Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Đáp án kinh tế chính trị thời kỳ quá độ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.36 MB, 72 trang )

LOẠI CÂU HỎI TỰ LUẬN (5 điểm/1 câu)
Câu 1. Tại sao nói công lao của C.Mác và Ph.Ănggel không phải là đã
đưa ra lý tưởng XHCN; mà là đã đưa lý tưởng XHCN từ không tưởng thành
khoa học, đã đặt CNXH vào miếng đất hiện thực của nó?
Vào khoảng thế kỉ XV, chế độ phong kiến châu Âu bắt đầu suy tàn và
những mầm móng của chủ nghĩa tư bản xuất hiện. Để tích luỹ vốn và tạo ra đội
quân lao động làm thuê, ngay từ đầu, chủ nghĩa tư bản đã làm phá sản hàng loạt
những người sản xuất nhỏ: nông dân, thợ thủ công, tiểu thương v...v...Trong điều
kiện lịch sử đó, đã nảy sinh dòng văn học xã hội chủ nghĩa không tưởng, phê phán
những bất công của xã hội, phản ảnh những nổi đau khổ và sự phẩn uất của quần
chúng lao động và những người sản xuất nhỏ bị phá sản, phản ảnh khát vọng của
họ về xã hội tương lai công bằng, tốt đẹp hơn.
Suốt thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa không tưởng đã có một quá
trình phát triển gắn liền với những bước phát triểncủa chủ nghĩa tư bản và đã có
một tác dụng tích cực nhất định. Chủ nghĩa xã hội không tưởng, nhất là chủ nghĩa
xã hội không tưởng - phê phán Pháp đầu thế kỉ XIX, đã đánh dấu một bước tiến
trong lịch sử tư tưởng của loài người . Nó để lại cho chủ nghĩa Mác một disản tư
tưởng có giá trị, những điều tiên đoán quan trọng về đời sống xã hội và về sự phát
triển của xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội không tưởng được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác- Lênin thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa
Mác, là tiền đề tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Tuy vậy, chủ nghĩa xã hội không tưởng không tránh khỏi những hạn chế và
tiêu cực. Với những mức độ khác nhau, các trào lưu không tưởng chỉ mới phê phán
chủ nghĩa tư bản, lên án tình trạng bất công và những thảm hoạ do nó gây ra, mà
không giải thích được nguồn góc kinh tế sâu sa của tình trạng ấy. Những nhà
không tưởng có ý thức bênh vực lợi ích của những người lao động, nhưng chưa
thấy vai trò lịch sử của giai cấp vô sản. Họ muốn đứng trên các giai cấp, nhân danh
toàn xã hội để mưu giải phóng toàn xã hội. Nhiều người cho rằng xã hội đầy rẫy
xấu xa vì chưa phát hiện chân lí tuyệt đối và vĩnh cửu để có thể thuyết phục và cảm
hoá mọi người, không phân biệt giai cấp và giàu nghèo. Phần đông những nhà
không tưởng tách rời học thuyết của họ với phong trào quần chúng. Họ không nhận


thức rõ lực lượng của quần chúng. Trái lại, họ muốn đi tìm một sức mạnh tinh thần
làm chỗ dựa cho công cuộc cải tạo xã hội. Nhiều người mong muốn cải tạo xã hội
bằng những cải cách dần dần, bằng giáo dục, chứ không phải bằng đấu tranh cách
mạng. Về cơ bản họ vẫn đứng trên lập trường duy tâm về lịch sử.
Tính chất không tưởng của chủ nghĩa xã hội trước chủ nghĩa Mác chủ yếu là do
những điều kiện lịch sử quy định. Trong hoàn cảnh phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa chưa phát triển đầy đủ , mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản chưa chín muồi thì mọi lí thuyết về chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể chín muội.

1


Đến những năm 40 của thế kỉ XIX , mọi trào lưu xã hội chủ nghĩa không
tưởng đều trở thành lạc hậu , bảo thủ hoặc phản động, vì cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống giai cấp tư sản đã diễn ra với quy mô rộng lớnvà đã có những
hình thức rõ rệt , đòi hỏi phải có một lí luận cách mạng khoa học soi đường . Chính
Các-Mác và Ph. Ăng-ghen là những người đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách đó
của phong trào giai cấp vô sản.
Đến C. Mac, Khi nghiên cứu quá trình phát triển của xă hội loài người.
C.Mác rút ra kết luận: quá trình phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử
tự nhiên. Nghĩa là nó có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Bởi vì do sự
tác động của quy luật kinh tế: quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ cuả lực lượng sản xuất. Theo quy luật này lực lượng sản xuất là yếu tố năng
động nhất, cách mạng nhất, do vậy nó luôn luôn biến đổi và phát triển không
ngừng. Khi nó phát triển lên một trình độ nhất định thì mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất, vì quan hệ sản xuất là yếu tố biến đổi chậm. Mâu thuẫn này đòi hỏi phải xóa
bỏ quan hệ sản xuất cũ, xác lập quan hệ sản xuất mới cho phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.

Sự vận động và mâu thuẫn về kinh tế dẫn đến sự vận động và mâu thuẫn

trong chính trị và xã hội. Đó là mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp tiên tiến đại diện
cho lực lượng sản xuất đang phát triển và giai cấp bảo thủ đại diện cho quan hệ sản
xuất lạc hậu. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp này dẫn đến đấu tranh giai cấp và cách
mạng xã hội, để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời xác lập quan hệ sản xuất
mới. Chính các cuộc cách mạng xã hội đã làm cho xã hội loài người chuyển từ xã
hội thấp lên xã hội cao hơn.
2


Theo C.Mác, xã hội loài người đã chuyển từ xã hội nguyên thủy lên xã hội
chiếm hữu nô lệ, từ xã hội nô lệ chuyển lên xã hội phong kiến và từ xã hội phong
kiến lại chuyển lên chủ nghĩa tư bản.
Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, C.Mác nhận thấy rằng: để bóc lột nhiều giá
trị thặng dư, giai cấp tư sản đã không ngừng tích lũy tư bản để mở rộng sản xuất,
cải tiên kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, xã hội
hóa sản xuất cao. Trong khi đó quan hệ sản xuất vẫn dựa trên chế độ sở hữu tư bản
tư nhân về tư liệu sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trở nên gay gắt. Mâu thuẫn này được biểu hiện về mặt xã hội, đó là mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Từ đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nổ ra cuộc cách mạng vô sản để
xóa bỏ quan hệ sản xuât tư bản chủ nghĩa và xác lập quan hệ sản xuất cộng sản chủ
nghĩa, làm cho phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời thay thế phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

_____________________

3


Câu 2. Trình bày tư tưởng của C.Mác và Ănggel về phương thức sản

xuất cộng sản chủ nghĩa
Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa không phải tư nhiên xuất hiện. Do
nó “thoát thai” từ chủ nghĩa tư bản, nên không phải từ đầu chủ nghĩa cộng sản đã
có ngay những đặc trưng cơ bản của mình, mà phải trảiqua một quá trình phát triển
từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Theo C.Mác chủ nghĩa cộng sản phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp
và giai đoạn cao. Sau này V.I.Lênin gọi giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội giai
đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Do mỗi giai đoạn có trình độ phát triển khác nhau
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuât, nên nó có những đặc trưng khác nhau.
* Giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản
Trong giai đoạn này có những đặc trưng sau:
- Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, khoa học - công nghệ chưa đạt tối
tình độ tiên tiến nhất, nên năng suất lao động chưa cao, sản phẩm chưa dồi dào.
Đồng thời còn có sự cách biệt giữa các loại lao động nên chưa phân phối theo nhu
cầu mà phải phân phối theo lao động.
- Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất với
hai hình thức: sở hữu toàn dân và sỏ hữu tập thế. Với chế độ công hữu, chủ nghĩa
xã hội đã xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra áp bức, bóc lột và đưa người lao động từ chỗ
là người làm thuê thành người làm chủ về tư liệu sản xuất, làm chủ quá trình sản
xuất, kinh doanh và làm chủ thành quả lao động của mình làm ra.
- Trong chủ nghĩa xã hội, quyển lợi bình đẳng là quyền lợi kiểu tư sản.
Sự bình đẳng ở đây chính là ở chỗ đã sử dụng lao động làm đơn vị đo lường
chung. Lao động ngang nhau thì được hưởng ngang nhau. Nhưng chính ở đây lại
bao hàm những yếu tố không bằng nhau như:
+ Tinh thần và thể chât khác nhau.
+ Cường độ lao động khác nhau.
+Điều kiện lao động khác nhau
+ Hoàn cảnh gia đình khác nhau
Tất cả những yếu tố đó làm cho quyền lợi bình đẳng trở thành quyển lợi bất
bình đẳng.

Từ đây,C.Mác khẳng định: quyền lợi không bao giờ có thể cao hơn trạng
thái kinh tế cuả xã hội và cao hon trình độ văn minh của xã hội thích ứng với trạng
thái kinh tế đó.
Trong chủ nghĩa xã hội, xã hội còn giai cấp nên còn nhà nước. Đó là nhà
nước chuyên chính vô sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chấn áp sự phản kháng
của giai cấp tư sản.
4


* Giai đoạn cao - chủ nghĩa cộng sản
Khi xây dựng xong chủ nghĩa xã hội, xã hội loài người sẽ bước vào giai
đoạn cao, đó là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản. Giai đoạn này có những đặc trưng cơ
bản sau:
- Lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.
Chủ nghĩa cộng sản là hình thái kinh tế - xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, vì
nó đem lại một lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Lực lượng sản xuất đó, tất yếu phải dựa trên cơ sở áp dụng những thành tựu
khoa học - công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất. Đó là một nền sản xuất với quy mô
lớn, được tiến hành phù hợp với những yêu cầu của quy luật khách quan và của
khoa học hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Chê độ sở hữu xã hội về tư liệu sàn xuất được xác lập.
Theo C. Mác và Ph.Ăngghen chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội mà
chỉ còn một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu toàn dân. Người lao động thực sự
là người chủ xã hội, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu quan hệ giữa người với
người là quan hệ hợp tác của những người lao động. Khi đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điêu kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
- Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi xã
hội.
Do dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên trong chủ nghĩa cộng
sản không còn mâu thuẫn giữa tính tổ chức trong từng công xưởng với tình trạng

vô chính phủ trong toàn bộ nền kinh tế. Giờ đây việc tổ chức sản xuất một cách có
ý thức, có kế hoạch được thực hiện trên phạm vi toàn xã hội, trở thành một tất yếu
kinh tế và có khả năng để thực hiện. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen còn dự báo
rằng: trong chế độ kinh tế cộng sản chủ nghĩa, lao động mang tính chất lao động xã
hội trực tiếp, nên tính chất hàng hóa của sản xuất sẽ bị loại trừ, tình trạng thống trị
của sản phẩm đối với những người sản xuất sẽ không còn. Do đó không còn dùng
tiền để làm thước đo giá trị nữa.
- Thực hiện phân phối sản phẩm bình đẳng.
Do LLSX phát triển cao, xã hội mới sẽ sản xuất ra một khối lượng sản phẩm
dồi dào mới có thể thực hiện được nguyên tắc “làm theo năng lực và hưởng theo
nhu cầu”. Nguyên tắc phân phối này khắc phục được những hạn chế của nguyên
tắc phân phối theo lao động. Đồng thời đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội
có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng phong phú, đảm bảo cho họ phát triển
và vận dụng một cách tự do những năng khiếu thể lực và trí lực.
- Xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thông, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, xoá bỏ giai cấp.
Sự đối lặp giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc va lao động chân
tay... đã nảy sinh trong lịch sử khi lực lượng sản xuất và nền kinh tế xã hội còn ở
trình độ thấp. Bản thân sự phát triển cao với kinh tế, văn hóa và xã hội sẽ tạo cơ sở
5


để thủ tiêu những sự đối lập đó. Tình trạng xã hội phân chia thành các giai cấp
khác nhau, đối địch nhau sẽ trở nên thừa. Con người được phát triển toàn diện và
được bình đẳng, do đó nhà nước tự tiêu vong. Đến lúc đó con người thực sự từ
vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do.
Như vậy, trên cơ sở kế thừa có phê phán những tư tưởng, quan điểm của các
nhà kinh tế tư sản, với thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã thành công trong việc phân tích chủ nghĩa tư bản. Các ông đã
khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là phương thức tồn

tại vĩnh viễn mà tất yếu sẽ diệt vong và được thay thế bằng phương thức sản xuất
cộng sản chủ nghĩa. Đây là phương thức sản xuất cao hơn, tốt đẹp hơn, nên nó phải
phát triển qua hai giai đoạn để hình thành nên những đặc trưng cơ bản của nó.
_________________

6


Câu 3. Trình bày tư tưởng của C.Mác về điều kiện để một nước chưa
qua phát triển TBCN, bỏ qua chế độ tư bản tiến thẳng lên CNXH; thực chất
của điều kiện đó là gì? liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Theo C.Mác xã hội loài người đã chuyển từ xã hội nguyên thuỷ lên xã hội
chiếm hữu nô lệ, từ xã hội nô lệ chuyển lên xã hội phong kiến và từ xã hội phong
kiến lại chuyển lên chủ nghĩa tư bản. C.Mác nhận thấy rằng: để bóc lột nhiều giá
trị thẳng dư, giai cấp tư sản đã không ngừng tích luỹ tư bản để mở rộng sản xuất,
cải tiến kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, xã hội
hoá sản xuất cao. Trong khi đó quan hệ sản xuất vẫn dựa trên chế độ sở hữu tư bản
tư nhân về tư liệu sản xuất, làm cho mâu thuẩn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trở nên gay gắt. Mâu thuẩn này được biểu hiện về mặt xã hội, đó là mâu
thuẫn giữa giai cấptư sản và giai cấp vô sản. Từ đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp tư sảnvà giai cấp vô sản nổ ra cuộc cách mạngvô sản để xoá
bỏ quan hệ sản xuất tư bảnchủ nghĩa và xác lập quan hệ sản xuất cộng sản chủ
nghĩa, làm cho phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời thay thế phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác -PhĂngghen còn khẳng định: chính sự phát
triển của nền đại công nghiệp cơ khí đã tạo ra đội ngũ giai cấp công nhân, người
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có sứ mệnh lịch sử là người đào mồ
chôn chủ nghĩa tư bản. CNTB phát triển đã tạo ra cơ sở KT-XH cho XH mới ra đời
đó là sự phát triển của LLSX. Do tác động của quy luật kinh tế của CNTB làm cho
mâu thuẫn cơ bản trong CNTB ngày càng sâu sắc đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất TBCN.

“Bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa” hay “không phải trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa” đều là nói tới một hình thái kinh tế - xã hội - một giai đoạn
trong chuỗi phát triển tất yếu của tiến trình vận động mang tính lịch sử - tự nhiên
của xã hội loài người. “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả
những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát
triển vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, không bao
giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó còn chưa
chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội thấm
nhuần trong sự phân tích các hiện tượng xã hội của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. Điều này cũng khẳng định ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt trong
nhận thức xã hội của học thuyết này. Rõ ràng, để một xã hội tiền tư bản tiến lên
chủ nghĩa xã hội như các ông đã chỉ ra, thì tư tưởng về “con đường phát triển rút
ngắn” tỏ ra thuyết phục hơn so với con đường “bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa”
và “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Vấn đề phát triển
rút ngắn có thể phù hợp với sự đa dạng, phong phú, khác biệt về điểm xuất phát
của các quốc gia khác nhau, chính nó tạo ra sự độc đáo của các quốc gia trong quá
trình lên chủ nghĩa xã hội.

7


Mác cho rằng

Sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí đã tạo ra giai cấp công nhân,
người đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Những nước lạc hậu có thể
bước vào con đường phát triển rút ngắn, có thể chuyển thẳng lên hình thức sở hữu
CSCN bỏ qua toàn bộ thời kỳ TBCN. để có CNXH tất yếu phải trải qua 1 thời kỳ
quá độ, do đặc điểm ra đời của các yếu tố của CNXH quy định. TKQĐ là thời kỳ
8



cải biến cách mạng từ xã hội cũ thành xã hội mới. TKQĐ diễn ra từ khi giai cấp vô
sản giành chính quyền và kết thúc khi xây dựng thành công cơ sở của CNXH.
Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Lý luận của Đảng ta về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện lịch
sử của cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta luôn kiên định
lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Điều này càng được thể hiện rõ hơn qua bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt
lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, trong Chính cương văn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi
thành lập Đảng (năm 1930), Đảng ta đã khẳng định: Đảng chủ trương làm cách
mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Thứ hai, sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (năm
1960), Đảng ta khẳng định “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, khi cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta khẳng
định: thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
và, Đảng ta xác định, dù chúng ta vừa bước qua một cuộc chiến tranh tàn khốc, dù
xuất phát điểm của chúng ta là nền kinh tế còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, song
con đường của cách mạng Việt Nam vào thời điểm đó là: “tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Thứ tư, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu tan
rã, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII (năm 1991)
với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất
nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn
dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách

phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta... Quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải
nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân
tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện
pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói đó là bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong quá trình
cách mạng Việt Nam 85 năm qua. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại
các thời điểm bước ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn luôn kiên định con đường đưa
đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự nhất quán
lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
9


Việt Nam. Dù bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất
quán, không dao động, luôn kiên trì đường lối xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quan hệ
hữu nghị với hầu như các quốc gia trên thế giới; đặc biệt có quan hệ đối tác chiến
lược với hầu như các cường quốc. Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực của
cộng đồng thế giới mà còn là thành viên có vai trò và vị trí quan trọng trong các
thế chể, định chế, các liên minh kinh tế, xã hội rộng lớn toàn cầu.
Trong bối cảnh mới, mặc dù chúng ta gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng
rõ ràng chúng ta cũng có nhiều điều kiện và cơ hội phát triển hơn. Vấn đề là ta phải
đặt mình vào trong bối cảnh ấy, một cách khách quan và đề cao tính mục đích của
thời kỳ phát triển định hướng XHCN để ta có chiến lược, chủ trương, biện pháp và
giải pháp hướng tới ngăn chặn nguy cơ, hạn chế thách thức, có nhiều điều kiện để
tận dụng thời cơ và cơ hội hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Vấn đề
quan trọng là trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
chúng ta cần phải đề cao tính mục đích của sự phát triển - đó là CNXH, từ sự đề
cao mục đích, chúng ta phải biết tận dụng nhiều điều kiện, cơ hội khách quan, kịp

thời nắm bắt thời cơ - nghĩa là tìm phương tiện, phương thức, nguồn lực, động lực
để sớm đạt được mục đích xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
Cùng với đó là sự ủng hộ của hệ thống XNCN thời gian đầu nay là sự giúp
đỡ của các dân tộc tiến bộ trên thế giới các trào lưu CNXH. Cùng với đó thông qua
các quan hệ kinh tế, mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia gắn bó chặt chẽ với
nhau hình thành mối liên kết hữu cơ tạo điều kiện cho VN có thể dễ dàng đi tắt đón
đầu tiếp thu các thành quả khoa học công nghệ trên thế giới, tinh hoa thế giới rút
ngắn con đường đi thẳng lên CNXH.
_______________________

10


Câu 4. Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của sự quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - liên hệ với thực tiễn Việt Nam.
* Quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề lý luận căn bản đã được C. Mác,
Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đề cập một cách sâu sắc trong các tác phẩm của mình.
C. Mác khẳng định, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời
kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị. Như thế, thời kỳ quá độ thường được hiểu là
thời kỳ chuyển biến từ trạng thái xã hội cũ sang trạng thái xã hội mới. Ở đây là
chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Về mặt lý luận từ các tác phẩm của các nhà kinh điển, có thể thấy, về thời kỳ
quá độ, có 3 cách hiểu:
1- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản;
2- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; và,
3- Thời kỳ quá độ từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thực ra, đối với các nhà kinh điển, chủ nghĩa xã hội chỉ là giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, chỉ là có hai cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

1- Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội - đó được xem là sự quá
độ trực tiếp;
2- Từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội - đó được xem là sự quá
độ gián tiếp.
Tuy nhiên, dù gián tiếp hay trực tiếp thì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều là
tất yếu khách quan và đều là một thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với
những nội dung, tính chất và đặc thù khác nhau. Dù phải trải qua nhiều bước ngoặt,
nhiều thăng trầm với liên tục và đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó đều là
sự phát triển, tiến bộ đi lên của lịch sử nhân loại.
* Lý luận về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Với học thuyết hình thái - kinh tế xã hội, C. Mác và Ph. Ăng-ghen xem xét
sự phát triển xã hội loài người là một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Tiến trình ấy,
theo các ông, đã phát triển trải qua các chế độ: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Điều này có
nghĩa, chủ nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại cũng
giống như các giai đoạn phát triển trước nó (cộng sản nguyên thủy, chiến hữu nô
lệ, phong kiến) mà nhân loại đã từng trải qua.
Nhìn một cách tổng quát, toàn bộ quá trình phát triển của xã hội loài người
mấy nghìn năm qua cho thấy, lịch sử không phải bao giờ cũng vận động theo
đường thẳng mà để tiến lên, lịch sử thường vận động theo những con đường quanh
co, dích dắc; con đường phát triển của lịch sử không phải bao giờ cũng thẳng tiến
mà nhiều khi chững lại, thậm chí thụt lùi; sự vận động của lịch sử không phải bao
11


giờ cũng liên tục mà nhiều khi đứt đoạn; không phải bao giờ cũng tuần tự, tiệm
tiến mà nhiều khi đột biến, nhảy vọt...
Như vậy, có thể thấy, theo C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin, một cách
chung nhất, điều kiện tiên quyết để “các xã hội tiền tư bản”, “những nước lạc hậu”
“tiến tới chủ nghĩa cộng sản” là:

1) cách mạng vô sản đã thành công ở những nước tư bản phát triển nhất và
kết hợp với cách mạng của các nước lạc hậu;
2) phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại ở chính “quê hương
của nó” và những nơi nó phát triển nhất;
3) phương thức sản xuất mới đã hình thành và nêu một tấm gương về xây
dựng và quản lý xã hội;
4) các nước lạc hậu đang tồn tại các quan hệ xã hội công xã có nhiều nét
tương đồng với các quan hệ trong chế độ cộng sản chủ nghĩa; và,
5) các lực lượng tiến tiên (giai cấp công nhân và đảng của giai cấp công
nhân) trong các "nước lạc hậu" này chủ động tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
“Thời kỳ tư bản chủ nghĩa” hay “giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” hiện
diện với tư cách là một hình thái kinh - tế xã hội trong chuỗi vận động và phát triển
liên tục của lịch sử. Vì vậy, nói “bỏ qua” hay “không phải trải qua” nghĩa là bỏ qua
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Còn “con đường phát triển rút ngắn”
nghĩa là sự phát triển không bỏ qua hoàn toàn hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa với tư cách là một hình thái kinh tê ́ - xã hội, mà đó là sự phát triển có chọn
lọc, kế thừa, có điều chỉnh và định hướng các thành tố phát triển, các động lực phát
triển và xu hướng phát triển theo những yếu tố của thời đại qui định và theo sự
mong muốn, theo chiến lược, mục tiêu phát triển của từng quốc gia cụ thể. Dĩ
nhiên, “con đường phát triển rút ngắn” cũng bao hàm trong nó sự phát triển bỏ qua
những nhân tố, những bộ phận, những tiến trình không còn phù hợp trong thời đại
mới.

12


13



14


* Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một thành
tựu lý luận đặc sắc của Đảng ta đã được thực tiễn đổi mới khẳng định. Mặc dù vậy,
khi nghiên cứu trao đổi về những vấn đề lý luận xung quanh chủ đề này dù đa số
các học giả, các nhà lý luận đều khẳng định và góp phần làm sâu sắc thêm thành
tựu lý luận này trong bối cảnh mới, nhưng vẫn có không ít ý kiến băn khoăn, nêu ý
kiến, giả thuyết nhằm góp phần tìm kiếm những sáng kiến mới, những luận giải
mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đặt
trong bối cảnh thời đại ngày nay.
Sự phát triển mạnh mẽ của đất nước hơn 37 năm đổi mới là minh chứng cho
những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta. Tuy nhiên, khi đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, khi
chủ nghĩa xã hội thế giới vẫn đang ở thời kỳ thoái trào, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, khi toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
càng thấm sâu vào đời sống mọi quốc gia thì vấn đề lựa chọn con đường phát triển
và xây dựng mô hình, chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện mới bao giờ
cũng đặt ra đối với mọi quốc gia. Trong vòng xoay của thời đại ấy, Việt Nam cũng
không phải là ngoại lệ.
Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX, X mặc dù có nhiều sự bổ sung và điều
chỉnh, nhưng nhìn chung, về cơ bản Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông
qua (Cương lĩnh 1991). Tại Đại hội XI, trên cơ sở bổ sung và hoàn thiện Cương
lĩnh 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã có một bước hoàn thiện mới với sự khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực

lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
-------------------------------

15


Câu 5. Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là gỉ? Trình bày nội
dung kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là gì?
Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là không qua chế độ TBCN là: Nhà
nước của giai cấp vô sản và nhân dân lao động đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát
triển lực lượng sản xuất, tạo điều kiện vật chất kỹ thuật và các quan hệ xã hội
tương ứng với điều kiện vật chất ấy, tạo cơ sở hiện thực cho CNXH. Đây là nhiệm
vụ giai cấp tư sản phải làm nếu đất nước trải qua chế độ TBCN. Do đó khi nói
nước ta quá độ lên CNXH không qua TBCN là trong lịch sử nước ta sẽ không có
một giai đoạn trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN
giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế.
Nhưng để tạo lập cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH, chúng ta cũng phải
tuân thủ những vấn đề có tính quy luật của quá trình phát triển kinh tế mà giai cấp
tư sản đã từng làm ở các nước đã trải qua chế độ TBCN. Đồng thời phải kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt
về khoa học và công nghệ.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng

TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loai đã đạt được dưới chế
độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Chính vì vậy đặc trưng cơ bản nhất của thời
kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại để đạt
mục tiêu dân giào, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Các nội dung kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam,
gồm các nội dung kinh tế cơ bản sau:
1/.Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần từ sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đem lại những chuyển biến tích cực, góp phần
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước đi lên. Tuy vậy việc
phát triển các thành phần kinh tế còn nhiều thiếu sót chậm tháo gở. Để tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng của mình trong thời gian tới,
cần tập trung giải quyyết những vấn đề cơ bản sau:
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực bên trong và
bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội,
cải thiện đời sông nhân dân lmà mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế.
16


- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác dần trở
thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các thành phần kinh
tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển.
- Kinh tế thị trường là là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn

tại khách quan không những trong thời kỳ quá độ mà cả trong CNXH. Để tiếp tục
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, triệt để chuyển sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo đinh5 hướng XHCN,cần phải đẩy việc hình thành
đồng bộ thị trường bao gồm: thị trường hàng goá và dịch vụ, trị trường các yếu tố
sản xuất, trị trường vốn, thị trường chứng khoán.
2/- Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Đảng ta luôn xác định xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, thực hiện công nghiệp hoá là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
Mục tiệu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sông
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chất. Từ nay đến năm 2020 ra
sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp.
Trong những năm trước mắt cần tập trung đẩy mạnh phát triển nông – lâm –
ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và công nghiệp hoá, hiện đại há nông nghiệp
nông thôn, phát triển nông nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu; xây dựng và phát triển
các lĩnh vực, các vùng kinh tế, xây dựng quy hoạch tổng thể, kết hợp mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài để lhai thác mọi tiềm năng cho quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
3/- Thực hiện chiến lược kinh tế mở: trong quan hệ kinh tế quốc tế, hoà
bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các
quốc gia trên thế giới. Do vậy đối với nước ta. Đảng ta chủ trương: đa dạng hoá, đa
phương hoá trong quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời
thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Tranh thủ
vốn, công ngghệ và thị trường quốc tế để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Muốn mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta phải xây dựng một cơ cấu kinh
tế hợp lý đảm bảo khả năng giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế quốc phòng, an
ninh, chủ động tham gia phân công lao động và hợp tác trong nước là chính, đi đôi
với việc tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.

4/- Phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng xã hội: xã hội mà
chúng ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Nhưng hiện tại vấn đề công bằng xã hội còn đang là vấn đề khó khăn,
phức tạp do hậu quả của cuộc chiến tranh, do nền kinh tế kém phát triển, do thực
hiện cơ chế thị trường dẫn đến sự phân hoá giào nghèo…Do vậy, Đảng ta khẳng
17


định phát triển kinh tế phải gắn với thực hiện công bằng xã hội bằng một loạt các
biện pháp sau:
- Xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa
- Nhận đở đầu nuôi dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng.
- Cấp vốn hoặc cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cho gia đình khó khăn, nghèo
đói để phát triển kinh tế, từng bước xoá đói, giảm nghèo.
- khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, thu hẹp khoảng
cách về trình độ phát triển, về mức sông giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp
dân cư…
Giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội lại tạo ra động lực để phát triển kinh
tế như Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ: chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc
con người là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng CNXH.
__________________

18


Câu 6. Tại sao Lênin lại cho rằng, để cách mạng XHCN thắng lợi triệt
để ở những nước chưa qua phát triển tư bản chủ nghĩa, thì giai cấp vô sản ở
những nước đó phải liên minh được với đa số nhân dân? đặc biệt là phải thực
hiện các hình thức kinh tế quá độ và phải biết nhượng bộ giai cấp tư sản?

Để cách mạng XHCN thắng lợi triệt để ở những nước chưa qua phát
triển TBCN, thì giai cấp vô sản ở những nước đó phải liên minh được với đa
số nhân dân:
- CMVS chỉ có thể nổ ra và thắng lợi ở từng nước tư bản riêng lẻ chứ không
thể diễn ra cùng một lúc ở tất cả các nước
- Khi CNXH thẳng lợi ở một nước thì nhân loại bước vào thời đại quá độ lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới và trong điều kiện đó các nước lạc hậu có thể
quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN
Đối với những nước kinh tế kém phát triển khi dành được chính quyền thì
không phải quá độ lên chủ nghĩa công sản mà là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (giai
đoạn thấp chủa CNCS) thời kỳ quá độ này cũng là một tất yếu khách quan:
- Trước hết, do bản chất chung của cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này
khác về bản chất với mọi cuộc cách mạng xã hội trước đây, không phải chỉ là thay
thế hình thức sở hữu tư nhân này bằng hình thức sở hữu tư nhân khác, và không
phải thay nhà nước bóc lột này bằng nhà nước bóc lột khác, mà là xoá bỏ tận gốc
sở hữu tư nhân và xoá bỏ nhà nước và giai cấp.
- Hai là, từ một nước kinh tế kém phát triển đi lên CNXH phải tiến hành cải
biến cách mạng một cách toàn diện, sâu sắc: từ kinh tế đến chính trị - xã hội, từ
LLSX đến QHSX, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng. Nghĩa là đối với
những nước này phải trải qua nhiều bước quá độ để tạo tiền đề cho những bước
tiếp theo. Nhất là phải bắc một cái cầu trung gian, đó là CNTB nhà nước, chỉ có
như thế mới đưa một nước tuyệt đại là tiểu nông đi lên CNXH một cách chắc chắn.
Do nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần, nên về mặt xã hội sẽ còn tồn tại
nhiều giai cấp. Do đó về chính trị tất yếu sẽ là chuyên chính vô sản, vì nếu không
có chuyên chính vô sản thì mọi thành quả cách mạng không thể giữ nổi.
Chuyên chính vô sản là nền chuyên chính của giai cấp vô sản để bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động. Hay nói cách khác chuyên
chính vô sản là quyền làm chủ của nhân dân lao động, mà nòng cốt là liên minh
công nông thực hiện bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai
cấp công nhân.

- Theo Lênin để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, chuyên chính vô sản
có bốn nhiệm vụ:
+ Đập tan sự phản kháng của kẻ thù.
+ Cải tại và xây dựng xã hội mới.
19


+ Xây dựng và củng cố quốc phòng.
+ Ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của các nước và các dân tộc.
Bốn nhiệm vụ rên được thực hiện thông qua hai chức năng: chức năng bạo
lực và chức năng tổ chức xây dựng.
- Chức năng bạo lực: Lênin khẳng định chuyên chính vô sản là sự tiếp tục
đấu tranh giai cấp trong tình hình mới, nhiệm vụ mới. Vì giai cấp tư sản mới bị
đánh bại chưa bị tiêu diệt. Nó không chịu ngồi yên để mất thiên đường, mà lao vào
đấu tranh với giai cấp vô sản một cách quyết liệt, với mọi hình thức, mọi sức
mạnh. Nên buộc giai cấp vô sản phải dùng bạo lực để trấn áp sự phản kháng đó của
giai cấp tư sản.
- Chức năng tổ chức xây dựng: mặc dù nhấn mạnh chức năng bạo lực nhưng
theo Lênin đây không phải là chức năng cơ bản nhất. Chức năng cơ bản nhất là
chức năng tổ chức xây dựng để xác lập quan hệ sản xuất XHCN; tiến hành công
nghiệp hoá xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật và tiến hành cách mạng tư tưởng,
văn hoá. Chỉ có chức năng tổ chức xây dựng thì chuyên chính vô sản mới hoàn
thành sứ mệnh của mình là xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp hơn CNTB.
* Để giai cấp vô sản ở những nước đó phải liên minh được với đa số nhân
dân thì trải qua điều kiện bên ngoài và điều kiện bên trong:
+Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đở của giai cấp vô sản của các nước tiên
tiến.
+ Điều kiện bên trong: Liên minh được với đa số nhân dân và xây dựng
được khối liên minh công – nông – trí thức
- Có chính đảng của liên minh giai cấp (ĐCS) và lãnh đạo liên minh giai cấp

giành chính quyền
- Biết nhượng bộ giai cấp tư sản
- Trải qua một loạt các bước quá độ trung gian
Một nước kém phát triển có thể và cần phải tạo ra những điều kiện tiên quyết
để thực hiện CNXH bằng 1 cuộc cách mạng thiết lập chính quyền công nông và
thông qua chính quyền ấy mà tiến lên đuổi kịp các dân tộc khác
Các nước lạc hậu phải qua con đường gián tiếp với một loạt các bước quá độ
thích hợp, các nước này phải thực hiện CNTB nhà nước để phát triển LLSX
Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ: hình thức kinh tế quá độ gồm
kinh tế tư bản nhà nước và hình thức tô nhượng.
- KTTBNN hợp tác nhà nước với tư bản bao gồm:
+ Hợp đồng liên doanh giữa DNNN với TBTN và giữa DNNN với TBNN.
+ Hợp tác với xí nghiệp liên doanh giữa DNNN với TBTN và giữa DNNN
với TBNN.
+BOT (I + xây dựng + Chuyển giao)
20


- Hình thức tô nhượng: (khu chế xuất)
- Hình thức kinh tế quá độ đã cho phép Việt Nam thu hút một lượng lớn
nguồn lực của nước ngoài để phát kinh tế triển trong điều kiện kinh tế tư nhân còn
nhỏ bé và trong điều kiện môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập của một nước
đang phát triển:
+ Hợp đồng liên doanh chủ yếu là nhà nước với TBNN
+ Xí nghiệp liên doanh chủ yếu là DN nhà nước với TBNN
_________________

21



Câu 7. Bạn hiểu thế nào là hình thức kinh tế quá độ? Hãy nhận diện các
hình thức kinh tế quá độ và vai trò của của các hình thức đó ở Việt nam hiện
nay.
*Bạn hiểu thế nào là hình thức kinh tế quá độ?
Hình thức kinh tế quá độ là hệ thống liên hệ kinh tế tương đối bền vững đan xen giữa các cũ và
cái mới trong thời kỳ quá độ

*Hãy nhận diện các hình thức kinh tế quá độ?
Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ: hình thức kinh tế quá độ phổ biến
hiện nay là kinh tế tư bản nhà nước
• Hoạt động trên cơ sở vốn hợp doanh của NN và TB tư nhân trong và ngoài
nước;
• Các hình thức hoạt động:
– Tô nhượng,
– Đại lý,
– Gia công,
– Công ty liên doanh…
• Những hình thức cụ thể của KTTBNN đang vận dụng ở nước ta
a. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước.
- Trước đây, hình thức này gọi là “công tư hợp doanh” nhưng chúng ta mới chỉ áp
dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm sớm đi
đến xoá bỏ kinh tế tư bản tư nhân. Nay, trên cơ sở quan điểm thừa nhận các thành
phần kinh tế còn tồn tại và phát triển lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH hình
thức này cần được sử dụng và phát triển phong phú và đa dạng hơn.
- Tính đến nay, nước ta đã có khá nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân. Quy mô của đa số những doanh nghiệp này còn rất nhỏ bé, lại dàn trải ở các
ngành kinh tế dịch vụ, nông lâm -ngư- nghiệp xây dựng và chỉ chiếm trên 9% GDP
của cả nước.
- Trong thời gian qua, nước ta đã áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh
giữa nhà nước với các nhà tư bản để hình thành các công ty cổ phần, công ty trách

nhiệm hữu hạn nhưng trong tổ chức vẫn còn những trở ngại. Để mở rộng hình thức
này, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, mặt khác, đẩy mạnh hơn nữa cổ
phần hoá một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước, phát triển các loại hình các
công ty cổ phần, có quy chế tạo khả năng lưu hành rộng rãi cổ phiếu, phát triển thị
trường chứng khoán, hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường
b. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân nước ngoài.
22


- Hiện nay, liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài có hai hình
thức. Đó là các công ty liên doanh giữa nhà nước và tư bản nước ngoài và các công
ty 100% vốn nước ngoài.
- Ở nước ta, các hình thức này đang được triển khai tích cực. Tính đến tháng 7
năm 1997, trong cả nước đã có 2067 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép
hoạt động với số vốn đăng ký 31,3 tỷ USD. Ngoài ra những năm gần đây các nhà
tài trợ nước ngoài đã dành cho VN một khoản tài trợ đáng kể, mỗi năm trên dưới 2
tỷ USD. Đây là một bộ phận rất quan trọng của KTTBNN được Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm và có nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho nó phát triển. Các xí
nghiệp liên doanh này cần đầu tư khá đa dạng vào các lĩnh vực khác nhau từ công
nghiệp cho tới dịch vụ.
c. Hình thức gia công đặt hàng
- Hình thức này áp dụng trong các ngành sản xuất vật chất. Thông qua hình thức
này, Nhà nước đặt hàng với các nhà TB trong và ngoài nước hoặc các doanh
nghiệp nhà nước nhận gia công cho các công ty nước ngoài.
- Do đặc điểm của lực lượng lao động ở VN là dồi dào với giá nhân công rẻ, lao
động khéo léo, chăm chỉ nên nhiều đơn vị nước ngoài đã quan tâm và thực hiện
liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu nhà nước dưới hình thức
gia công, đặt hàng tham gia sản xuất một số công đoạn trong dây chuyền chế tạo.
Điều này cũng phù hợp với xu thế quốc tế hóa và chính sách mở của ở VN hiện
nay, tạo điều kiện giải quyết việc làm, đúc rút kinh nghiệm về quản lý và cạnh

tranh cho các đơn vị trong nước. Ngoài ra trong hình thức gia công đặt hàng này
còn có hình thức các đơn vị tham gia sản xuất kinh doanh theo đơn đặt hàng của
nhà nước, cũng có những vai trò nhất định đối với sự nghiệp phát triển kinh tế.
d. Khu chế xuất
- Khu chế xuất về thực chất được coi là các hình thức của CNTBNN. Tại đây
không phải chỉ có một loại hình kinh tế TBNN đơn độc, thuần tuý mà có nhiều
hình thức cụ thể, bao gồm cả hình thức tô nhượng, liên doanh, cho tư bản nước
ngoài thuê.
- Ở VN hiện nay, kể từ ngày thành lập khu chế xuất đầu tiên 25/12/1981, bên
cạnh 45 khu công nghiệp còn có 3 khu chế xuất. Với việc phát triển nhanh về quy
mô và số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất, VN không chỉ giải quyết được
một số lượng lớn lao động có việc làm mà cáckhu công nghiệp, khu chế xuất này
còn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước; tham gia vào quá
trình hợp lý hoá, quy hoạch hóa đô thị và bảo vệ môi trường
e. Nhà nước cho tư bản trong và ngoài nước thuê các cơ sở sản xuất kinh
doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân.

23


- Hiện nay ở nước ta do ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân cho nên các
căn hộ - với tính cách là đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp hiện nay - chỉ có
quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu. Do vậy, đây cũng là một hình thức của
CNTBNN. Chỉ riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, trên cơ sở tư liệu sản xuất cơ bản
thuộc sở hữu toàn dân, chúng ta có chế độ kinh doanh hỗn hợp giữa nhà nước với
hộ cá thể. Đây là một hình thức kinh tế được nhà nước ta quan tâm và tạo điều kiện
để phát triển nhằm cải thiện đời sống của nhân dân phát huy được nội lực để phát
triển kinh tế.
- Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, mà trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
ta cũng có thể triển khai hình thức này thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất

của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện các hợp đồng ký
kết giữa nhà nước ta với các nhà tư bản trong và ngoài nước. So với tô nhượng,
hình thức cho thuê kinh doanh khác ở hai điểm: thứ nhất, thời gian hợp đồng
thường ngắn hơn; thứ hai, đối tượng chủ yếu cho thuê kinh doanh không phải chủ
yếu là quyền sử dụng đất mà chủ yếu là các hầm mỏ, khu rừng, xí nghiệp, cửa
hàng
f. Các tổ chức hợp tác với tính cách là các hình thức kinh tế TBNN.
- Các cá thể tập hợp nhau lại và cùng tham gia vào sản xuất kinh doanh - đó là
loại hình kinh tế hợp tác. Đó là các tổ chức hợp tác như kinh doanh liên hộ, tổ hợp
dịch vụ, tổ hợp chế biến, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... Những tổ chức hợp
tác này có sử dụng đất đai của sở hữu toàn dân, có vay vốn của Nhà nước, và nhất
là có sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước, thì với quan niệm rộng theo tư tưởng
của Lê-nin đó cũng là hình thức của CNTBNN. Hình thức này thể hiện rõ nét nhất
trong chế độ kinh doanh hỗn hợp giữa nhà nước với tập thể trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp.
g. Một số hình thức khác mới bắt đầu áp dụng ở Việt Nam.
- Hiện một số lượng không nhỏ những công ty cổ phần. Việc cổ phần hoá các
xí nghiệp quốc doanh hiện nay là chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp
là làm gọn nhẹ, tối ưu các thành phần kinh tế quốc doanh, tăng thành phần kinh tế
cá thể, tập thể, tư nhân. Đây là giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ
của các xí nghiệp quốc doanh, tránh được tình trạng thất thoát tài sản, lãng phí
dưới nhiều hình thức, nâng cao trách nhiệm của người lao động cũng như nâng cao
được trình độ quản lý...
- Cho đến thời điểm này, ở nước ta đã xuất hiện hình thức đại lý bao gồm nhiều
hình thức khác nhau, nhưng một bộ phận quan trọng đó là một hình thức của chủ
nghĩa TBNN do dựa trên việc nhận làm đại lí cho một đơn vị kinh tế nước ngoài
hoặc của một đơn vị kinh tế nhà nước. Hình thức này phổ biến trong các mặt hàng

24



mà nói chung chúng ta chưa có khả năng sản xuất nhưng có vị trí quan trọng trong
nền kinh tế
• Thành tựu
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước đóng góp rất lớn vào sự nghiệp xây dựng đất
nước. Lực lượng kinh tế tư bản nhà nước đã đầu tư thăm dò và khai thác dầu khí,
khai khoáng, giao thông vận tải và bưu điện viễn thông, điện tử, hoá chất, nônglâm-ngư nghiệp, may mặc xuất khẩu, công nghiệp nặng, hàng tiêu dùng, dịch vụ,
khách sạn, du lịch, xây dựng nhà ở, tài chính, tín dụng và một số ngành khác. Các
xí nghiệp liên doanh và hợp doanh với nước ngoài đã thu hút khoản gần 14,2 nghìn
lao động trực tiếp sản xuất và hàng vạn lao động vệ tinh khác. Chúng đã có những
đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là góp phần từng
bước cân bằng cán cân ngoại thương, tạo điều kiện cho chúng ta học tập kinh
nghiệm quản lý doanh nghiệp của các nước
• Hạn chế
Trong quá trình phát ttiển, lực lượng kinh tế này cũng đã bộc lộ một số hạn chế:
Các dự án đầu tư có quy mô nhỏ lại chủ yếu đầu tư vào những ngành có thể đem
lại lợi nhuận ngay và thu hồi vốn nhanh, ít đầu tư vào những ngành có công nghệ
cao -ngành mà chúng ta đang thiếu; vốn đầu tư chủ yếu tập trung ở phía nam đặc
biệt là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu; thủ tục đầu tư còn
nhiều vướng mắc, trình độ của lao động kỹ thuật còn hạn chế......
• Chính sách phát triển KTTBNN ở nước ta
Quan điểm 1: Phát triển kinh tế tư bản Nhà nước phải gắn liền với phát triển
kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy và định hướng phát triển cho kinh tế tư
nhân, tư bản tư nhân.
-Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách quan, phản ánh các nấc thang xã
hội hóa từ thấp tới cao.
-Theo logic kinh tế thị trường: Kinh tế tư nhân => Kinh tế tư bản tư nhân => Kinh
tế tư bản Nhà nước.
- Sự phát triển kinh tế nhiều thành phần và mở cửa là không tránh khỏi. => Cần
chuẩn bị tốt việc xây dựng chính sách kinh tế tư bản Nhà nước. => giúp thúc đẩy

nhanh quá trình xã hội hóa trong giai đọa công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm 2: Kinh tế tư bản Nhà nước chỉ phát triển nhanh, vững chắc, đúng
hướng trong một cơ cấu kinh tế hợp lý.
-Liên kết công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp.
Sự phát triển hỗ trợ, thúc đẩy nhau giữa nông nghiệp với công nghiệp, trong đó
công nghiệp bám sát nhu cầu của nông nghiệp, còn dịch vụ là khâu ngày càng tăng
25


×