-nin: “...Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan
liêu chủ nghĩa, và mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”. Người đặc biệt
nhấn mạnh phải không ngừng mở rộng dân chủ từ dân chủ trong Đảng đến dân
chủ ngoài xã hội, từ dân chủ về chính trị đến dân chủ về kinh tế, văn hóa, xã hội...
dưới sự lãnh đạo của Đảng, thống nhất quản lý của nhà nước không ngừng phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, nên việc thực hiện tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với đảng viên
của Đảng mà còn đối với toàn xã hội. Hiểu và vận dụng đúng đắn nguyên tắc tập
trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất trong tư
tưởng và hành động “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như
một người”.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
Đảng, phản ánh sâu sắc tính tiền phong của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến
lãnh đạo xã hội. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng là
yêu cầu khách quan duy trì đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động trong
Đảng; phát huy được trí tuệ, sức mạnh của Đảng trong thực hiện sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới,
đưa cách mạng đi đến thành công.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình CTĐ, CTCT, Tập 2, dùng cho đào tạo cán bộ cấp chiến thuật, chiến
dịch, Nxb QĐND, H2008.
2. Điều lệ Đảng CSVN (Đại hội X, XI thông qua), Nxb CTQG, H2006, H2011.
3. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, H1991.
4. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H1996.
5. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001.
6. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H2006.
7. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H2011.
8. HCM, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1995. Tập 12 (H.1996).
9. HCM, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1995.
10. HCM, toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.1996.
11. Văn kiện Đảng CD, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.1999.
12. Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2001.
13. Văn kiện Đảng CD, Toàn tập, Tập 21, Nxb CTQG, H.2005.
14. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ đi lên CNXH, Nxb ST,
H.1991, H. 2011.

25


×