Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TL ĐCT và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.96 KB, 13 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đảng chính trị được coi là thành tố đóng vai trò trung tâm cả về lý thuyết
và thực tiễn của các nền dân chủ hiện đại, tạo ra sự kết nối quan trọng giữa
người dân và các nhà chính trị , những người thực thi các nhiệm vụ của nhà
nước.
Bản thân em hiện đang công tác ở Văn phòng cấp ủy cấp huyện, do đó
có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề các Đảng chính trị. Do đó, nghiên cứu tiểu
luận, em chọn đề tài “Đảng chính trị và những vấn đề đang đặt ra đối với các
Đảng chính trị”.
Rất mong được sự xem xét, đóng góp ý kiến của quý thầy cô nhằm giúp
cho bản thân thấy rõ hơn về vấn đề lựa chọn của mình, góp phần nâng cao nhận
thức của bản thân đối với vấn đề về Đảng chính trị hiện nay.

1


NỘI DUNG
1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm đảng chính trị
Đảng chính trị là tổ chức chính trị đại diện của một giai cấp (một lực
lượng xã hội), gồm những người có cùng chính kiến, tự nguyện tham gia nhằm
giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước theo mục tiêu chính trị của đảng.
1.2. Sự hình thành và nguyên nhân ra đời các chính đảng
Việc ra đời của các đảng chính trị gắn liền với sự phát triển, biến đổi cơ
cấu kinh tế - xã hội giai cấp. Mỗi một đảng chính trị thường đại diện cho một
lực lượng xã hội nhất định. Sự tồn tại của các đảng tạo nên nét đặc trưng của cơ
cấu xã hội chính trị của hệ thống chính trị.
Hiện nay có nhiều cách lý giải nguyên nhân ra đời các chính đảng. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác: sự ra đời các đảng chính trị xuất phát từ 2 tiền
đề: Sự tồn tại chế độ tư hữu là nguyên nhân kinh tế, khách quan dẫn đến giai cấp
và đấu tranh giai cấp; và sự trưởng thành của giai cấp phải đến một trình độ tự


giác cao (tính tự giác, tính tập trung và tính kỷ luật).
1.3. Đặc điểm của đảng chính trị: Là tổ chức chính trị đại diện: đại diện
cho lợi ích của một nhóm, tầng lớp, giai cấp mà nó đại diện. Lợi ích của đảng
gắn liền với lợi ích giai cấp.
- Mục tiêu của đảng: Trước hết là giành quyền lực nhà nước, hướng tới
cầm quyền và sử dụng quyền lực đó để hiện thực hóa các mục tiêu của đảng, lợi
ích giai cấp mà nó đại diện.
- Có tổ chức chặt chẽ, hoạt động liên tục, không hoàn toàn lệ thuộc vào
một lãnh tụ.
- Trong xã hội dân chủ, đảng chính trị phải là đảng hợp pháp, hoạt động
2


trong khuôn khổ của pháp luật và được hưởng những quyền lợi theo luật định.
1.4. Chức năng của đảng chính trị
Thứ nhất, kết nối và biểu đạt lợi ích, nhu cầu của người dân. Một đảng
chính trị muốn duy trì sự tồn tại và thu hút được sự ủng hộ của cử tri phải đại
diện cho lợi ích của các tầng lớp, nhóm cử tri nhất định trong xã hội. Nói cách
khác, đảng phải chuyển nguyện vọng của một nhóm, của một đảng thành ý chí
chung, ý chí xã hội.
Thứ hai, đường dẫn cho sự ảnh hưởng đến chính quyền, chuyển các
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp mà nó đại diện đến các trung tâm quyền lực.
Đảng chính trị là một cầu nối, trung gian giữa cử tri, người dân với nhà nước,
kênh chuyển tải các kiến, nguyện vọng, lợi ích của cử tri, các nhóm lợi ích, các
tổ chức chính trị xã hội đến cơ quan lập pháp thông qua tiếng nói của các nghị sĩ
của đảng hoặc tới hành pháp nếu là đảng cầm quyền.
Thứ ba, chức năng thông tin, giáo dục: đảng chính trị thông qua các hoạt
động của mình đã cung cấp thông tin, tri thức cho cử tri và xã hội về các vấn đề
của đời sống chính trị, thông qua đó nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của công
chúng về các vấn đề chính trị cũng như hiệu quả hoạt động của hệ thống chính

trị.
Thư tư: đảng chính trị huy động, lôi kéo sự tham gia của người dân vào
đời sống chính trị. Thông qua các phong trào và hoạt động, đảng chính trị luôn
đóng vai trò là người vận động, thuyết phục cử tri, người dân tham gia vào đời
sống chính trị, ủng hộ đường lối, mục tiêu chính sách của đảng.
Thứ năm, đảng chính trị tuyển chọn, đào tạo và cung cấp nguồn nhân sự
cho các vị trí của cơ quan công quyền. Các đảng chính trị muốn trở thành một
đảng mạnh, có thể thắng cử để giành được các vị trí công quyền đều phải có khả
năng tập hợp, thu hút, tuyển lựa những người tài giỏi trong xã hội vào đảng của

3


mình.
Thứ sáu, đảng chính trị hoạch định chính sách quốc gia. Khi thắng cử và
trở thành đảng cầm quyền, đảng chính trị là chủ thể chính thức hoạch định chính
sách quốc gia. Các đảng chính trị ở vị trí là đảng đối lập tham gia vào quá trình
hoạch định chính sách quốc gia với tư cách là chủ thể kiềm chế, phản biện đối
với chính sách của đảng cầm quyền.
2. HỆ THỐNG ĐẢNG VÀ TỔ CHỨC ĐẢNG
2.1. Hệ thống đảng
Hệ thống đảng là khái niệm rộng hơn, nói về tổng số các đảng hiện diện
ở một quốc gia. Hệ thống đảng là mô hình về mâu thuẫn, cạnh tranh và hợp tác
dân chủ giữa các đảng trong phạm vi quốc gia.
Hệ thống đảng chính trị là mô hình tương tác giữa các đảng khác nhau
trong phạm vi một quốc gia. Nguồn gốc của hệ thống đảng xuất phát từ sự phát
triển của các xung đột chính trị và xã hội trong phạm vi một xã hội.
2.2. Tổ chức Đảng
Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi đảng (số lượng đảng viên, tôn chỉ,
mục đích), hệ thống bầu cử và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước mà các

đảng có hệ thống tổ chức khác nhau: Tổ chức theo mức độ tập trung quyền lực
và Tổ chức theo hình thức phân tán quyền lực
3. ĐẢNG CẦM QUYỀN
3.1. Quan niệm đảng cầm quyền
Cho tới nay có nhiều cách quan niệm, lý giải khác nhau về đảng cầm
quyền. Trong đó có thể kể đến một số quan niệm sau:
Thứ nhất, khái niệm đảng cầm quyền dùng để phân biệt đảng ở thời kỳ đã
nắm chính quyền với thời kỳ đảng đó chưa nắm chính quyền;

4


Thứ hai, đảng cầm quyền là khái niệm chỉ một đảng (hoặc liên minh các
đảng) nắm trong tay chính quyền (theo nghĩa rộng bao gồm cả ba nhánh lập
pháp, hành pháp, tư pháp);
Thứ ba, đảng cầm quyền (liên minh các đảng cầm quyền) là đảng (hoặc
liên minh đảng đó) nắm trong tay quyền hành pháp;
Thứ tư, đảng cầm quyền phải là đảng đa số trong nghị viện.
Các dấu hiệu của đảng cầm quyền:
- Đảng chiếm đa số trong quốc hội ở các nước theo mô hình nghị viện, do
đó đảng này chi phối quyền hành pháp.
- Đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt nhất của bộ máy hành pháp (các
nước cộng hoà - tổng thống).
- Trường hợp đặc biệt khác: đảng cầm quyền chính là đảng, tổ chức hay
lực lượng nắm trong tay quyền quyết định những chính sách quan trọng của
quốc gia.
Như vậy, có thể quan niệm đảng cầm quyền là đảng duy nhất (hay liên
minh một số đảng) nắm quyền đại diện ý chí chính trị chung trong xã hội, do đó,
đảng này (hay liên minh các đảng) nắm quyền chi phối hoạt động của bộ máy
chính quyền.

3.2. Phương thức cầm quyền của đảng
Để thực hiện những mục tiêu của đảng cầm quyền, đảng phải thực hiện
phương thức hay cách thức cầm quyền nhất định.
Phương thức cầm quyền là những hình thức, phương pháp, cách thức
đảng tác động vào nhà nước để hiện thực hóa ý chí, mục tiêu của đảng.
Trong thực tiễn, các đảng có những phương thức cầm quyền khác nhau,

5


tuy nhiên sẽ có những điểm khác biệt giữa phương thức cầm quyền ở các nước
tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa.
4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÁC ĐẢNG CHÍNH
TRỊ
4.1. Sự tác động của các yếu tố môi trường
- Sự thay đổi về kết cấu giai cấp trong xã hội : cấu trúc giai cấp trong
xã hội ngày nay đã thay đổi phức tạp hơn. Sự thay đổi dần về cấu trúc xã hội
ảnh hưởng đến sự ổn định về phân chia giai cấp và phá vỡ tính liên kết chính
trị.
- Sự chia tách phiếu của cử tri: Xu hướng các cử tri bỏ phiếu cho đảng đối
lập trong các cuộc bầu cử, thiên hướng các cử tri bỏ phiếu cho cùng một đảng bị
yếu đi. Các công dân ngày càng ý thức hơn về vai trò của cạnh tranh chính trị.
Do vậy ở Pháp hay Mỹ, có sự chia tách về phiếu bầu giữa các công dân. Nếu
trước đây, các công dân thường bỏ phiếu cho một đảng theo sự trung thành
đảng phái, thì ngày nay, họ có thể bỏ phiếu cho cả hai đảng (một đảng ở hạ viện
hoặc thượng viện và và một đảng nắm cơ quan hành pháp).
- Sự phát triển của phương tiện truyền thông, các tổ chức chính trị xã hội:
Sự thay đổi nhanh chóng về cấu trúc truyền thông chính trị là kết quả của đổi
mới công nghệ. Phương tiện truyền thông ngày càng đảm nhiệm nhiều hơn chức
năng thông tin, tuyên truyền. Chúng cũng tạo nên chương trình nghị sự, điểm ưu

tiên trong các chính sách của chính phủ. Thay đổi về cấu trúc truyền thông có
ảnh hưởng quan trọng đối với đảng. Thứ nhất sự suy giảm vai trò đảng kể của
các ấn phẩm xuất bản của đảng để huy động và duy trì sự ủng hộ chính trị. Thứ
hai sự quốc tế hóa phương tiện truyền thông điện tử có ảnh hưởng ngày càng lớn
làm giảm khả năng kiểm soát truyền thông chính trị của giới tinh hoa đảng quốc
gia. Thứ ba, các đảng cần phải thích ứng với công nghệ truyền thông mới và đưa
chúng vào tiến trình truyền thông quốc gia và quốc tế.
6


4.2. Những thách thức cơ bản
- Sự suy giảm số lượng đảng viên, tổ chức và hoạt động: Tình trạng phổ
biến ở các nước phát triển là các đảng chính trị đều có xu hướng suy giảm số
lượng đảng viên. Bên cạnh đó, tình trạng già hóa đảng tăng khi lực lượng thanh
niên hiện nay không muốn gia nhập đảng. Số lượng đảng viên giảm dẫn đến tổ
chức suy giảm do giảm sự cố kết và mật độ tổ chức phân tán. Điều này có nghĩa
rằng, ngày càng có ít người tham gia các hoạt động tình nguyện, vận động tranh cử
cho đảng trong thời gian bầu cử, huy động tài chính giúp đảng.
- Khó hình thành cương lĩnh, chương trình hành động: Do sự phân tách xã
hội thành nhiều cấu trúc, tầng lớp khác nhau về lợi ích; do sự chia tách và phát sinh
nhiều vấn đề của đời sống xã hội; do sự suy giảm hệ tư tưởng chính trị
- Khó giành được đa số phiếu bầu: do quy mô và phạm vi đại diện bị thu
hẹp; sự suy giảm ủng hộ của cử tri; sự chia tách phiếu bầu của cử tri.
- Mâu thuẫn giữa tập trung quyền lực và sự ủy nhiệm của số ít: Đây chính
là sự không tương xứng giữa việc nắm giữ quyền lực ngày càng lớn và sự ủy
nhiệm theo một tỉ lệ ngày càng nhỏ trong xã hội. Sự giảm sút phiếu bầu của
đảng toàn dân có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho xã hội.
4.3. Xu hướng thay đổi của các đảng
- Các đảng mở: mở rộng tính đại diện, thu hút các tầng lớp khác của xã hội:
Các đảng đều có xu hướng cải cách, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các tầng lớp

khác của xã hội, có xu hướng trở thành các đảng quần chúng. Sự thích ứng về mặt tổ
chức phản ánh sự cạnh tranh giữa các đảng phái với nhau.
- Khuynh hướng kỹ trị: cơ sở khoa học của chính sách; hành chính trung
lập. Tổ chức đảng có sự chuyên nghiệp trong hoạt động tranh cử; Các đảng tự
mình cũng phải thay đổi, chấp nhận các hình thức thể chế mới và phương thức mới;
Một số đảng sử dụng hệ tư tưởng và các chính sách danh tiếng của mình để cạnh

7


tranh trong các cuộc bầu cử (các đảng Anh). Mặc dù suy giảm về số lượng thành
viên nhưng thay vào đó, mức độ tranh luận của các ứng cử viên đảng trong cuộc
bầu cử được tăng cường hơn ở tất cả các cấp. Tính chuyên nghiệp còn thể hiện ở
sự tập trung vào nâng cao cơ sở khoa học của chính sách, tăng tính hiệu quả và
do đó tính chính đáng của đảng cầm quyền.
5. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG ĐỔI MỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
5.1. Một số vấn đề đặt ra
Hiện nay vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị và xã hội vẫn
được giữ vững, nhưng nhìn về thực chất có thể thấy rằng, vai trò đó không còn
được như thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Lòng tin của nhân dân
đối với Đảng tuy còn lớn, song nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc trong xã hội đang
làm suy giảm lòng tin đó. Điều này xuất phát từ về sự bất cập của một số chính
sách phát triển kinh tế - xã hội; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy
thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được ngăn chặn đẩy lùi đang là
những vấn đề đặt ra hiện nay, bởi chính những vấn đề đó đang ảnh hưởng rất lớn
đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Một khi niềm tin của nhân dân đối với
Đảng suy giảm thì đó chính là nguy cơ của một đảng cầm quyền.
Một vấn đề đặt ra hiện nay là công tác quản lý nội bộ của Đảng trong

điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh
tế thị trường. Trong điều kiện như vậy, Đảng không thể hoạt động như trước.
Số lượng đảng viên của Đảng hiện nay đông, hoạt động trong nhiều lĩnh vực,
đặt ra cho công tác quản lý nội bộ đảng cần phải có những đổi mới. Nhiều
vấn đề mới nảy sinh như điều kiện lao động tự do, các thành phần kinh tế tư
nhân, xuất khẩu lao động trong kinh tế thị trường đang đặt ra đối với đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng nói riêng và hoạt động của Đảng nói chung.

8


Sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể là sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền như thế nào cũng là một vấn đề
nổi cộm đặt ra hiện nay. Cụ thể là, mặc dù hiện nay bộ máy cầm quyền tuy đã
được đổi mới tinh gọn lại, nhưng nhiều ban của Đảng và các tổ chức trong bộ
máy nhà nước vẫn trùng lặp, có cùng công việc gần giống nhau, dẫn đến sự
chồng chéo về chức năng giữa Đảng và Nhà nước, tạo ra tình trạng "bao biện",
"làm thay" hay "buông lỏng" sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước mà hàng
chục năm qua chúng ta không thể khắc phục được. Trong khi đó ở các nước trên
thế giới, các đảng chính trị cũng thực hiện vai trò cầm quyền nhưng không thấy
có xảy ra các tình trạng này.
Ngoài ra, sự cầm quyền với hai chủ thể như ở nước ta còn tạo ra tình trạng
là các cơ quan của Đảng, như cấp ủy các cấp dường như đã trở thành các chủ thể
có chức năng chuyên về "lãnh đạo", có quyền "quyết định", còn các cơ quan của
Nhà nước, như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính các cấp như là
các chủ thể có chức năng chuyên về "quản lý", chỉ "chấp hành" một cách thụ
động đường lối, chính sách của Đảng đã vạch ra. Điều này đã dẫn đến chúng ta
có sự phân biệt "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý", khi mà ở các nước trên thế
giới, sự phân biệt như vậy cũng đã không diễn ra. Việc "không phân biệt giữa sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước tại các nước tư bản có lý do

chính là để tăng cường sự hợp pháp và sự chịu trách nhiệm của đảng cầm
quyền"1. Từ những bất cập nêu trên còn cho thấy, hiện nay Đảng ta dường như
đã đứng trên Nhà nước, "áp đặt" từ bên trên đối với Nhà nước trong vai trò cầm
quyền của mình. Hơn nữa, những bất cập nêu trên còn dẫn đến Nhà nước thường
có xu hướng bị trì trệ, trông chờ, ỷ lại; chế độ trách nhiệm của cả Đảng và Nhà
nước đều không xác định được rõ; diễn ra sự đùn đẩy, đổ lỗi trách nhiệm cho
nhau giữa Đảng và Nhà nước, giữa cấp ủy và chính quyền khi có những sai
phạm xảy ra trong quá trình thực hiện vai trò cầm quyền.
1

Nguyễn Đăng Dung, Vấn đề đảng cầm quyền và thẩm quyền quản lý nhà nước ở các nước tư bản, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp điện tử, ngày 02/11/2009.

9


5.2. Phương hướng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, rất cần thiết phải đổi mới mô hình Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện nay thành
mô hình Đảng cầm quyền với sự kết hợp giữa tính phổ biến của mô hình này và
những nét đặc thù ở Việt Nam.
Đổi mới mô hình Đảng lãnh đạo Nhà nước ở nước ta hiện nay thành mô
hình Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng phải “hóa thân” vào Nhà nước và cầm
quyền thông qua bộ máy nhà nước, không vận hành hệ thống quyền lực theo cơ
chế song trùng như hiện nay. Để Đảng “hóa thân” được vào Nhà nước theo đúng
nghĩa của nó, đòi hỏi đội ngũ đảng viên của Đảng phải thường xuyên được giáo
dục, rèn luyện nâng cao năng lực về chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý, có
phẩm chất đạo đức, uy tín cao để được nhân dân tín nhiệm, sẵn sàng có thể được
bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp.
Để thực hiện mô hình Đảng cầm quyền trong điều kiện có một Đảng duy

nhất đang cầm quyền và lãnh đạo như ở nước ta, cần phải thực hiện đồng bộ một
số yêu cầu mang tính giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục tăng cường nghiên cứu và tiến tới thực hiện việc
nhất thể hóa các chức danh người đứng đầu và một số tổ chức của Đảng, Nhà
nước mà Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X đã nêu ra.
Thứ hai, cần xúc tiến nghiên cứu, tiến tới nhất thể hóa thẩm quyền, trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi các chính sách về
các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu thực hiện nhất thể hóa sẽ
làm cho việc xây dựng và ban hành các quyết định, chính sách chỉ còn tập trung
ở một đầu mối, không chồng chéo chức năng, tiết kiệm được nhiều thời gian hội
họp, ban hành quyết định, chính sách nhanh và khoa học hơn bởi đã theo một
quy trình thống nhất và minh bạch, đồng thời xác định rõ được chế độ trách
10


nhiệm làm cho chất lượng của các quyết định, chính sách sẽ cao hơn, nâng cao
được năng lực cầm quyền của Đảng.
Thứ ba, cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực của bộ máy
cầm quyền trong hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu của việc "Đảng hóa thân
vào Nhà nước". Cơ chế kiểm soát quyền lực được hiểu như một hệ thống thể chế
có liên quan chặt chẽ các phương thức kiểm soát việc sử dụng quyền lực của các
chủ thể quyền lực mà người dân đã ủy quyền cho theo các hình thức nhất định.
Với nhận thức như vậy, thì chính việc thực hiện nhất thể hóa có thể được coi là
một trong các phương thức bảo đảm cho việc kiểm soát quyền lực một cách hiệu
quả đối với chủ thể cầm quyền ở nước ta.
Thứ tư, cần đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng khi "Đảng hóa thân vào
Nhà nước". Điều đó có nghĩa cần phải nhận thức lại cho đúng hơn khái niệm
"vai trò lãnh đạo của Đảng" hay khái niệm "Đảng lãnh đạo" trong xã hội hiện
nay để làm cơ sở cho việc giữ vững vai trò đó. Nói cách khác, muốn giữ vững

vai trò lãnh đạo của Đảng, không cách nào tốt hơn là phải nâng cao uy tín của
Đảng trong xã hội, tức là Đảng phải "có sức hấp dẫn lớn" như Hồ Chí Minh đã
từng nói, đồng thời nâng cao năng lực cầm quyền của mình thông qua các cán
bộ đảng viên thực hiện một cách hiệu quả sự lãnh đạo và quản lý trong bộ máy
nhà nước.

11


KẾT LUẬN
Tóm lại, các Đảng chính trị luôn phải đấu tranh trong những cuộc tranh
cử, bầu cử để có thể nắm được chính quyền và giữ được chính quyền. Đảng
chính trị là nhu cầu quan trọng và cần thiết cho chính thể dân chủ.
Các Đảng chính trị là thành phần không thể thiếu được cho sự vận hành
của các chính phủ hiện đại. Tầm quan trọng của các Đảng chính trị được chứng
minh rõ ràng nhất ở thực tế là nền dân chủ không thể hoạt động mà không có sự
tồn tại của các Đảng chính trị.
Đối với Đảng cộng sản Việt Nam, vấn đề xây dựng Đảng được xác định là
nhiệm vụ then chốt. Điển hình là tại Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XII), Đảng ta
đã ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đầy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nếu quyết tâm thực hiện tốt các giải pháp nêu trong Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII), tôi tin chắc Đảng ta sẽ vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị,
tổ chức và đạo đức, lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cặp bến bờ Xã hội
chủ nghĩa./.

12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chính trị học: Tập bài
giảng dành cho Cao học Chính trị học.
2. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
3. Trần Thị Hoài Trân, Lực lượng chính trị, Quyển 1, Chính đảng, một
căn bản khảo cứu xã hội chính trị học, Sài Gòn 1972.
4. Nguyễn Đăng Dung, Vấn đề đảng cầm quyền và thẩm quyền quản lý
nhà nước ở các nước tư bản, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, ngày
02/11/2009.

13



×