Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Vận dụng Tư tương Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.8 KB, 18 trang )

Mục lục
trang
I PHẦN MỞ ĐẦU
…………………………………………………………………………….2
II NỘI DUNG
1)Tư tương Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề
dân tộc
1.1)Cơ sở lý luận
a)Mối quan hệ giữa vấn để giai cấp và dân tộc trong chủ nghĩa MacLênin……………………………………………………………………...3
b)Cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh………………………….3
1.2)Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và dân
tộc
a)Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp……………………………… 4
b)Độc lập,tư do là quyên thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân
tộc…………………………………………………………………………5
c)Giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng giai cấp……………….7
d)Kết hợp nhuần nhuyên dân tộc và giai cấp…………………………9
2)Tình hình vận dụng mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam
2.1.Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam………………..11
2.2.Việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cc
đổi mới…………………………………………………………………….14
2.3.Những giải pháp……………………………………………………...15
III)KẾT LUẬN
……………………………………………………………………………..17
*)Tài liệu tham khảo
……………………………………………………………………………...17


1
I)PHẦN MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay dân tộc là một vấn đề rộng lớn.C.Mác và Ph.Ăngghen đã


không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã
được giải quyết trong cách mạng tư sản;hơn nữa các ơng chưa có điệu kiện
nghiên cứu về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa ,cách mạng giải phóng dân tộc trở thành
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới,V.I.Lênin có cơ sở thực tiễn để
phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận.Tuy cả C.Mác
và Ăngghen và V.I.Lenin đã nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp,tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc
xác định chiến lược ,sách lược của Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và
thuộc địa,nhưng thực tiễn cách mạng ở châu Âu ,các ông vẫn tập trung nhiều
hơn vào vấn đề giai cấp
Sau những ngày tháng nghiên cứu và học tập thì chúng ta có thể thấy quá
trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.Trước khi học thuyết Mác –
Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người
Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại.
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là
thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một phương pháp khoa học
,khơng có cơ sở rộng rãi trong quần chúng.Mặc dù các bậc lãnh tụ của
những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của
mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không
thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai
cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã
hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng
xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và
triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Dẫn chứng là nỗ lực đấu tranh cứu nước nhưng không thành công của Việt
nam quốc dân đảng.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu

nước, Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu
tiên của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con
đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới''.


2
II)NỘI DUNG
Tư tương Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân
tộc
1.1.Cơ sở lý luận
a) Mối quan hệ giữa vấn để giai cấp và dân tộc trong chủ nghĩa MacLênin
+ Giai cấp: những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.(khác về:
đối với tlsx ; vai trò trong tổ chức lao động ; cách hưởng thụ )
+ Đấu tranh giai cấp : là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản
đối lập nhau và khơng thể điều hồ được. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là
CM xã hội.
Đấu tranh giai cấp nảy sinh do sự đối lập về lợi ích căn bản và khơng điều
hồ được của các giai cấp có địa vị khác nhau trong hệ thống san xuất xã hội
nhất định. Thông qua đấu tranh giai cấp mà mâu thuẫn lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất được giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển.
Dân tộc: là khái niệm chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người
trong lịch sử.
Quan hệ giai cấp - dân tộc:
- Vai trò giai cấp đối với dân tộc:
+ Quan hệ giai cấp xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng,
bản chất xá hội , tính chất quan hệ giữa các dân tộc.
+ Áp bức giai cấp là cơ sở , nguyên nhân của áp bức dân tộc.
+ Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc.

- Vai trị dân tộc đối với giai cấp:
+ Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cách mạng vo sản.
+ Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bức giai cấp, nuôi dưỡng áp bức
giai cấp, làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp
+ Đấu tranh dân tộc tác động mạnh mẽ tới đấu tranh giai cấp.
+ Dân tộc là cơ sở của giai cấp, nuôi dưỡng đấu tranh giai cấp, tạo cơ sở sức
mạnh giai cấp.
.b) Cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong q trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước
trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự
đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở
thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp


3
(1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu
hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng khơng đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho
quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực
trong(đọc trang 43 giáo trình) thì nó bóc lột cơng nơng, ngồi thì nó áp bức
thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc
cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực
tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị
áp bức, phong trào giải phóng giai cấp cơng nhân ở các nước tư bản. Chính
vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến
với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng
lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần
thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải

qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của
Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược
mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh
tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải
phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách
mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
Chính như vậy,chủ nghĩa Mac-Lenin là một nguồn gốc chủ yếu nhất của tư
tuơng Hồ Chí Minh ,là một bộ phận hữu cơ,cơ sở nền tảng của tư tương Hồ
Chí Minh.Do đó mà chúng ta khơng thể dặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngồi
hệ tư tương Mac-Lenin.Cũng có thể nói viêc nêu cao tương Hồ Chí Minh là
nêu cao chủ nghia Mac-Lenin.Muốn bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa MacLenin thì chúng ta phải bảo vệ và giương cao tư tương Hồ Chí Minh.
1.2)Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và dân
tộc
a)Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Từ trước đến nay dân tộc là một vấn đề rộng lớn.C.Mác và Ph.Ăngghen đã
không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã
được giải quyết trong cách mạng tư sản;hơn nữa các ơng chưa có điệu kiện
nghiên cứu về vấn đề dân tộc thuộc địa.
4


Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa ,cách mạng giải phóng dân tộc trở thành
một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới,V.I.Lênin có cơ sở thực tiễn để
phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận.Tuy cả C.Mác
và Ăngghen và V.I.Lenin đã nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp,tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc

xác định chiến lược ,sách lược của Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và
thuộc địa,nhưng thực tiễn cách mạng ở châu Âu ,các ông vẫn tập trung nhiều
hơn vào vấn đề giai cấp
Sau những ngày tháng nghiên cứu và học tập thì chúng ta có thể thấy q
trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.Trước khi học thuyết Mác –
Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người
Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại.
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là
thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một phương pháp khoa học
,khơng có cơ sở rộng rãi trong quần chúng.Mặc dù các bậc lãnh tụ của
những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của
mình, nhưng do họ khơng nhận thức được xu thế của thời đại, nên không
thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai
cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã
hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng
xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và
triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Dẫn chứng là nỗ lực đấu tranh cứu nước nhưng không thành công của Việt
nam quốc dân đảng.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu
nước, Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Cơng lao to lớn đầu
tiên của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con
đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới''.
5
b)Độc lập,tư do là quyên thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân
tộc
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những hình

thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng
5


đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc
thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược
tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa;
độc lập, tự do của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại.
- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập, tự
do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tơi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do,
Tổ quốc tôi được độc lập...”. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí
Minh đã tìm hiểu Tun ngơn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di
bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và
quyền tự do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các
đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt
cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hịa bình
Vécxây một bản u sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân
Việt Nam. Bản yêu sách đã không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài
học: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình,
trơng cậy vào lực lượng của bản thân mình”
- Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến

b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của
Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy”. Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho
độc lập, tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!”....
- Cách mạng Tháng Tám thành cơng, người thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tun ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng
bào và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật
6


đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy”
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ
quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “... thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở
rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân
lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”.
“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” khơng chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người khơng chỉ
được tơn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được
thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa trong thế kỷ XX”.
c)Giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng giai cấp
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô

sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói:
Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng
quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát
triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân
tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền
đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính
là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần
dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai q trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cịn là sự phát
triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và
tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp
đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn
7


gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành
cơng triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít
của cách mạng vơ sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân
dân, nịng cốt là liên minh cơng nơng, do chính Đảng của giai cấp cơng nhân
lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng
giai cấp cơng nhân, thậm chí cả giai cấp nơng dân là hồn tồn khơng đủ, mà
theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc
thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc

(mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời
cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế
quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc
lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, khơng
địi được độc lập tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể dân
tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không địi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp cơng
nhân địi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp
được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai
cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người
từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản ở chính quốc như
''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vơ sản ở
chính quốc với vơ sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới
thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ
thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ
động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó
góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định
hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc
quan điểm này của Hồ Chí Minh khơng được một số người, trong đó có một
vài người của Quốc tế cộng sản cũng khơng thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ
thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong
bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp
8


với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khn những hình
thức, bước đi, biện pháp của nước khác.
d)Kết hợp nhuần nhuyên dân tộc và giai cấp

Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng
bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc khơng tách rời quyền con
người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi
người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc cịn là điều kiện để
dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế
giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình
đẳng, hồ thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh xem giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu
chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà
thơi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do
ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nơ lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của
nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy,
một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp
giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xố bỏ
nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện
mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tơi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.”
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết
một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được
ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị
áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất
cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp

và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người sáng
lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở chỗ
đó.
9


Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh
sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường
giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph.
Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng
không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện cơng cuộc giải phóng
con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các
quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Mặt khác lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc
ở nước ta khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột
dân tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan
hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai
hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột
thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.”
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng
chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm
các dân tộc trong vịng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu
việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt
Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều

bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em.
Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ
về mọi mặt.”
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống phá
cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó nhằm
thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh
ln coi trọng tình đồn kết, thương u giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc
anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đồn kết mới tạo nên sức mạnh
to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách
mạng đã đề ra.
Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận thấy cơ
hội cứu nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả nước,
10


trong thư Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nịi! Hỡi
các bạn cơng nơng, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! Trong
lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn
kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nịi ra khỏi
nước sơi lửa bỏng.”
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đồn kết dân tộc, mà
chính Người là hiện thân của sự đồn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối
đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia
rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đồn kết trong đại gia đình
các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong cách mạng
Việt Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau

cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn cảnh
và điều kiện sống của các dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt
quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người, sống ở miền núi, vùng sâu và vùng
xa của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng bào sống ở miền xuôi, vùng
đồng bằng và đô thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi, xét trên mọi
phương diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, miền núi
và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự nhiên khơng
thuận lợi, trình độ sản xuất và văn hố của nhân dân nơi đây cịn rất thấp.
Nơi ăn, chốn ở, trường hợc, cơ sở y tế và giao thơng đi lại cịn nhiều khó
khăn và thiến thốn. Bên cạnh đó, do trình độ dân trí thấp nên những thủ tục
lạc hậu, mê tín, di đoạn cịn rất nặng nề.
Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của đồng
bào các dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa
đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa
cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan
tâm đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ
Chí Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phòng to lớn đối
với cả hiện tại và tương lai của đất nước.
2)Tình hình vận dụng mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam
2.1.Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc hiên
nay,việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và hết
11


sức cấp thiết.Bởi vì co thời kỳ triển khai các nhiệm vụ xây dựng,đã có lúc
Đảng ta cực kỳ sai lầm do nóng vội ,chủ quan,duy ý chí,q nhấn mạnh vấn
đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc.Nhưng ngay sau đó Đảng đã kịp
thời khắc phục về ý thức lý luận cũng như trong hoạy động thực tiễn về vấn

đề này.
Ta thấy mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng
trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số
nước khác nào đó, cịn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến,
vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai
cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh
một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý
nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai
cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc.
Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc,
còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo
hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN.
Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường
của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ
Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp
với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng,
trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải
kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công
nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn
minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững
trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân.
Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã
xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan
niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng
XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hố và hồn thiện đường lối đổi mới toàn

diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề
giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
12


Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong
nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và
bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng nhân
thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát
triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng
đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn
trong những khó khăn của hồ bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay,
tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh
các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế
lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm
lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
2.2.Việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cc
đổi mới
nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội lớn, nhưng cũng chứa đựng
khơng ít những thách thức, nguy cơ. Do vậy để bảo đảm đưa đất nước phát
triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục nghiên cứu, vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận ấy vào công cuộc đổi mới của đất nước.
Đối với cán bộ, đảng viên học tập , quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là tự trang bị cho mình một năng lực nhận thức khoa
học và hành động cách mạng đúng đắn. Qua đó tu dưỡng, rèn luyện , phấn

đấu cho lý tửơng tất cả vì độc lập tự do của dân tộc vì hạnh phúc của nhân
dân. Học tập, trau dồi lý luận là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận đối
với thực tiễn. Theo Người , lý luận "là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
q trình lịch sử". Vì vậy, "lý luận như kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng
cho chúng ta trong công việc thực tế". Do đó Đảng phải có trách nhiệm tổ
chức để cán bộ, đảng viên có điều kiện học tập nâng cao trình độ lý luận.
Học tập, vận dụng lý luận phải quán triệt quan điểm thực tiễn để ngăn
13


ngừa bệnh giáo điều cũng như bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Nếu lý luận xa
rời thực tiễn thì sớm muộn cũng dẫn đến giáo điều, sách vở hay theo cách
nói của Hồ Chí Minh là lý luận sng. Học tập, vận dụng lý luận phải gắn
liền với đấu tranh với những quan điểm sai trái, nhằm bảo vệ và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
có sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp cách mạng cuả Đảng và nhân dân ta,
do đó phải nêu cao cảnh giác, đấu tranh khơng khoan nhượng với mọi quan
điểm sai trái. Học tập đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là noi gương cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư, đặt lợi ích của đân tộc, của Đảng, của
nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh
là nói đến lý luận cách mạng hành động, lý luận gắn chặt với thực tiễn, nói
đi đơi với làm
Kế thừa và phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, trong cơng cuộc đổi
mới đất nước (từ 1986), Đảng ta đã nhìn nhận sự cần thiết và khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế( HNKTQT) của Việt Nam. Công tác ngoại giao thời kỳ
đổi mới được triển khai giữa lúc trên thế giới xu thế tồn cầu hố và cùng
với nó là xu thế HNKTQT diễn ra ngày càng sâu rộng; khoa học, công nghệ
đang không ngừng phát triển, lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ.

Nhận thức được điều đó, Việt Nam tham gia HNKTQT theo từng bước tuần
tự, vững chắc. Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và IX đã
ngày càng thể hiện rõ chủ trương đó.
Đại hội VIII đã xác định nhiệm vụ: “ Phải mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, cũng cố và nâng cao vị thế
của nước ta trên trường quốc tế”. Đến Đại hội IX, chủ trương này được
khẳng định rõ hơn: “ Phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả bền vững“. Để cụ thể hố thêm một bước tháng 11/2001 Bộ Chính trị ra
Nghị quyết 07 về Hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra mục tiêu: “Hội nhập kinh
tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ, kiến thức
quản lý để đẩy mạnh CNH- HĐH“.
, Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: Chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực
và song phương sau khi gia nhập WTO: thực hiện các cam kết với các nước
về thương mại tự do song phương với các nước, nhất là các nước lớn, ký các
hiệp định hợp tác kinh tế đa phương và khu vực. Thúc đẩy quan hệ hợp tác
toàn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước khu vực châu A - Thái
Bình Dương. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay sự tuỳ thuộc lẫn nhau
14


giữa các quốc gia ngày càng gia tăng, đan xen vì vậy, Đại hội X xác định
một mặt, trong quá trình HNKTQT“ phải lấy lợi ích dân tộc làm chuẩn mực,
làm thước đo để quyết định chủ trương, xác định chính sách”, mặt khác
“khơng để vì quan hệ với nước này làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa nước ta
với nước khác”. Đây là bước tiến mới trong tư duy lý luận cũng như hoạch
định các bước đi thích hợp của Đảng ta đối với HNKTQT
Như vậy, đến Đại hội X chủ trương HNKTQT của Đảng ta đã có bước tiến
xa hơn, sâu hơn, rộng hơn theo hướng chủ động, tích cực HNKTQT; hội

nhập có định hướng theo lộ trình hợp lý nhằm phục vụ thiết thực cho CNHHĐH đất nước. Nét mới ở đây là Đảng ta đã rút ra những bài học từ thực
tiễn HNKTQT để chủ trương vừa nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ vừa giữ
vững và củng cố mơi trường hồ bình, hồ hiếu tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi nhất để phát triển kinh tế đất nước.Với những chủ trương đúng đắn, phù
hợp xu thế quốc tế, hơn 20 năm qua kể từ năm 1986 chúng ta đã đạt được
những thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội. Đặc biệt, quá trình HNKTQT đã
đưa lại những thành quả to lớn từ chỗ bị cơ lập về chính trị, bao vây cấm vận
về kinh tế, Việt Nam đã xác lập được vị thế và nâng cao uy tín của mình tại
các diễn đàn quốc tế như Liên hiệp quốc, Phong trào Không liên kết, Hiệp
hội các quốc gia Đông nam A( ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu AThái bình dương( APEC), Diễn đàn A - Âu (ASEM) ...từng bước đưa Việt
Nam HNKTQT khu vực và thế giới. Mặt khác, đã thiết lập quan hệ ngoại
giao chính thức với 169 nước ( đến 2005); có quan hệ bn bán với 224/255
thị trường của các nước và vùng lãnh thổ. Khai thông quan hệ với các tổ
chức tài chính lớn như WB, ADB, IMF gia nhập Hiệp hội thương mại thế
giới (WTO). HNKTQT đã mở đường cho sự phát triển toàn diện, tăng sức
cạnh tranh, góp phần tích cực tăng trưởng kinh tế của đất nước.
2.3.Những giải pháp
Để đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng phát triển theo chiều sâu, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những
quan điểm mà Hồ Chí Minh đã nêu ra. Đó là phải dựa vào sức mạnh tồn
dân, phát huy được tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xa hội, lịng tự tơn dân
tộc, ý chí thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu của mỗi người dân.Coi đại đoàn kết
toàn dân là động lực để phát triển kinh tế- xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với thực hiện cơng bằng xã hội. Thực hiện cơng nghiệp hố- hiện
15


đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển
kinh tế nhiều thành phần phải đi đôi với củng cố kinh tế nhà nước đủ sức
phát huy vai trò chủ đạo để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh

tế. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hố, xã hội và đảm bảo an
ninh quốc phịng. Tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng
chuẩn mực đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng nếp sống xã hội tốt đẹp, gia đình văn hố, lối sống tình
nghĩa, đồn kết , hồ hiếu. Xây dựng cái mới phải gắn liền với cải tạo những
thói hư tật xấu, đấu tranh khơng khoan nhượng với căn bệnh có nguy cơ xói
mịn bản chất tốt đẹp cuả chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đấu tranh hiệu quả với
những căn bệnh đó địi hỏi vai trị tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng
viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết thảy lợi ích cá
nhân./.
Để chủ động hội nhập đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế, Đảng ta đã tiến
hành một loạt các giải pháp :
+ Thứ nhất, Xây dựng, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật nhất là các luật,
đạo luật liên quan đến kinh tế, thương mại, đầu tư nước ngoài .
+ Thứ hai, Xây dựng nguồn lực mà trước hết là nguồn lực con người, thực
sự xem giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm
đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, doanh nghiệp có
kiến thức về kinh tế đối ngoại, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý, ngoại ngữ
và luật pháp cũng như thông lệ quốc tế nhằm hạn chế rủi ro khi tham gia
HNKTQT.
+ Thứ ba, ổn định chính trị- xã hội, có chính sách đối ngoại linh hoạt, mềm
dẽo, năng động tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
+ Thứ tư, Xây dựng cơ sở hạ tầng mà trước hết là giao thông, điện, sân bay,
bến cảng… để tạo sự hấp dẫn đầu tư đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế
đất nước.
Vận dụng linh hoạt và sáng tạo sách lược theo phương châm “dĩ bất biến,
ứng vạn biến” mà Bác Hồ đã dạy, từ khi nước ta giành được độc lập đến nay
chủ trương HNKTQT đã phản ánh nhất quán đường lối của Đảng ta là kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, xây dựng nền kinh tế độc

lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế song phương cũng như đa
phương.
III)KẾT LUẬN
16


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MacLenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và trong thực tế Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản
Việt Nam và của dân tộc Việt Nam
*)Tài liệu tham khảo
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Triết học Mác Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 2009.
Duiker, William, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, 2000,
Văn kiện đại hội Đảng các kỳ

17




×