Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Đặc trưng ngôn ngữ học xã hội của từ ngữ kiêng kị trong tiếng việt ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 192 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------

BÙI THỊ NGỌC ANH

ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ HỌC
XÃ HỘI CỦA TỪ NGỮ KIÊNG KỊ
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI 2014


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------

BÙI THỊ NGỌC ANH

ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ HỌC
XÃ HỘI CỦA TỪ NGỮ KIÊNG KỊ
TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Lý luận Ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. TS. Nguyễn Thị Thanh Bình


2. TS. Bùi Thị Minh Yến

HÀ NỘI 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nêu
trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ công trình
nghiên cứu nào.

Bùi Thị Ngọc Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 18
1.1. DẪN NHẬP .................................................................................................. 18
1.2. QUAN NIỆM VỀ TỪ NGỮ KIÊNG KỊ ........................................................ 19
1.2.1. Quan điểm của các tác giả ngoài nƣớc về từ ngữ kiêng kị ................... 19
1.2.2. Quan điểm của các tác giả trong nƣớc về từ ngữ kiêng kị ................... 25
1.2.3. Quan niệm của luận án về từ ngữ kiêng kị ........................................... 27
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI LIÊN QUAN
CÁCH TIẾP CẬN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................... 28
1.3.1. Vài nét thông tin chung về ngôn ngữ học xã hội ................................... 28
1.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội ............................. 30
1.3.3. Biến ngôn ngữ và biến xã hội ................................................................ 32
1.4. NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ EM THEO
HƢỚNG NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI ......................................................................... 35
1.4.1. Về mục tiêu phát triển khả năng diễn đạt hiệu quả của trẻ ......... 36
1.4.2. Về vai trò của ngôn ngữ dùng để nói với trẻ em ............................ 38

1.4.3. Về vai trò phản hồi của những ngƣời chăm sóc trẻ em ................. 39
1.5. TIỂU KẾT ..................................................................................................... 40
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ Ở
HOÀI THỊ ........................................................................................................... 42
2.1. DẪN NHẬP .................................................................................................. 42
2.2. SỐ LƢỢNG, TẦN SỐ XUẤT HIỆN VÀ PHÂN LOẠI TỪ NGỮ KIÊNG
KỊ Ở HOÀI THỊ ................................................................................................... 44
2.2.1. Số lƣợng từ ngữ kiêng kị đƣợc sử dụng ................................................. 44
2.2.2. Tần số xuất hiện từ ngữ kiêng kị ............................................................ 46
2.2.3. Phân loại từ ngữ kiêng kị......................................................................... 48
2.3. SỰ PHỔ BIẾN CỦA TỪ NGỮ KIÊNG KỊ ................................................ 50


2.3.1. Từ ngữ kiêng kị xuất hiện trong ngôn từ của ngƣời nói thuộc các thế
hệ, lứa tuổi, giới tính khác nhau ....................................................................... 51
2.3.2. Từ ngữ kiêng kị xuất hiện trong giao tiếp ở mọi gia đình ................... 53
2.4. MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ Ở HOÀI THỊ ...................... 57
2.4.1. Biểu thị sự tức giận................................................................................... 58
2.4.2. Phủ nhận, bác bỏ ...................................................................................... 62
2.4.3. Xúc phạm đối phƣơng ............................................................................. 64
2.4.4. Mắng yêu ................................................................................................... 65
2.4.5. Gây cƣời .................................................................................................... 66
2.4.6. Gây sự chú ý.............................................................................................. 69
2.4.7. Thể hiện sức mạnh ................................................................................... 70
2.5. TIỂU KẾT ..................................................................................................... 71
CHƢƠNG 3: ẢNH HƢỞNG CỦA TUỔI VÀ GIỚI ĐẾN SỰ SỬ DỤNG TỪ
NGỮ KIÊNG KỊ ................................................................................................. 74
3.1. DẪN NHẬP .................................................................................................. 74
3.2. TUỔI VÀ SỰ SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ .......................................... 76
3.2.1. Tuổi và số lƣợng từ ngữ kiêng kị đƣợc sử dụng .................................... 76

3.2.2. Tuổi và tần số xuất hiện từ ngữ kiêng kị................................................ 80
3.2.3. Sự sử dụng TNKK khi ngƣời lớn nói với bé lớn và ngƣời lớn nói với bé
nhỏ ........................................................................................................................ 82
3.2.4. Phản ứng của ngƣời lớn khi nghe bé lớn và bé nhỏ sử dụng TNKK .. 86

3.3. GIỚI VÀ SỰ SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ ........................................ 93
3.3.1. Giới và số lƣợng từ ngữ kiêng kị đƣợc sử dụng ................................. 94
3.3.2. Giới và tần số xuất hiện từ ngữ kiêng kị ........................................... 100
3.3.3. Sự sử dụng TNKK khi ngƣời lớn nói với bé trai và ngƣời lớn nói
với bé gái ....................................................................................................................... 102
3.3.4. Phản ứng của ngƣời lớn khi bé trai sử dụng TNKK và bé gái sử dụng
TNKK ................................................................................................................ 104
3.4. TIỂU KẾT ................................................................................................... 108


CHƢƠNG 4: ẢNH HƢỞNG CỦA TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP ĐẾN SỰ SỬ
DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ ........................................................................... 110
4.1. DẪN NHẬP ................................................................................................ 110
4.2. MIÊU TẢ CHUNG VỀ SỰ SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ TRONG CÁC
TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP .............................................................................. 111
4.3. SỰ SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ TRONG TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP
CÙNG GIỚI VÀ LẪN GIỚI.............................................................................. 115
4.3.1. Sự xuất hiện của TNKK trong tình huống giao tiếp cùng giới và lẫn
giới...................................................................................................................... 115
4.3.2. Mức độ tăng cấp của các TNKK trong tình huống giao tiếp trẻ chơi
trong nhóm cùng giới và trẻ chơi trong nhóm lẫn giới ................................. 120
4.4. SỰ SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ TRONG TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP
TRANG TRỌNG VÀ PHI TRANG TRỌNG ................................................... 123
4.4.1. Sự xuất hiện của TNKK trong tình huống giao tiếp trang trọng và phi
trang trọng ........................................................................................................ 123

4.4.2. Mức độ tăng cấp của các TNKK trong tình huống giao tiếp trang
trọng và phi trang trọng .................................................................................. 134
4.5. SỰ SỬ DỤNG TỪ NGỮ KIÊNG KỊ TRONG TÌNH HUỐNG GIAO

TIẾP CÓ SỰ THAY ĐỔI QUAN HỆ VỊ THẾ GIỮA NGƢỜI NÓI VÀ
NGƢỜI NGHE............................................................................................. 136
4.5.1. Sự xuất hiện của TNKK trong tình huống giao tiếp có sự thay đổi
quan hệ vị thế giữa ngƣời nói và ngƣời nghe................................................. 137
4.5.2. Mức độ tăng cấp của các TNKK trong tình huống giao tiếp có sự thay
đổi quan hệ vị thế giữa ngƣời nói và ngƣời nghe .......................................... 143
4.6. TIỂU KẾT .................................................................................................. 144
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Số lƣợng TNKK đƣợc trẻ em và ngƣời lớn sử dụng ở Hoài Thị
Bảng 2.2. TNKK xuất hiện nhiều nhất trong giao tiếp của ngƣời dân Hoài Thị
Bảng 2.3. TNKK xuất hiện ít nhất trong giao tiếp của ngƣời dân Hoài Thị
Bảng 2.4. Tần số xuất hiện và tỉ lệ phần trăm của các nhóm TNKK
Bảng 2.5. Mức độ sử dụng TNKK trong từng hộ gia đình
Bảng 2.6. Mục đích sử dụng TNKK của ngƣời dân Hoài Thị
Bảng 3.1. TNKK ở Hoài Thị thƣờng đƣợc ngƣời lớn và các bé nhỏ bé lớn sử dụng
Bảng 3.2. Mục đích sử dụng TNKK của bé nhỏ và bé lớn ở Hoài Thị
Bảng 3.3. Tuổi của trẻ em và tỉ lệ sử dụng TNKK
Bảng 3.4. Tuổi của ngƣời nói và xu hƣớng sử dụng TNKK
Bảng 3.5. Ngƣời lớn sử dụng TNKK với bé lớn và bé nhỏ
Bảng 3.6. Tỉ lệ TNKK của trẻ em Hoài Thị nói với ngƣời lớn và trẻ em
Bảng 3.7. Phản ứng của ngƣời lớn khi nghe bé lớn và bé nhỏ sử dụng TNKK

Bảng 3.8. TNKK ở Hoài Thị thƣờng đƣợc các bé trai và bé gái sử dụng
Bảng 3.9. Mục đích sử dụng TNKK của bé trai và bé gái ở Hoài Thị
Bảng 3.10. Giới của ngƣời lớn và TNKK trong sử dụng
Bảng 3.11. Giới của trẻ em và tỉ lệ sử dụng TNKK
Bảng 3.12. Tỉ lệ sử dụng TNKK của ngƣời lớn với bé trai và bé gái
Bảng 3.13. Phản ứng của ngƣời lớn khi nghe bé trai và bé gái sử dụng TNKK
Bảng 4.1. Tần số các TNKK xuất hiện trong các tình huống giao tiếp (theo tỉ lệ)
Bảng 4.2. Sự xuất hiện của các nhóm TNKK trong các tình huống giao tiếp
Bảng 4.3. Tỉ lệ sử dụng TNKK trong tình huống giao tiếp trẻ chơi trong nhóm
cùng giới - lẫn giới và các tình huống giao tiếp còn lại
Bảng 4.4. Tỉ lệ xuất hiện TNKK trong tình huống giao tiếp trẻ chơi trong nhóm
cùng giới và lẫn giới
Bảng 4.5. Mức độ tăng cấp của TNKK xuất hiện trong tình huống giao tiếp trẻ
chơi trong nhóm cùng giới và lẫn giới


Bảng 4.6. TNKK của trẻ em xuất hiện trong tình huống giao tiếp trang trọng và
phi trang trọng
Bảng 4.7. TNKK của ngƣời lớn xuất hiện trong tình huống giao tiếp trang trọng
và phi trang trọng
Bảng 4.8. Tuổi của ngƣời nói và xu hƣớng sử dụng TNKK trong tình huống
giao tiếp trang trọng
Bảng 4.9. Mức độ tăng cấp của TNKK xuất hiện trong tình huống giao tiếp
trang trọng và phi trang trọng
Bảng 4.10. Trẻ em sử dụng TNKK với ngƣời trên, ngƣời ngang hàng và ngƣời dƣới
Bảng 4.11. Ngƣời lớn sử dụng TNKK với ngƣời trên, ngƣời ngang hàng và
ngƣời dƣới
Bảng 4.12. TNKK của trẻ em Hoài Thị khi nói với ngƣời trên, ngƣời ngang
hàng và ngƣời dƣới


Biểu đồ 2.1. Số lƣợng TNKK đƣợc trẻ em và ngƣời lớn sử dụng ở Hoài Thị
Biểu đồ 2.2. TNKK xuất hiện nhiều nhất trong giao tiếp của ngƣời dân Hoài Thị
Biểu đồ 2.3. TNKK xuất hiện ít nhất trong giao tiếp của ngƣời dân Hoài Thị
Biểu đồ 2.4. Tần số xuất hiện và tỉ lệ phần trăm của các nhóm TNKK
Biểu đồ 2.5. Mức độ sử dụng TNKK trong từng hộ gia đình
Biểu đổ 2.6. Mục đích sử dụng TNKK của ngƣời dân Hoài Thị
Biểu đồ 3.1. Tuổi của trẻ em và tỉ lệ sử dụng TNKK
Biểu đồ 3.2. Tuổi của ngƣời nói và xu hƣớng sử dụng TNKK
Biểu đồ 3.3. Ngƣời lớn sử dụng TNKK với bé lớn và bé nhỏ
Biểu đồ 3.4. Tỉ lệ TNKK của trẻ em Hoài Thị nói với ngƣời lớn và trẻ em
Biểu đồ 3.5. Phản ứng của ngƣời lớn khi nghe bé lớn và bé nhỏ sử dụng TNKK
Biểu đồ 3.6. Giới của trẻ em và tỉ lệ sử dụng TNKK
Biểu đồ 3.7. Tỉ lệ sử dụng TNKK của ngƣời lớn với bé trai và bé gái
Biểu đồ 3.8. Phản ứng của ngƣời lớn khi nghe bé trai và bé gái sử dụng TNKK
Biểu đồ 4.1. Tần số các TNKK xuất hiện trong các tình huống giao tiếp (theo tỉ lệ)


Biểu đồ 4.2. Tỉ lệ TNKK xuất hiện trong tình huống giao tiếp trẻ chơi trong
nhóm cùng giới - lẫn giới và các tình huống giao tiếp còn lại
Biểu đồ 4.3. Tỉ lệ xuất hiện TNKK trong tình huống giao tiếp trẻ chơi trong
nhóm cùng giới và lẫn giới
Biểu đồ 4.4. TNKK của trẻ em xuất hiện trong tình huống giao tiếp trang trọng
và phi trang trọng
Biểu đồ 4.5. TNKK của ngƣời lớn xuất hiện trong tình huống giao tiếp trang
trọng và phi trang trọng
Biểu đồ 4.6.Tuổi của ngƣời nói và xu hƣớng sử dụng TNKK trong tình huống
giao tiếp trang trọng
Biểu đồ 4.7. Trẻ em sử dụng TNKK với ngƣời trên, ngƣời ngang hàng và ngƣời dƣới
Biểu đồ 4.8. Ngƣời lớn sử dụng TNKK với ngƣời trên, ngƣời ngang hàng và
ngƣời dƣới



CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VÀ CÁC QUY ƢỚC TRONG LUẬN ÁN

1. Các chữ viết tắt
TNKK:

Từ ngữ kiêng kị

LA:

Luận án

ĐTV:

Điều tra viên

2. Các quy ƣớc
Ví dụ:
(trai, 5t): bé trai, 5 tuổi
(gái, 5t): bé gái, 5 tuổi
(lớn, 10t): bé lớn, 10 tuổi
(nhỏ, 5t): bé nhỏ, 5 tuổi


MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Giống nhƣ trong nhiều ngôn ngữ khác, trong tiếng Việt có một lớp từ ngữ

thƣờng bị coi là những từ ngữ không nên dùng, cần kiêng tránh bởi chúng là
những từ ngữ gây phản cảm cho ngƣời khác. Lớp từ ngữ này thƣờng diễn tả hoặc
tạo ra sự liên tƣởng đến những quan niệm, những đề tài, những sự vật, sự việc bị
coi là cấm kị trong văn hóa cộng đồng, ví dụ nhƣ tôn giáo, tâm linh, tình dục.
Những ngƣời sử dụng loại từ ngữ này thƣờng bị đánh giá là vô học, thiếu văn
hóa, mất lịch sự, thô lỗ, cộc cằn v.v…, trẻ em thƣờng bị trách phạt, bị cấm dùng
những từ ngữ đó, vì vậy chúng đƣợc dạy bằng cách dùng uyển ngữ để thay thế
cho những từ ngữ kiêng kị (TNKK) nói trên.
Tuy nhiên, mặc dù bị cấm đoán và bị đánh giá thấp, TNKK vẫn tồn tại từ
thời này qua thời khác trong vốn từ vựng tiếng Việt, nhất là trong giao tiếp ngôn
ngữ của thanh thiếu niên trên các mạng xã hội hiện nay. Để có thể có thái độ ứng
xử thỏa đáng trƣớc hiện tƣợng này cần có sự chung tay góp sức của các chuyên
ngành khác nhau, trong đó có ngôn ngữ học. Luận án (LA) này là một đóng góp
vào sự nghiệp chung đó.
1.2. TNKK là một lớp từ bị đánh giá thấp và quan điểm thƣờng thấy đối với
chúng đơn giản là cấm sử dụng hoặc cần thiết lắm thì tránh sử dụng bằng cách
dùng uyển ngữ thay thế. Vì vậy, TNKK chƣa thực sự thu hút đƣợc sự quan tâm
của các nhà Việt ngữ học. Các công trình đã có thƣờng đi theo hƣớng mô tả/phân
loại TNKK và dùng uyển ngữ thay thế, nhƣng mô tả TNKK và các cách tránh sử
dụng chúng không giải thích đƣợc bản chất, sự tồn tại và phát triển của lớp từ
này. Ví dụ, không thể giải thích đƣợc tại sao những từ nhƣ “con đĩ” lại là TNKK,
không nên sử dụng trong khi có hẳn một xuất bản phẩm với tên “Xin lỗi em chỉ
là con đĩ”. Thực ra, cũng giống nhƣ mọi hiện tƣợng xã hội khác, để tồn tại,

1


TNKK cũng phải có chức năng xã hội của nó nên chúng ta chỉ có thể đánh giá
đƣợc những từ ngữ nhƣ trên có thô thiển, mất lịch sự hay không thông qua việc
tìm hiểu chức năng xã hội của nó, tức là nghiên cứu chúng trong mối tƣơng liên

chặt chẽ với hoàn cảnh giao tiếp mà chúng xuất hiện. Nghiên cứu TNKK trong
hoàn cảnh giao tiếp cũng chính là cách tiếp cận TNKK từ góc độ ngôn ngữ học
xã hội, đó cũng chính là hƣớng tiếp cận của LA.
1.3. Hiện nay trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về TNKK, tuy
nhiên ở Việt Nam lại chƣa có một đề tài, một LA nào nghiên cứu về đặc trƣng
ngôn ngữ học xã hội, tức là ảnh hƣởng của các yếu tố xã hội nhƣ tuổi tác, giới
tính, giai tầng v.v… đến sự sử dụng TNKK trong tiếng Việt. Vì vậy, chúng tôi
chọn “Đặc trƣng ngôn ngữ học xã hội của từ ngữ kiêng kị trong tiếng Việt”, trên
cứ liệu giao tiếp ngôn ngữ ở Hoài Thị giai đoạn 2001 - 2002 - làm đề tài cho LA.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TỪ NGỮ KIÊNG KỊ
Với các cách thức tiếp cận khác nhau, hiện nay ở trên thế giới, nghiên cứu
về TNKK đã dành đƣợc sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh
vực khác nhau nhƣ tôn giáo, tâm lí, tâm lí học phát triển, và ngôn ngữ học xã
hội, v.v... Nhìn chung, các nghiên cứu về TNKK thƣờng đƣợc tiếp cận theo hai
hƣớng, một là nghiên cứu theo hƣớng miêu tả từ vựng truyền thống và hai là
nghiên cứu theo hƣớng ngôn ngữ học xã hội. Nghiên cứu theo hƣớng từ vựng
truyền thống thƣờng miêu tả TNKK nhƣ là những đơn vị ngôn ngữ mất lịch sự,
thô thiển, thậm chí tục tĩu. Do đó TNKK phải bị cấm sử dụng hoặc tránh sử dụng
bằng cách dùng uyển ngữ để thay thế. Quan điểm ngôn ngữ học xã hội cho rằng:
chỉ có thể hiểu đƣợc ý nghĩa của ngôn từ khi chúng hành chức trong hoàn cảnh
giao tiếp cụ thể. Do đó, tính thô tục, mất lịch sự, thô lỗ của TNKK phụ thuộc vào
các yếu tố xã hội tạo nên hoàn cảnh giao tiếp mà chúng xuất hiện, ví dụ nhƣ tuổi,
giới, vị thế giao tiếp, giai tầng, v.v… của những ngƣời tham gia giao tiếp, đề tài
giao tiếp, mức độ trang trọng hay thân tình của sự kiện giao tiếp, v.v…

2


2.1. Nghiên cứu từ ngữ kiêng kị theo hƣớng miêu tả từ vựng truyền thống
Xuất phát từ khía cạnh tôn giáo, Freud (1950) [49] và Steiner (1975) [98]

là những ngƣời đầu tiên nghiên cứu TNKK, cho rằng TNKK ban đầu là những từ
ngữ thuộc tôn giáo, chỉ xuất hiện trong đời sống tín ngƣỡng của con ngƣời. Tuy
nhiên, cả hai tác giả đều cho rằng mặc dù khái niệm kiêng kị đang ngày càng trở
nên lỏng lẻo hơn, kiêng kị đang chuyển dần từ lĩnh vực tôn giáo sang các lĩnh
vực khác của đời sống con ngƣời, nhƣng vẫn còn nhiều những kiêng kị không
đƣợc nói ra nhƣ: không đƣợc phép gọi tên những thế lực siêu nhiên nhƣ Chúa trời,
ma quỷ; không đƣợc gọi tên về sự chết chóc, bệnh tật; không đƣợc nói những lời
nguyền rủa. Ngoài ra, ở một số xã hội, còn phải kiêng nói đến sự nghèo hèn, nghề
nghiệp tầm thƣờng, và những thứ liên quan đến quần áo lót.
Liên quan đến niềm tin, Nguyễn Quý Thành (1993) [16] nghiên cứu
những TNKK trong nghề đi biển vùng Nam Trung Bộ, và giải thích rằng nghề đi
biển là nghề khắc nghiệt và nguy hiểm nên để tránh những rủi ro do thiên tai
mang lại, dân đi biển kiêng nói những từ ngữ gợi báo điềm gở, sự mất mát,
không vững chắc: nhƣ về (vì về gợi báo trƣớc điều chẳng lành, không gặp may),
mất (nếu đánh mất đồ - vì sợ mất mát, chết chóc); úp (vì sợ bị úp thuyền); v.v …
Nguyễn Thị Tâm Hạnh (2010) [7] cũng đã miêu tả các TNKK trong nghề làm
gốm, ví dụ, kiêng kị nói đến những gì liên quan đến: sự thiếu lành nguyên, méo
mó, đổ vỡ nhƣ: rịn (rịn nƣớc), nứt (nứt toác ra), tréo chân méo miệng, nát (vì
liên quan đến sự đổ nát), (kể cả trong giao tiếp thông thƣờng bên ngoài lò nung),
vì những từ này vốn thƣờng dùng để chỉ sản phẩm không đạt chất lƣợng hoặc
quy trình sản xuất bị trục trặc.
Nhìn chung, những nghiên cứu bàn về TNKK xuất phát từ khía cạnh tôn
giáo đều có xu hƣớng khai thác các từ ngữ linh thiêng gắn với niềm tin tôn giáo
của những con ngƣời mà tiềm thức gắn với tƣ tƣởng “có thờ có thiêng, có kiêng
có lành”. Điều này đã chi phối các hoạt động của con ngƣời, lâu dần trở thành
phong tục, tập quán.

3



Từ khía cạnh văn hóa, có nhiều nghiên cứu quan tâm đến những từ ngữ
liên quan đến chủ đề tình dục: bộ phận sinh dục và hành động tình dục. Đề cập
đến những điều cấm kị trong cuộc sống, Nguyễn Kim Phƣớc (2006) [14] đã chỉ
ra điều kị nhất là khi nói đến hành vi tính dục một cách trực tiếp. Do quan niệm
chƣa cởi mở về tình dục, coi những gì liên quan đến sinh hoạt tình dục là tà ác và
đáng xấu hổ nên kiêng kị nói những cụm từ ngữ quan hệ vợ chồng, vợ chồng gối
chăn, mà nên nói làm việc, chuyện phòng the, cùng giƣờng, cuộc sống vợ chồng,
v.v... Tác giả nhận định rằng đối với ngƣời Việt, trong giao tiếp thông thƣờng,
ngƣời ta tránh không nói từ “chim”, “bƣớm” mà dùng từ Hán Việt là “hạ bộ”,
“âm hộ” để nói tránh đi.
Một số từ ngữ liên quan đến chủ đề chết chóc đƣợc nhiều nghiên cứu đề
cập đến. Nhiều dân tộc trên thế giới kiêng không nói đến từ chết, vì khi nói lên
từ chết, ngƣời nghe có cảm giác nặng nề và thƣờng dễ bị tổn thƣơng. Chẳng hạn,
ngƣời Anh kị không nói từ dying (đang sắp chết, hấp hối), mà nói passing away
[2]. Ngƣời Việt cũng không nói từ chết mà nói: ra đi, từ trần, đi xa, mất, trút hơi
thở cuối cùng, về với Chúa (ngƣời theo đạo Thiên Chúa), lên thiên đàng (đạo
Phật), sang thế giới bên kia, giấc ngàn thu, về nơi chín suối, về với tổ tiên, về với
ông bà, quy tiên, hi sinh (ngƣời chết vì lợi ích cộng đồng), v.v…[19] Ngƣời
Trung Quốc, gọi cái chết của vua là băng hà, của hoàng đế là yến giá (với ý
nghĩa không còn thiết triều nữa), còn cái chết của tăng ni nhà Phật thì gọi là
viên tịch (nghĩa là hoàn toàn chìm vào trong giây phút niệm kinh) [14].
Từ khía cạnh ngôn ngữ, có nhiều nghiên cứu tập trung vào những từ ngữ
mà khi nói đến, con ngƣời cảm thấy xấu hổ vì nó đề cập đến những chủ đề
không lịch sự, không tế nhị. Khảo sát các yếu tố tục trong tiếng Việt, Đỗ Anh Vũ
(2003) [20] đi tìm nghĩa biểu trƣng của từ cứt qua thành ngữ và tục ngữ tiếng
Việt, kết quả là từ cứt có 16 nghĩa biểu trƣng: chỉ thói kiêu căng, hợm hĩnh, chỉ
sự khinh bỉ coi thƣờng, chỉ tính lƣời biếng vô tích sự, v.v... Từ góc độ từ vựng,
Tạ Văn Thông (2003) [17] phát hiện ra trong tiếng Việt, khi cãi cọ nhau hoặc tức
giận về một điều gì đó, ngƣời ta hay dùng những từ đƣợc xem là biểu tƣợng của


4


sự tục tĩu mà bình thƣờng phải giấu kín đi: cái con củ cặc để biểu thị sự ngạo
mạn, coi thƣờng đối thủ của mình.
Kị húy hay kiêng húy cũng là một vấn đề kiêng kị trong ngôn ngữ nhận
đƣợc sự quan tâm lớn từ các nhà nghiên cứu. Ở Việt Nam, thời phong kiến tục
kiêng huý gần nhƣ là một quy tắc bắt buộc [11].
Trƣớc tiên, ở phạm vi của một quốc gia, mọi thần dân phải kiêng kị tên
húy của vua. Chẳng hạn, có một thời gian ánh trong ánh sáng là kiêng kị (vì tên
thật của Vua Gia Long là Nguyễn Phúc Ánh), nên phải nói là yến sáng; cảnh
trong cây cảnh là kiêng kị (vì tên con trai vua Gia Long là Nguyễn Phúc Cảnh),
nên phải nói là cây kiểng. Ngoài việc kiêng nói tên vua, nhiều khi tên của những
ngƣời thân thuộc với vua cũng phải kiêng nhƣ: cha, mẹ, vợ, con, anh em,… và
có khi đến hàng ông nội, bà nội, tên giả, chữ đệm của vua cũng phải kiêng.
Trong phạm vi làng xã, cũng có những kiêng huý nhất định. Chẳng hạn ở
Làng Phƣớc Tích (vùng biển Nam Trung Bộ), nồi là tên của ngài Khai canh Bổn nghệ (họ Hoàng) của làng: “ngài thỉ tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh
Hùng, tục gọi là Nồi nguyên ngƣời làng Cảm Quyết, tỉnh Nghệ An đã thân chinh
đánh đuổi Chiêm Thành...” [7], do đó, nồi là một từ kiêng kị. Hoặc ở làng Vịa
(Thình Quang - Gia Lâm - Hà Nội) thờ ông Lí Bí và Lí Chiêu Hoàng, vì vậy bí
trong quả bí là kiêng kị, và phải nói tránh là quả bầu.
Trong phạm vi gia đình, do truyền thống văn hóa, con cái có thể kiêng gọi
tên thật ông bà tổ tiên, những ngƣời đã mất hoặc những ngƣời có vai trò trong
dòng tộc nên nếu ai sử dụng những từ đó phải sẽ phạm tội hỗn láo [11]. Do đó,
trong cuộc sống hàng ngày gặp phải những tên giống với tên của ông bà tổ tiên,
đặc biệt tên của những ngƣời đã khuất, thì phải tìm cách đọc tránh đi, nhằm tránh
phạm vào sự linh thiêng của các linh hồn, chẳng hạn: không đƣợc nói Hà Đông,
mà nói Hà Đƣơng, không nói thịt đông mà nói thịt đặc, hồng gọi tránh là hƣờng,
hoa gọi là huê, xuân gọi là xoan, bƣởi gọi là bòng [15].
Ngoài ra, có khá nhiều công trình nghiên cứu về những từ ngữ chỉ điều

không ai mong muốn, đó là những từ ngữ liên quan đến sự đau khổ, bệnh tật,

5


thƣơng vong, và về sự khiếm khuyết của cơ thể cũng nhƣ tinh thần. Để tránh sự
gian nan, vất vả, ngƣời Trung Quốc kị nói từ khổ qua, để tránh bị bệnh tật, họ kị
nói uống thuốc [14].
Nghiên cứu TNKK theo hƣớng miêu tả từ vựng truyền thống nhƣ vậy mới
chỉ cung cấp cho ngƣời đọc một hệ thống các từ bị cấm/hạn chế sử dụng trong
giao tiếp của một cộng đồng nào đó chứ chƣa làm rõ đƣợc lí do tồn tại cũng nhƣ
vai trò, giá trị và tác động của nó trong mối liên hệ với các nhân tố xã hội trong
cộng đồng. Nghiên cứu TNKK nhìn từ góc độ ngôn ngữ học xã hội sẽ chỉ ra
đƣợc những đặc trƣng ngôn ngữ học xã hội của các TNKK, góp phần làm rõ giá
trị văn hóa và xã hội của chúng, từ đó có thể tìm thấy những đƣờng hƣớng ứng xử
thỏa đáng đối với việc sử dụng lớp từ này trong một cộng đồng ngôn ngữ cụ thể.
2.2. Nghiên cứu từ ngữ kiêng kị theo quan điểm ngôn ngữ học xã hội
Điểm khác biệt của xu hƣớng nghiên cứu TNKK theo quan điểm ngôn
ngữ học xã hội là nghiên cứu TNKK trong “hành chức”, tức là trong mối liên hệ
với các biến của ngôn ngữ học xã hội nhƣ tuổi, giới, nghề nghiệp, học vấn, giai
tầng, và hoàn cảnh giao tiếp, v.v... Do đó Labov (1972) [73] nhấn mạnh rằng
ngôn ngữ học xã hội là mang tính thực tế xã hội và ngữ liệu nghiên cứu phải là
ngôn ngữ trong đời sống thực tế giao tiếp. Với các mục đích nghiên cứu khác
nhau, và nhiều cách tiếp cận tƣ liệu khác nhau, nghiên cứu về TNKK theo quan
điểm ngôn ngữ học xã hội đã có thành tựu đáng kể.
Tùy theo mục đích nghiên cứu mà các tác giả công trình sử dụng những
phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau. Nhìn chung, bảng hỏi là một công cụ chính
và phƣơng pháp điều tra bảng hỏi là một trong những phƣơng pháp đƣợc nhiều
nhà nghiên cứu sử dụng để thu thập tƣ liệu (Hughes 1992 [57]; Veronica 1997
[115]; Tsang 2005 [112]; Bakhtiar 2011 [28]).

Coi TNKK là một hiện tƣợng trong ngôn ngữ học xã hội, Hongxu và các
cộng sự (1990) [55] đã thâm nhập vào một cộng đồng nhỏ ở Trung Quốc, và
phát hiện ra rằng TNKK là một hiện tƣợng ngôn ngữ, văn hóa, xã hội có quan hệ
với mê tín, tập tục, và quyền lực phân cấp. Họ đã thảo luận những ảnh hƣởng

6


của các yếu tố văn hóa - xã hội đến sự hình thành và phát triển của TNKK.
Hongxu và các cộng sự đề xuất cách phân loại, cho rằng kiêng kị rơi vào hai
nhóm: ngôn ngữ vĩ mô và ngôn ngữ vi mô. Nhóm đầu tiên, tất cả các từ đƣợc
hầu hết mọi ngƣời hội thoại trong cộng đồng coi là đáng ghê tởm và tục tĩu nhƣ
tình dục và chết chóc. Với nhóm TNKK vi mô, những từ nhất định đƣợc cảm
nhận là kiêng kị trong mối quan hệ với ngữ cảnh cụ thể. Họ đề xuất một cách
phân loại cho TNKK, bao gồm "ngữ cảnh vĩ mô" (tức là các yếu tố xã hội) và
"ngữ cảnh vi mô", bao gồm các yếu tố mang tính tình huống nhƣ hình thức và
ngƣời đối thoại.
Jay (1992) nhận ra “ngôn ngữ bẩn” (dirty language) “đang dần dần đƣợc
chấp nhận rộng rãi đối với công chúng Mĩ” [62]. Đây là lí do khiến ông tiến
hành nghiên cứu “ngôn ngữ bẩn” ở tòa án, phim ảnh, sân trƣờng và trên đƣờng
phố ở Mĩ. Cuốn sách của ông là công trình đầu tiền khảo sát lời chửi rủa của
ngƣời Mĩ một cách sâu rộng từ khía cạnh ngôn ngữ học tâm lí - ngữ cảnh
(psycholinguistic - contextual). Rất nhiều những nghiên cứu thực địa và thí
nghiệm trong phòng thực nghiệm tập trung khảo sát mối liên hệ giữa lời chửi rủa
và sự thụ đắc ngôn ngữ, giới, sự thô lỗ, v.v... Tất cả các từ ngữ khiêu dâm, quấy
rối tình dục, nói điện thoại tục tĩu, và chửi rủa ở trƣờng học đều đƣợc phân tích
và liên hệ với dữ liệu ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ học tâm lí. Tần số xuất
hiện, mức độ thô lỗ của từ ngữ, giới, tuổi của ngƣời nói cũng đƣợc khảo sát.
Nghiên cứu đã chỉ ra những lời chửi rủa đƣợc sử dụng trong những hoàn cảnh
giao tiếp đặc biệt trong cuộc sống, và cũng chỉ ra nó đã ảnh hƣởng đến ngƣời nói

cũng nhƣ ngƣời nghe.
Tìm hiểu các biến giới, tuổi và giai tầng ảnh hƣởng đến cách sử dụng
TNKK, dựa vào ngôn ngữ học khối liệu để nghiên cứu TNKK của thanh thiếu
niên Anh, Stenström (1995) [100] đã đƣa ra kết luận: không có sự khác biệt giới
trong lựa chọn TNKK và tần số sử dụng TNKK của nhóm tuổi này, các bé gái sử
dụng TNKK thƣờng xuyên nhƣ các bé trai, các bé gái sử dụng những TNKK
mạnh nhƣ các bé trai, các bé gái và các bé trai sử dụng TNKK đều cùng mục

7


đích. Tuy nhiên, khi đi vào khảo sát từng từ cụ thể thì tƣ liệu cho thấy từ fuck là
từ kiêng kị phổ biến nhất đƣợc các bé gái tuổi thanh thiếu niên lựa chọn sử dụng.
Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa các thế hệ sử dụng ngôn ngữ, chẳng hạn thanh
thiếu niên sử dụng TNKK nhiều hơn ngƣời lớn và trẻ nhỏ, đặc điểm này là do
cách thanh thiếu niên thiết lập đặc điểm nhóm, kết quả này giống với nhận định
của Holmes (2001) [54].
Điều tra thái độ của một nhóm ngƣời về việc sử dụng chửi thề và ngôn ngữ
kiêng kị, Veronica (1997) [115] đã phát hiện ra mối quan hệ chặt chẽ giữa giới và
tuổi của ngƣời sử dụng ngôn ngữ chửi thề và ngôn ngữ kiêng kị. Tác giả nhận định
không có mối tƣơng quan nào giữa trình độ học vấn và việc sử dụng TNKK.
Từ khía cạnh giới và nghề nghiệp, Tsang (2005) [112] tiến hành nghiên
cứu, điều tra về thái độ sử dụng TNKK của những ngƣời nói tiếng Anh và tiếng
Quảng Đông nhằm tìm ra sự khác biệt về văn hóa trong việc sử dụng ngôn ngữ
kiêng kị, v.v... Phát hiện của tác giả cho thấy những ngƣời nói tiếng Anh thƣờng
bị ảnh hƣởng sâu sắc của văn hóa phƣơng Tây, đó là niềm tin về tôn giáo nên họ
hạn chế sử dụng những từ kiêng kị về tôn giáo; trong khi đó những ngƣời nói
tiếng Quảng Đông ở Hồng Kông do bị ảnh hƣởng cả văn hóa và niềm tin tôn
giáo phƣơng Tây và phƣơng Đông nên họ ít sử dụng những TNKK mang tính mê
tín nhƣ chết và quan tài. Đối với những ngƣời nói tiếng Quảng Đông, nam giới

nói ngôn ngữ thô lỗ dễ dàng đƣợc chấp nhận hơn nữ giới, còn nữ giới – từ khi có
sự mở cửa của xã hội – đã sử dụng TNKK nhiều hơn so với trong quá khứ.
Để tìm sự tƣơng đồng và khác biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ kiêng kị
của nam giới và nữ giới, Gao (2008) [50] dựa trên tƣ liệu hội thoại của nam giới
và nữ giới trong nhóm cùng giới và lẫn giới qua hàng loạt các tập phim Sex and
the City, chiếu từ năm 1998 đến năm 2004, qua kênh HBO của Mĩ. Phát hiện của
nghiên cứu này là cả nam giới và nữ giới đều sử dụng ngôn ngữ kiêng kị nhiều
hơn trong hoàn cảnh giao tiếp cùng giới; trong khi đó nam sử dụng nhiều TNKK
hơn nữ trong nhóm hội thoại lẫn giới. Kết quả này không đồng thuận với phát
hiện của Coates (2004) [38] rằng cả nam và nữ đều điều chỉnh hành vi lời nói

8


của mình để phù hợp với giới còn lại. Sự khác biệt giới còn thể hiện ra trong việc
sử dụng những loại TNKK khác nhau, nữ giới sử dụng những từ ngữ lăng mạ
thƣờng xuyên, trong khi đó thì nam giới lại sử dụng những từ ngữ khiêu dâm.
Bằng phƣơng pháp phân tích hội thoại, Teguh (2008) [105] đã khảo sát
cách sử dụng TNKK và uyển ngữ sử dụng trong các ngữ cảnh khác nhau của bộ
phim Ali G Film (đạo diễn Mark Mlyod). Để có đƣợc tƣ liệu tin cậy, tác giả đã
nghe lại lời thoại của tất cả những phát ngôn mà có sử dụng TNKK và uyển ngữ,
sau đó nhận diện và phân loại. Kết quả nghiên cứu là có 3 loại TNKK đƣợc sử
dụng là kiêng kị thô tục, khiêu dâm và thông tục, có 4 loại uyển ngữ: uyển ngữ
về sự chết chóc, về sự xúc phạm, về tôn giáo và tình dục. Đi tìm các biến thể
ngôn ngữ học xã hội của từ fuck trong tiếng Anh Ailen từ khía cạnh tuổi và giới,
dựa vào kho ngữ liệu, Murphy (2009) [86] nhận thấy trong hội thoại hàng ngày,
fuck là từ xuất hiện với tần số cao, và đặc biệt xuất hiện nhiều trong nhóm nam
giới độ tuổi 20. Biến thể fucking, dạng thay đổi cảm xúc mạnh, là mục từ có tần
số cao trong giao tiếp nhóm nam giới lứa tuổi 20 và 40. Sự tăng mạnh về cảm
xúc khi sử dụng biến thể fucking là do đặc tính giao tiếp của đàn ông. Trong một

nghiên cứu tƣơng tự khác của Murphy (2010) [87] khi tác giả khảo sát cách sử
dụng TNKK tình dục ở nhóm phụ nữ tuổi 20, kết quả cũng cho thấy fuck là từ
kiêng kị tình dục phổ biến nhất và xuất hiện với tần số cao nhất.
Với mục đích phân tích, tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt khi sử dụng
ngôn ngữ kiêng kị trong hội thoại của nhóm nữ giới, nhóm nam giới và nhóm lẫn
giới của những ngƣời nói tiếng Anh ở phòng “chat”, Ningjue (2010) [91] đã thu
thập 3 cuộc hội thoại trong trang mạng Palace. Đây là trang mạng của ngƣời Mĩ
bản ngữ, gồm nhiều phòng “chat” với những chủ đề chát khác nhau, những
ngƣời tham gia “chat” là những ngƣời nói tiếng Anh từ khắp nơi trên thế giới, họ
có bí danh và ảnh để biết đó là nam hay nữ. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả nam
giới và nữ giới đều sử dụng TNKK theo cách khác nhau. Cụ thể, trong hội thoại
lẫn giới nam sử dụng nhiều TNKK hơn nữ, nam có vốn từ vựng về TNKK nhiều
hơn nữ; nam thích sử dụng những TNKK đại diện cho nam giới; cả nam và nữ

9


đều sử dụng những loại TNKK khác nhau; nữ thƣờng sử dụng những từ ngữ thô
tục và không sử dụng những từ quấy rối tình dục; trong khi đó nam lại sử dụng tất
cả những TNKK, trong đó sử dụng từ ngữ khiêu dâm là chủ yếu; nam ít sử dụng
TNKK trong hội thoại cùng giới; trong khi đó cả nam và nữ đều sử dụng TNKK
giống nhau trong hội thoại cùng giới.
Từ góc độ tuổi, giới, và mức độ trang trọng của tình huống giao tiếp,
Bakhtiar (2011) [28] cũng sử dụng bảng hỏi để điều tra mức độ kiêng kị của
những từ ngữ thuộc chủ đề đĩ điếm trong ngôn ngữ Ba Tƣ. Hai nhân tố xã hội là
tình huống giao tiếp và giới đƣợc đƣa vào khảo sát. Cuộc điều tra đƣợc tiến hành
ở 30 sinh viên đại học Iran (15 nữ và 15 nam) có tuổi từ 20 đến 30 tuổi, kết quả
là cả sinh viên nam và sinh viên nữ đều cho rằng trong tình huống giao tiếp trang
trọng thì TNKK có mức độ thô lỗ cao hơn tình huống giao tiếp phi trang trọng.
Trong tình huống giao tiếp trang trọng cả sinh viên nam và sinh viên nữ đều cho

rằng không đƣợc phép nói ra TNKK; và lối nói vòng vo là phƣơng tiện hữu ích
nhất đề nói về chủ đề kiêng kị trong ngữ cảnh trang trọng. Đồng tình với quan
điểm của sinh viên nam, sinh viên nữ khẳng định trong tình huống giao tiếp phi
trang trọng, TNKK là những từ thô lỗ hơn.
Sử dụng cách tiếp cận “lịch sự” của Brown và Levinson (1978, 1987) làm
cơ sở cho việc phân tích những kiêng kị ngôn ngữ trong xã hội Yemen, Qanbar
(2011) [93] đã khảo sát các nhóm TNKK trong các nhóm xã hội khác nhau, và
thảo luận những yếu tố tác động đến việc biểu đạt những từ ngữ gọi là kiêng kị ở
các nhóm xã hội đó, trên cơ sở đó đƣa ra các nhóm từ thay thế dễ chấp nhận hơn
nhóm kiêng kị ngôn ngữ nhƣ: uyển ngữ, từ trái nghĩa, ẩn dụ, v.v... Tác giả cho
rằng, trong xã hội Yemen mức độ kiêng kị của những TNKK bị ảnh hƣởng bởi
nhiều yếu tố khác nhau, một từ gọi là kiêng kị có ảnh hƣởng khác nhau đến
những nhóm ngƣời hội thoại khác nhau. Những từ này có thể gây sửng sốt cho
một cá nhân hay một nhóm ngƣời hội thoại này, nhƣng lại không gây sửng sốt
đối với một nhóm khác. Thời gian tồn tại cũng có vai trò nhất định, chẳng hạn

10


một số từ là húy kị trong quá khứ, nhƣng trải qua một giai đoạn thì tính kiêng kị
đã bị loại bỏ, ví dụ, vợ nói đến tên chồng không còn là kiêng kị nhƣ trƣớc đây.
Bản chất của từ đƣợc sử dụng cũng xác định mức độ kiêng kị, ví dụ nhƣ bộ phận
sinh dục của nữ giới thƣờng bị coi là kiêng kị hơn so với của nam giới; các yếu
tố giáo dục, giới, bối cảnh nhân khẩu học cũng có ảnh hƣởng nhất định đến việc
sử dụng TNKK; tuy nhiên những vấn đề này mới chỉ đƣợc tác giả đặt ra nhƣ là
giả thuyết cho những nghiên cứu trong tƣơng lai. Chẳng hạn: những ngƣời có
học có vẻ sử dụng TNKK ít hơn những ngƣời không có học, đàn ông sử dụng
TNKK sẽ đƣợc xã hội dễ chấp nhận hơn phụ nữ, ngƣời nông thôn dƣờng nhƣ sử
dụng TNKK liên quan tới tình dục và chức năng cơ thể nơi công cộng thƣờng
xuyên hơn ngƣời thành phố vì họ đƣợc nuôi lớn trong cộng đồng nông nghiệp

nơi có nhiều cơ hội để quan sát hành vi tình dục của động vật.
Tuy nhiên, kho dữ liệu dựa trên cách tiếp cận vào các dạng thức ngôn ngữ
kiêng kị xuất hiện trong các hoàn cảnh giao tiếp phổ biến đã cung cấp một bức
tranh về các dạng thức và các chức năng xã hội của TNKK (Stenström 1991,
2006 [99] [101]; McEnery và Xiao 2004 [80]; Murphy 2009, 2010 [86] [87]), vì
nó cho phép nhìn vào ngữ cảnh của cộng đồng giao tiếp, và ảnh hƣởng của ngữ
cảnh vào thái độ của ngƣời nói (Jay 2000) [64]. Xuất phát từ giao tiếp hội thoại qua
phim ảnh (Teguh 2008 [105]; Ningjue 2010 [91]) cho thấy những đặc trƣng của
giới, của tuổi; tuy nhiên những đoạn hội thoại trong phim lại là những đoạn hội
thoại đã qua biên soạn nên lời nói không tự nhiên nhƣ ghi âm giao tiếp hàng ngày.
Có thể nói rằng, thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu đã cung cấp một
khối lƣợng lớn công trình nghiên cứu về TNKK ở ngƣời lớn, nhƣng đúng nhƣ
Jay (2009) [69] nhận định: rất ít công trình về TNKK ở trẻ em đang sinh sống tại
các cộng đồng ngôn ngữ văn hóa khác nhau trên thế giới. LA này là một ví dụ
đặc thù nông thôn miền Bắc Việt Nam cho hiểu biết chung về sự sử dụng TNKK
của trẻ dƣới góc nhìn của ngôn ngữ học xã hội.

11


3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của LA là đặc trƣng ngôn ngữ học xã hội của từ
ngữ kiêng kị trong tiếng Việt, trên cứ liệu giao tiếp ngôn ngữ tự nhiên của trẻ em
ở làng Hoài Thị, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Đây là tƣ liệu ghi
âm thuộc Dự án “Tiến trình phát triển ngôn ngữ trong bối cảnh văn hóa - xã hội
ở Hoài Thị năm 2001 - 2002”. Dự án này là một công trình hợp tác giữa Trƣờng
Đại học Toronto - Canada (thông qua GS. Lƣơng Văn Hy) và Viện Ngôn ngữ
học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Với tƣ cách là một thành viên chính thức
của Dự án nói trên, tôi đƣợc phép sử dụng tƣ liệu của Dự án cho các nghiên cứu

của mình. Cho đến nay, ngoài tác giả của LA, chƣa có ai khai thác mảng tƣ liệu
về sự sử dụng từ ngữ kiêng kị của Dự án này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đặc trƣng ngôn ngữ học xã hội của TNKK trong tiếng Việt là
một vấn đề lớn, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và tài lực, do đó trong khuôn
khổ của một LA, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu sự sử dụng TNKK của
một nhóm trẻ em ở một cộng đồng nông thôn miền Bắc Việt Nam1. Việc khảo
sát sự sử dụng TNKK ở ngƣời lớn xung quanh nhóm trẻ chỉ là hỗ trợ cho việc lí
giải quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ em ở cộng đồng Hoài Thị. Với thực tế
này, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu là những TNKK xuất hiện trong
giao tiếp tự nhiên của trẻ em (phần chọn mẫu sẽ đƣợc đề cập ở mục 5.1. dƣới

1

Chúng tôi không thể nghiên cứu những đặc trƣng ngôn ngữ học xã hội về TNKK ở một

diện rộng vì chi phí cho điều tra xã hội học rất tốn kém. Ví dụ, chỉ tính riêng kinh phí chi cho
việc ghi âm ngôn ngữ tự nhiên của trẻ em ở Hoài Thị, thuộc dự án “Tiến trình phát triển
ngôn ngữ trong bối cảnh văn hóa - xã hội ở Hoài Thị năm 2001-2002” cũng đã tốn tiền tỉ.

12


đây) ở cộng đồng Hoài Thị, trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2001 đến
tháng 6 năm 2002, với thời lƣợng ghi âm là 39 giờ, tƣơng đƣơng với 3600 trang
A4 ghỡ băng.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1 Mục đích nghiên cứu
Xem xét đặc trƣng ngôn ngữ học xã hội của TNKK trong tiếng Việt,
trƣờng hợp giao tiếp ngôn ngữ trẻ em ở Hoài Thị, một mặt LA muốn làm rõ sự

ảnh hƣởng của các biến xã hội nhƣ: tuổi, giới, và tình huống giao tiếp đến việc
sử dụng TNKK, góp phần làm sáng tỏ lí thuyết của ngôn ngữ học xã hội về sự
ảnh hƣởng của các yếu tố xã hội đến ngôn ngữ ở Việt Nam; mặt khác là để tìm
hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ em (thông qua khảo sát sự sử dụng
TNKK cũng nhƣ thái độ, phản ứng của ngƣời lớn xung quanh nhóm trẻ), từ đó
khẳng định vai trò của ngƣời lớn đối với việc xã hội hóa ngôn ngữ trẻ em ở
cộng đồng Hoài Thị.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu của LA, chúng tôi đƣa ra một số nhiệm vụ cơ
bản sau:
(i) Hệ thống hóa những nghiên cứu về TNKK từ quan điểm nghiên cứu từ
vựng truyền thống và quan điểm ngôn ngữ học xã hội.
(ii) Hệ thống hóa lí thuyết về ngôn ngữ học xã hội: biến ngôn ngữ, biến xã
hội và mối quan hệ giữa biến ngôn ngữ và biến xã hội.
(iii) Nghiên cứu trƣờng hợp về sự sử dụng TNKK của trẻ em thuộc một cộng
đồng ở nông thôn miền Bắc Việt Nam:
+ Miêu tả tình hình sử dụng TNKK của ngƣời dân ở Hoài Thị nói
chung giai đoạn 2001-2002.

13


+ Miêu tả và lí giải những yếu tố xã hội nhƣ: tuổi, giới và tình huống
giao tiếp ảnh hƣởng đến sự sử dụng TNKK của trẻ em ở Hoài Thị.
+ So sánh sự sử dụng TNKK của trẻ em với sự sử dụng TNKK của
ngƣời lớn.
+ Khảo sát phản ứng/thái độ của ngƣời lớn trƣớc việc sử dụng TNKK
của trẻ em để từ đó thấy đƣợc cách ứng xử và giáo dục ngôn ngữ của
ngƣời lớn đối với trẻ em ở cộng đồng Hoài Thị.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Do tính chất đặc thù của nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, nên việc thu
thập và xử lí số liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng.
5.1. Phƣơng pháp thu thập tƣ liệu
Chọn mẫu là một trong những khâu đầu tiên trong quá trình thu thập tƣ
liệu đƣợc chủ nhiệm của Dự án2 thực hiện trƣớc khi những ngƣời đi thực địa3
tiến hành ghi âm. Các hộ gia đình trong diện điều tra cũng đã đƣợc cân nhắc kĩ
nhằm đảm bảo tính đại diện về giới, tuổi, giai tầng, v.v... Số lƣợng mẫu nhƣ sau:
Giới
Tuổi
Mẫu giáo (từ 1995-1998)
Tiểu học (từ 1991-1994)
Tổng

Bé gái

Tổng

10
4

4
8

14
12

14

12


26

Bé trai

Để đảm bảo độ tin cậy của tƣ liệu, trong quá trình ghi âm ngôn ngữ tự
nhiên của ngƣời dân ở Hoài Thị, chúng tôi đã sử dụng các kĩ năng bổ sung, hỗ trợ
trong nghiên cứu điền dã dân tộc học nhƣ quan sát, quan sát tham dự, và ghi chép.

2

“Tiến trình phát triển ngôn ngữ trong bối cảnh văn hóa - xã hội ở Hoài Thị năm 20012002”, của Trƣờng Đại học Toronto - Canada, thông qua GS. Lƣơng Văn Hy, hợp tác với
Viện Ngôn ngữ học – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
3
Tôi là một trong những ngƣời đi thực địa để ghi âm ngôn ngữ giao tiếp tự nhiên của trẻ
thuộc Dự án “Tiến trình phát triển ngôn ngữ trong bối cảnh văn hóa - xã hội ở Hoài Thị
năm 2001-2002”.

14


Ghi âm đƣợc chúng tôi thực hiện theo cách mà những ngƣời tham gia giao
tiếp không còn cảm thấy nhƣ mình đang bị quan sát để quá trình giao tiếp diễn ra
một cách tự nhiên. Nghĩa là chúng tôi đã phải cố gắng thâm nhập thực sự vào
cuộc sống của các bé nhƣ đến lớp học cùng các bé, hay đi chơi, ăn cơm, thậm chí
ngủ cùng các bé để các bé cảm thấy an toàn và coi chúng tôi là những ngƣời thân
thiết, từ đó các bé không còn cảm thấy ngại ngùng, e dè khi giao tiếp.
Quan sát là kĩ năng đƣợc chúng tôi sử dụng trong suốt quá trình ghi âm tại
địa bàn nghiên cứu. Việc tiến hành quan sát giúp chúng tôi nắm đƣợc các cách
giao tiếp cũng nhƣ ứng xử ngôn từ của những ngƣời dân trong cộng đồng, giữa
các thành viên trong gia đình, quan sát cách sinh hoạt của cộng đồng, v.v… từ

đó có thể hiểu thêm phần nào về ngôn ngữ - văn hóa của ngƣời dân nơi đây.
Quan sát tham dự đƣợc chúng tôi thực hiện khi tham dự các lễ hội làng,
đám cƣới, đám tang và một số hoạt động sản xuất nông nghiệp của ngƣời dân.
Tham dự vào sự kiện văn hóa của địa phƣơng và của các gia đình tại địa bàn
nghiên cứu đã giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về cách ứng xử ngôn ngữ của cộng
đồng Hoài Thị.
5.2. Phƣơng pháp xử lí tƣ liệu
Tƣ liệu ghi âm ngôn ngữ tự nhiên đƣợc chúng tôi ghi âm trong vòng 2
năm, từ tháng 4 năm 2001 đến tháng 6 năm 2002. Cứ 4 tháng, những ngƣời đi
ghi âm lại có nhiệm vụ quay trở lại hộ gia đình để ghi âm một lần, trong 2 năm
mỗi hộ có trung bình 4 lần thu âm, mỗi lần 45 phút (4 lần x 45 phút = 180 phút),
tƣơng đƣơng với 3 giờ thu âm. Nhƣ vậy, tổng thời lƣợng ghi âm 13 hộ gia đình
là 2.340 phút (13hộ x 180phút/hộ), tƣơng đƣơng với 39 giờ ghi âm.
Với thời lƣợng 39 giờ ghi âm giao tiếp tự nhiên của các bé trong diện điều
tra đƣợc những ngƣời tham gia ghi âm giải băng thành 3.600 trang khổ A4. Dựa
trên bản giải băng của Dự án, LA đã chọn ra các TNKK theo tiêu chí đƣa ra ở
phần quan niệm TNKK (chƣơng 1, mục 1.2.3.).

15


×