Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học hàm số bậc nhất và bậc hai nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.85 MB, 80 trang )

GVHD: TH.S. еo Thi
Hoa

Kho¸ luËn tèt

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Toán đã
tạo điều kiện giúp em học tập và đạt được kết quả như ngày hôm nay. Đặc
biệt em xin cảm ơn cô giáo hướng dẫn: Th.S Đào Thị Hoa – Tổ phương pháp
đã nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn và tạo điều kiện giúp em hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Sinh viên

SV: NguyÔn Thi Kim

-1-

K33A –


LỜI CAM ĐOAN
Được sự hướng dẫn của cô giáo Đào Thị Hoa, kết hợp với sự nỗ lực
của bản thân, em đã hoàn thành đề tài khoá luận tốt nghiệp: “Xây dựng hệ
thống câu hỏi trong dạy học vectơ nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh”.
Em xin cam đoan khoá luận này là kết quả của việc học tập, nghiên cứu
và nỗ lực của bản thân em, không trùng lặp với kết quả của các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Sinh viên




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc khóa luận
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số vấn đề chung về tính tích cực học tập của học sinh
1.1.1. Khái niệm về tính tích cực học tập của học sinh
1.1.2. Những biểu hiện về tính tích cực học tập của học sinh
1.1.3. Một số nguyên tắc dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh
1.2. Một số vấn đề về câu hỏi trong dạy học
1.2.1. Khái niệm câu hỏi
1.2.1.1. Câu hỏi
1.2.1.2. Câu hỏi dạy học
1.2.2. Ưu – nhược điểm của việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học
1.2.3. Phân loại câu hỏi
1.2.3.1. Phân loại câu hỏi theo mức độ tư duy
1.2.3.2. Phân loại câu hỏi theo chức năng dạy học
1.2.3.3. Phân loại câu hỏi theo hình thức tổ chức dạy học
1.2.4. Yêu cầu của câu hỏi trong dạy học
1.2.5. Kĩ thuật đặt câu hỏi trong dạy học



1.2.6. Nguyên tắc sử dụng câu hỏi trong dạy học
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Kết quả điều tra ý kiến của học sinh
2.2. Kết quả điều tra ý kiến của giáo viên
3. Kết luận
.

1. Mục tiêu chương trình
2. Nội dung của chương
3. Xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.

Sơ kết
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

1. Mục đích thực nghiệm
2. Nội dung thực nghiệm
3. Tổ chức thực nghiệm
4. Đánh giá kết quả
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
.
28, mục


:“

.

.
h

.

. Giáo


,

T
h
.

.
Với những lí do trên, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Xây dựng hệ
thống

nhằm phát huy tính

tích cực học tập của học sinh ”.
2. Mục đích nghiên cứu:


.



3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu về tính tích cực học tập của học sinh.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi
trong dạy học.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học chủ đ nhằm
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
-

phạm

đánh giá kết quả đã nghiên cứu.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Dạy học chương “
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí luận.
- Quan sát, điều tra.
- Thực nghiệm giáo dục.
6. Cấu trúc khóa luận:
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Xây dựng hệ
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Kết luận
Tài liệu tham khảo


10 nâng cao.


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:

LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lí luận:
1.1. Một số vấn đề chung về tính tích cực học tập của học sinh:
1.1.1. Khái niệm tính tích cực học tập của học sinh:
* Tính tích cực
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người vì con người luôn
phải tìm tòi, khám phá, cải tạo môi trường sống để tồn tại và phát triển.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tính tích cực là có ý nghĩa, có tác dụng
khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Người tích cực là người chủ động và có
những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển” [9. trang
1013].
Vậy “tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể, nghĩa là của
người hành động” <I.K.Kharlamop>.
* Tính tích cực học tập
Tính tích cực học tập về thực chất là tính tích cực nhận thức. Theo
I.F.Kharlamop thì: “Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của học
sinh, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong
quá trình nắm kiến thức” [3. trang 43].
Nó diễn ra trên các phương diện như: Tri giác tài liệu, thông hiểu tài
liệu, ghi nhớ, luyện tập, vận dụng… với những hình thức đa dạng.
Hứng thú học tập và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính
tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập, suy nghĩ độc lập, là mầm mống của sáng
tạo.



1.1.2. Những biểu hiện về tính tích cực học tập của học sinh:
Tính tích cực học tập của học sinh được biểu hiện dưới nhiều hình thức
và cấp độ khác nhau.
* Các hình thức biểu hiện :
sau:

- Xúc cảm học tập: Thể hiện ở sự hứng thú, sốt sắng thực hiện các yêu

cầu của giáo viên, hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên

, có thái độ

vui vẻ, thích phát biểu ý kiến.
-

học tập, lắng nghe, theo dõi hành động

của giáo viên.
- Sự nỗ lực của ý chí

kiên trì, nhẫn nại,

.
- Hành vi: hăng hái tham gia mọi

hoạt động học tập, thường

xuyên giơ tay phát biểu ý kiến, bổ sung câu trả lời của bạn, yêu cầu giải

đáp khi chưa hiểu rõ, ghi chép cẩn thận.
- Kết quả lĩnh hội: nhanh, chính xác, tái hiện lại được khi cần, biết vận dụng
kiến thức, kĩ năng trong các tình huống khác nhau.
* Các cấp độ của tính tích cực học tập:
- Tính tích cực bắt chước, tái hiện: Đây là mức độ thấp của tính tích cực
học tập,
là tiền đề cơ bản để học sinh nắm được nội
dung bài giảng, tạo điều kiện nâng cao tính tích cực.
- Tính tích cực tìm tòi: mức độ này tính độc lập cao hơn mức độ trước.
Học sinh không chỉ bắt chước, tái hiện lại tri thức mà tự mình phát hiện ra
vấn đề, tự mình xác định phương hướng và tìm cách giải đáp, kiểm tra, thử


lại, đánh giá kết quả đạt được. Đây cũng là tiền đề

của tính tích cực

sáng tạo.
- Tính tích cực sáng tạo: Đây là mức độ biểu hiện tính tích cực cao nhất.
Học sinh

. Với mức độ này, học sinh đã có
khả năng tự tư duy, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa…
.
Do đó, thông qua những biểu hiện hằng ngày, giáo viên dựa vào những
dấu hiệu để phát hiện học sinh có tính tích cực hay không? Mức độ tính tích
cực thế nào? Từ đó định hình hệ thống câu hỏi trong bài giảng để khơi gợi và
phát huy tính tích cực đồng thời phù hợp với mức độ tích cực của học sinh.
1.1.3. Một số nguyên tắc dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh:

Trong những năm gần đây trong giáo dục học, vấn đề tính tích cực của
học sinh trong học tập vẫn được tiếp tục nghiên cứu và đã nêu lên một loạt
những nguyên tắc lí luận dạy học cần lưu ý khi thực hiện việc dạy học nhằm
tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Những nguyên tắc đó được phát
biểu như sau:
Nguyên tắc 1: Việc dạy học phải được tiến hành ở mức độ khó khăn
cao
.

Yêu cầu của nguyên tắc này là sự cần thiết phải cuốn hút học sinh vào

công tác nhận thức tích cực, kích thích tính tò mò, học hỏi, phát huy hết khả
năng của học sinh sao cho học sinh huy động hết mức trí - lực của mình.
Nguyên tắc 2: Việc nắm vững kiến thức lý thuyết phải chiếm ưu thế.
Yêu cầu phải nắm vững tài liệu lý thuyết, lĩnh hội tư tưởng và khái
niệm quan trọng, thâm nhập vào bản chất của các hiện tượng vật thể.


Sách, tài liệu học tập và tài liệu khoa học là nguồn vô tận các kiến thức
nhiều mặt, là phương tiện quan trọng để nhận thức thế giới xung quanh.
Những kiến thức lý thuyết trong sách và tài liệu là công cụ để phát triển năng
lực tư duy, trí tuệ, áp dụng vào cuộc sống để cải tạo và phát triển cuộc sống.
Do đó, phải dạy cho học sinh tự lực làm việc với tài liệu học tập để
nắm vững củng cố kiến thức lý thuyết, đồng thời tiếp thu được kĩ năng kĩ xảo.
Nguyên tắc 3: Trong quá trình dạy học phải duy trì nhịp độ khẩn
trương của việc nghiên cứu tài liệu, còn các kiến thức đã lĩnh hội
được
củng cố khi nghiên cứu kiến thức mới.
Việc dừng lại để nghiên cứu một tài liệu sẽ gây nên sự nhàm chán, mệt
mỏi vì tính chất đơn điệu của nó. Do đó khi đã hiểu một vấn đề rồi thì phải

chuyển sang nghiên cứu một vấn đề khác, còn việc lĩnh hội tài liệu đã học sẽ
được đào sâu khi nghiên cứu tài liệu mới.

.
Sự phát triển của học sinh phải là một trong những đường trục của quá
trình dạy học. Khía cạnh đặc biệt quan trọng của sự phát triển là sự biến đổi
về chất của bản thân hoạt động nhận thức và tư duy nói chung.
Trong quá trình dạy học, học sinh tiếp thu tri thức, nâng cao tầm hiểu
biết, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo, các quan điểm, phẩm chất đạo đức, ý chí.
Như vậy, quá trình phát triển của học sinh được thực hiện trong hệ thống công
tác dạy học, sẽ bao gồm một tổ hợp và phức tạp những vấn đề tâm lý học,
giáo dục học.
Khoa học đã chỉ ra rằng, con người mới chỉ sử dụng dưới 15% khả
năng có sẵn của mình, do vậy, trong dạy học người giáo viên cần chăm lo tới
sự phát triển không chỉ học sinh khá mà cả những học sinh yếu.


Tóm lại, phương pháp giáo dục phải được xây dựng dựa trên những
nguyên tắc này để làm cho học sinh trở thành chủ thể tích cực trong hoạt động
học tập hay chính là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
1.2. Một số vấn đề về câu hỏi trong dạy học:
1.2.1. Khái niệm câu hỏi:
1.2.1.1. Câu hỏi:
Câu hỏi là công cụ đa năng trong giao tiếp nhằm giải quyết nhu cầu
thông tin.
Theo từ điển Tiếng Việt “Câu hỏi là những câu biểu thị sự cần biết
hoặc không rõ, với những đặc trưng của ngữ điệu và từ để hỏi” [9. trang 285].
Theo Từ điển Giáo dục học thì “Câu hỏi là câu nói nêu lên vấn đề đòi
hỏi phải suy nghĩ, cân nhắc rồi đưa ra câu trả lời tương ứng” [8. trang 42].
Như vậy câu hỏi mang đặc điểm:

- Tìm hiểu thông tin, sự hiểu biết về sự vật hiện tượng hoặc đặt ra yêu cầu với
đối tượng được hỏi.
- Đòi hỏi sự trả lời.
1.2.1.2. Câu hỏi dạy học:
Câu hỏi dạy học được xuất phát từ khái niệm câu hỏi nhưng được thu
hẹp trong phạm vi quá trình dạy học

.
Ví dụ 1: Hãy nêu định nghĩa hàm số bậc nhất?
Đây là câu hỏi dạy học giúp giáo viên kiểm tra kiến thức của học sinh.
Câu hỏi dạy học là câu nói lên vấn đề nhận thức đòi hỏi học sinh phải
suy nghĩ, cân nhắc rồi đưa ra câu trả lời, bao gồm cả yêu cầu hoặc nêu ra một
nhiệm vụ cho học sinh thực hiên.


Câu hỏi dạy học mà giáo viên sử dụng thường đan xen hai loại câu hỏi:
câu hỏi đóng và câu hỏi mở.
+ Câu hỏi đóng là câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng và thường rất
ngắn. Giáo viên thường sử dụng loại câu hỏi này để kiểm tra mức độ nhận
biết của học sinh thông qua các câu hỏi mang tính khẳng định đúng sai hoặc
câu trả lời ngắn.
Ví dụ: Hàm số y ax2 bx

0) là hàm số bậc nhất đúng hay sai?

c(a

+ Câu hỏi mở là câu hỏi đòi hỏi câu trả lời chi tiết hơn có thể có nhiều
hướng trả lời. Câu hỏi mở khiến học sinh phải suy nghĩ và giúp giáo viên hiểu
rõ hơn mức độ hiểu bài của học sinh.


số
y

Ví dụ: Cho đồ thị (H) của hàm số

1

y

x
2x 1
x

. Hỏi muốn có đồ thị của hàm

thì ta phải tịnh tiến (H) như thế nào?

Khi gặp câu hỏi này, học sinh phải suy nghĩ: Trước tiên là phải biết
cách tịnh tiến một đồ thị. Sau đó áp dụng vào (H), học sinh tư duy và căn cứ
vào các kiến thức đã học để giải quyết câu hỏi.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần đặt những câu hỏi hướng vào
trọng tâm của bài học.

câu hỏi trọng tâm. Giải

đáp được câu hỏi trọng tâm là giải quyết được vấn đề cơ bản đưa ra.
Để giúp

trọng tâm, giáo


viên thường xây dựng một hoặc nhiều câu hỏi gợi mở. Tùy theo mức độ câu
hỏi và khả năng tư duy của học sinh để đặt câu hỏi đảm bảo cho học sinh là
chủ thể của quá trình dạy học, chủ động lĩnh hội tri thức.
Ví dụ: Câu hỏi trọng tâm: Vẽ đồ thị hàm số y x2 2x3 .
Các câu hỏi gợi mở:


1. Tìm toạ độ đỉnh?
2. Phương trình trục đối xứng và hướng bề lõm của hàm số?


3. Sự biến thiên của hàm số?
Tất cả những câu hỏi đóng, mở, câu hỏi trọng tâm, câu hỏi gợi mở mà
giáo viên sử dụng trong dạy học đều là những câu hỏi dạy học. Như vậy, câu
hỏi trong dạy học là những câu hỏi phản ánh nhu cầu tìm tòi kiến thức mới
trong dạy học, kiểm tra, vận dụng kiến thức, hướng vào đối tượng nhận thức
và đòi hỏi sự giải quyết. Nó góp phần nâng cao hiệu quả trong dạy học nhất là
trong cơ chế dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
1.2.2. Ƣu – nhƣợc điểm của việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học:
Trong bất kì giờ học nào, việc đặt câu hỏi là không thể thiếu. Câu hỏi
được sử dụng dưới cả hình thức nói lẫn viết. Tuy nhiên, câu hỏi nói do đặc
điểm nhanh, gọn, ít thời gian nên được sử dụng thường xuyên hơn. Những
giáo viên có kinh nghiệm đều xem câu hỏi là phương tiện để truyền đạt tri
thức và sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi để xây dựng nên hệ thống câu hỏi trong
giảng bài nhờ những ưu điểm sau:
* Đối với giáo viên:
-

để


viên truyền tải tri

thức, giúp học sinh
- Sử dụng câu hỏi

.
, giáo viên có thể kiểm tra tri thức, đánh

giá năng lực của học sinh, đồng thời nhận được tin phản hồi tức thì về mức
độ tiếp thu kiến thức của học sinh.
- Câu hỏi trong dạy học còn được giáo viên dùng để khắc sâu, củng cố kiến
thức trong quá trình truyền đạt. Nó cũng là biện pháp gợi động cơ học tập
gây hứng thú cho học sinh.
- Câu hỏi trong dạy học giúp giáo viên phát hiện những ý tưởng và giả định sai
của học sinh để từ đó có thể kiểm tra và sửa lỗi cho học sinh.


- Câu hỏi dạy học tạo điều kiện cho giáo viên rèn luyện cho học sinh những
phẩm chất trong giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và nhận xét ý kiến
của người khác.
* Đối với học sinh :
- Việc sử dụng câu hỏi trình bày logic các vấn đề và truyền đạt được logic
này cho học sinh sẽ khuyến khích các em khám phá ra tri thức, phát triển
tư duy và kĩ năng suy nghĩ cấp độ cao.
- Việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tạo điều kiện cho học sinh bày tỏ ý kiến
của mình và thực hành sử dụng những ý tưởng, từ ngữ mà giáo viên đã dạy
cho.
- Câu hỏi dạy học tạo không khí hoạt động sôi nổi, thú vị, kích thích hứng
thú học tập của học sinh khi học sinh trả lời đúng và được giáo viên khen.

- Câu hỏi dạy học tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện các phẩm chất như: kĩ
năng diễn đạt, thái độ giao tiếp với thầy cô, bạn bè…
Câu hỏi dạy học có rất nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, để xây dựng được hệ
thống câu hỏi dạy học phát huy được hết các ưu điểm trên đòi hỏi giáo viên
phải có kĩ thuật đặt câu hỏi.
Bên cạnh đó, nếu giáo viên không có kĩ năng đặt câu hỏi cũng sẽ gây
khó khăn cho học sinh.
- Diễn đạt câu hỏi không đúng ý làm học sinh dễ hiểu lầm.
- Câu hỏi quá dài dòng không đúng trọng tâm khiến học sinh bị phân tán sự
tập trung, khó tiếp thu và nắm bắt ý tưởng của giáo viên. Hỏi quá khó sẽ gây
tâm trạng chán nản.
- Sử dụng hệ thống câu hỏi quá nhiều, không chọn lọc sẽ làm mất thời
gian.


Do đó, đòi hỏi trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi, giáo viên phải có
sự chuẩn bị kĩ lưỡng, am hiểu nội dung và khả năng tư duy của học sinh để
đặt câu hỏi cho phù hợp.
1.2.3. Phân loại câu hỏi:
Trong quá trình dạy học, có những câu hỏi chỉ đơn thuần là yêu cầu học
sinh nhớ lại kiến thức và có tác dụng củng cố kiến thức mới học, luyện trí
nhớ. Cũng có những câu hỏi nhấn mạnh đến những điểm chính của vấn đề và
thông tin cho giáo viên biết học sinh tiếp thu được đến đâu, lại có những câu
hỏi dành cho các kĩ năng bậc cao hơn như khả năng hiểu và áp dụng các khái
niệm, nguyên tắc liên quan đến kiến thức đã học.
:“

: Trevor Kerry (1982), đã liệt kê một số

loại câu hỏi sau:

+ Dạng câu hỏi dùng để kiểm tra kiến thức, kĩ năng khai thác kiến thức
như gợi nhớ thông tin, đặt tên, kiểm soát, quan sát, câu hỏi giả định.
+ Dạng câu hỏi bậc cao hơ

do, đánh

giá, giải quyết vấn đề.
Theo

:“

- Lê Phước

Lộc – 2000”, câu hỏi được phân loại như sau:
+ Câu hỏi theo chức năng dạy học
+ Câu hỏi theo hình thức tổ chức dạy học
Nếu phân loại câu hỏi theo các loại tiết dạy:
+ Câu hỏi dạy bài mới
+ Câu hỏi dạy bài luyện tập
+ Câu hỏi dạy bài ôn tập
Nếu phân loại câu hỏi theo tình huống điển hình trong dạy học Toán:
+ Câu hỏi trong dạy học khái niệm Toán học


+ Câu hỏi trong dạy chứng minh định lí Toán học
+ Câu hỏi trong dạy giải Toán
1.2.3.1. Phân loại câu hỏi theo mức độ tƣ duy:
Năm 1956, Benjamin Bloom đã nêu ra 6 cấp độ nhận thức: biết, hiểu,
vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Ứng với từng cấp độ nhận thức, câu
hỏi cũng được chia thành 6 cấp độ từ thấp đến cao: Câu hỏi mức độ biết, câu

hỏi mức độ hiểu, câu hỏi mức độ vận dụng, câu hỏi mức độ tổng hợp và câu
hỏi mức độ đánh giá.
+ Câu hỏi mức độ biết: Giúp học sinh tái hiện lại kiến thức, nhắc lại các
sự kiện, định nghĩa, quy tắc…
Câu hỏi thường bắt đầu bằng các từ để hỏi: ai, khi nào, ở đâu, hãy liệt
kê, định nghĩa, phát biểu, nêu…
Ví dụ: Hãy nêu khái niệm hàm số bậc nhất?
+ Câu hỏi mức độ hiểu: giúp học sinh
thức

kiến

hoặc vấn đề gì đó, so sánh những điểm giống và

khác nhau, lý giải nguyên nhân…
Câu hỏi thường bắt đầu: Hãy tóm tắt, mô tả, phân biệt, so sánh…
Ví dụ: Hãy phân biệt hàm số bậc nhất và bậc hai?
+ Câu hỏi mức độ vận dụng: Giúp học sinh vận dụng các kiến thức đã
biết để giải quyết vấn đề.
Câu hỏi thường bắt đầu với các từ để hỏi: Hãy chứng minh, giải thích,
dựa vào công thức, định lí đã biết…
Ví dụ: Chứngminh hàm số g(x)

1
x

1 x là hàm số lẻ?

+ Câu hỏi mức độ phân tích: Giúp học sinh có khả năng phân tích
những vấn đề, chia nhỏ vấn đề để có thể hiểu được, tìm hiểu sâu hơn về một

khía cạnh nào đó, cấu trúc của đối tượng…
Câu hỏi thường là: Hãy phân tích, giải thích, phân loại, sắp xếp…


Ví dụ: Cho hàm số y 2x4
Hãy phân tích xem nên dùng phương pháp nào để khảo sát sự biến
thiên và vẽ đồ thị hàm số trên.
+ Câu hỏi mức độ tổng hợp: Giúp học sinh có thể tổng hợ
thành

thể thống nhất, có khả năng liên hệ kiến thức này với kiến thức

khác để giải quyết vấn đề.
Câu hỏi thường là: Hãy kết luận, tổng quát hóa, tổng hợp kiến thức…
Ví dụ: Sau khi vẽ đồ thị hàm số
y

2x

2

3x 1 , hãy nêu cách vẽ tổng

quát của hàm số y ax2bxc ?
+ Câu hỏi mức độ đánh giá: Giúp học sinh có khả năng nhận định, đánh
giá, nêu ra giá trị của vấn đề hoặc nêu ý kiến của riêng mình, bảo vệ quan
điểm của mình.
Câu hỏi thường là: Hãy kiểm tra, nhận xét, nêu cách giải khác, nêu ý
kiến bản thân…
Ví dụ: Có phải mỗi đường thẳng trong mặt phẳng toạ độ đều là đồ thị

của một hàm số nào đó không? Vì sao?
Trong sự phân loại này, câu hỏi mức độ hiểu, biết, vận dụng là những
câu hỏi ở mức độ tư duy thấp.
1.2.3.2. Phân loại câu hỏi dạy học theo chức năng:
Trong quá trình dạy học, dựa vào chức năng của quá trình dạy học có
các loại câu hỏi sau :
+ Câu hỏi nhằm mục tiêu khai thác kiến thức: Đòi hỏi học sinh phải suy
nghĩ, trao đổi, khám phá vấn đề từng bước một để chiếm lĩnh tri thức.
Câu hỏi thường bắt đầu: Hãy giải thích, hãy chứng minh, hãy dự
đoán…
Câu hỏi nhằm mục tiêu khai thác kiến thức chính là những câu hỏi
được xếp vào cấp độ vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá.


+ Câu hỏi nhằm mục tiêu củng cố, kiểm tra kiến thức: Được dùng để
kiểm tra bài cũ của học sinh hoặc giúp học sinh nhớ lại kiến thức cũ có liên
quan đến kiến thức mới hoặc có thể được dùng để phục vụ cho các câu hỏi
nhằm mục tiêu khai thác.
Câu hỏi thường là: Hãy phát biểu, hãy nhắc lại…
Ví dụ: Hãy nhắc lại khái niệm hàm số?
1.2.3.3. Phân loại câu hỏi theo hình thức tổ chức dạy học:
+ Câu hỏi cho hoạt động cá nhân: là câu hỏi một đối một với nội dung
vấn đề giải quyết có phạm vi hẹp giúp giáo viên chuẩn đoán khó khăn hoặc
chỗ học sinh bế tắc đồng thời hình thành cho học sinh những năng lực cá nhân
như: rèn luyện ngôn ngữ, ý chí tự lực tự cường.
+ Câu hỏi cho hoạt động nhóm: là câu hỏi mà đối tượng giải quyết câu
hỏi là một nhóm gồm hai hay nhiều học sinh, câu hỏi thường có phạm vi
rộng, có nhiều yêu cầu cần giải quyết, cần nhiều ý kiến đóng góp.
Mục đích của câu hỏi là hình thành cho học sinh khả năng hợp tác, tinh
thần đoàn kết, phương pháp làm việc.

Ngoài những câu hỏi tự luận đã được phân loại ở trên, trong quá trình
dạy học, giáo viên còn dùng đến các câu hỏi trắc nhiệm làm phong phú thêm
giờ học.
Câu hỏi trắc nghiệm đƣợc phân loại nhƣ sau:
+ Câu hỏi nhiều lựa chọn: Nêu một câu hỏi dẫn hoặc câu phát biểu
không đầy đủ được nối tiếp bởi 3, 4, 5… câu trả lời hoặc 3, 4, 5… cụm từ bổ
sung trong đó chỉ có một câu trả lời đúng.
Ví dụ: Cho đường thẳng (d) : y = 0,5x. Hỏi ta sẽ được đồ thị của hàm
số nào khi tịnh tiến (d)
A. Lên trên 3 đơn vị.

C. Sang phải 2 đơn vị.

B. Xuống dưới 1 đơn vị .

D. Sang trái 6 đơn vị.


+ Câu hỏi loại điền khuyết: Những câu hỏi bài tập dạng này có chứa
những chỗ trống để học sinh điền những cụm từ thích hợp vào chỗ đó. Những
cụm từ này có thể được cho sẵn hoặc do học sinh nghĩ ra.
Ví dụ: Hàm số bậc nhất có dạng … trong đó a và b là …?
+ Loại ghép đôi: Những câu hỏi, bài tập dạng này thường gồm hai cột
thông tin, mỗi cột có nhiều dòng. Học sinh phải chọn ra những kết hợp hợp lý
giữa một dòng của cột này với một trong những dòng thích hợp của cột kia.
1.2.4. Yêu cầu của câu hỏi trong dạy học:
+ Câu hỏi phải bám sát nội dung bài học tức câu hỏi đặt ra phải hướng
vào trọng tâm của bài học và phải xây dựng câu hỏi gợi mở cho những câu
hỏi trọng tâm.
+ Câu hỏi phải đa dạng về hình thức câu hỏi

+ Câu hỏi dạy học phải đảm bảo tính vừa sức tức
+ Câu hỏi phải đa dạng về hình thức tổ chức dạy học
+ Câu hỏi phải đảm bảo thời lượng tiết học
+ Câu hỏi phải phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh
+ Giáo viên nên dự kiến câu trả lời và xác định xem có thể trả lời các
cách khác nhau như thế nào hoặc học sinh có thể hỏi ngược lại như thế nào và
xác định xem câu hỏi đó có thực sự cần thiết hay không?
1.2.5. Kĩ thuật đặt câu hỏi trong dạy học:
Kĩ thuật đặt câu hỏi tốt nhất là phải khuyến khích tất cả học sinh trong
lớp suy nghĩ.
Khi đặt câu hỏi cần tránh bầu không khí căng thẳng, thường xuyên thay
đổi ngữ giọng, giọng nói phải to, rõ ràng và cần nhấn mạnh những vấn đề
trọng tâm. Sau khi đặt câu hỏi nên dừng lại đôi chút để học sinh động não suy
nghĩ câu trả lời, không nên chỉ định học sinh nêu câu trả lời trước khi đặt câu
hỏi. Khuyến khích các em trả lời bằng cách đặt câu hỏi từ những câu đơn


giản, đặc biệt nếu đây là học sinh mới. Hãy tỏ ra hài lòng với câu trả lời của
các em và luôn khen ngợi câu trả lời đúng. Hãy sử dụng ánh mắt và ngôn ngữ,
cử chỉ để liên lạc với các học sinh khác trong lớp. Cho học sinh thời gian để
chuẩn bị sẵn sàng chuyển sang câu hỏi mới, nội dung mới.
1.2.6. Nguyên tắc sử dụng câu hỏi trong dạy học:
+ Trước hết nên suy nghĩ trước các câu hỏi mình sẽ sử dụng trong bài
giảng, đặc biệt các câu hỏi khiến người nghe suy nghĩ.
+ Câu hỏi dạy học phải đảm bảo tính khoa học
+ Câu hỏi dạy học đưa ra phải đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung,
phương pháp và hình thức
+ Câu hỏi dạy học phải đảm bảo tính vừa sức và yêu cầu phát triển
+ Câu hỏi dạy học phải đảm bảo sự thống nhất giữa hoạt động điều
khiển của thầy và hoạt động học tập của trò

+ Câu hỏi dạy học phải đảm bảo thời lượng tiết học
2. Cơ sở thực tiễn
Trevor Kerry, nghiên cứu những lỗi chính mà giáo viên chưa có kinh
nghiệm thường gặp phải khi sử dụng phương pháp đặt câu hỏi bao gồm: vốn
từ của giáo viên quá phức tạp, không đủ cho học sinh có thời gian trả lời,
không sử dụng thỏa đáng công cụ hỗ trợ như khen ngợi động viên…và
thường không có khả năng gợi ý cho học sinh trả lời bằng các câu hỏi khác
đơn giản hơn.
2.1. Kết quả điều tra ý kiến của học sinh:
* Nội dung phiếu điều tra: xem phụ lục 1
* Kết quả và nhận xét kết quả:
Sau khi phát phiếu cho 150 học sinh, qua thống kê, phân tích các phiếu
điều tra ta có kết quả sau:


+ Có 22% học sinh trả lời rằng thường xuyên được giáo viên gọi phát
biểu, 60% thỉnh thoảng được gọi, 18% học sinh không bao giờ được gọi lên
bảng phát biểu bài. Điều này cho thấy việc bao quát của giáo viên chưa tốt.
+ Có 93% học sinh thích phát biểu bài, 7% không thích. Điều này cho
thấy hầu hết học sinh đều thích phát biểu bài.
+ Có 70% học sinh trả lời rằng có tâm lý bình thường khi trả lời sai,
30% có tâm lý không tốt khi trả lời câu hỏi sai.
.
+ Có 58% học sinh trả lời rằng giáo viên giải đáp tỉ mỉ đáp án câu hỏi
khi học sinh trả lời sai, 37% chọn đáp án “Cho một vài gợi ý để học sinh tiếp
tục trả lời” và 5% học sinh chọn “cách khác”. Chứng tỏ có một lượng không
nhỏ giáo viên có ý thức giúp học sinh tư duy tích cực trong học tập.
+ Có 45% học sinh cho rằng giáo viên chỉ gọi những em chủ động
muốn phát biểu, 46% trả lời các thành viên trong lớp đều tham gia xây dựng
bài, 9% trả lời giáo viên giảng bài đơn độc. Như vậy giáo viên chưa phân bố

được câu hỏi đều khắp lớp, chưa đáp ứng được yêu cầu của ba đối tượng khá,
giỏi, trung bình.
+ Có 67% ý kiến cho rằng câu hỏi của giáo viên rõ ràng, dễ hiểu, còn
lại 33% ý kiến ngược lại. Điều này chứng tỏ giáo viên cần rèn luyện thêm kĩ
năng đặt câu hỏi.
+ Có 55% học sinh trả lời rằng thời gian mà giáo viên cho các em suy
nghĩ là vừa, 24% trả lời thời gian là ngắn và 21% trả lời là thời gian quá dài.
Như vậy thời gian giáo viên dành cho các em suy nghĩ vẫn chưa phù hợp với
năng lực của các em.
+ Khi không hiểu bài, số lượng học sinh hỏi giáo viên là rất ít. Có đến
30% học sinh trả lời rằng “Không bao giờ chủ động hỏi giáo viên”, 63% trả
lời “có nhưng rất ít”, 7% trả lời “thường xuyên”. Điều này cho thấy khả năng


hạn chế của giáo viên trong việc khuyến khích học sinh chủ động hỏi khi
không hiểu.
2.2. Kết quả điều tra ý kiến của giáo viên:
* Nội dung phiếu điều tra: xem phụ lục 2
* Kết quả và nhận xét kết quả:
Qua thống kê, phân tích các phiếu điều tra ta có kết quả sau:
+ Đa số giáo viên đều coi sách giáo khoa như là phương tiện hỗ trợ chứ
không là tài liệu duy nhất cho việc giảng dạy. Họ đều gia công chế biến lại
các hoạt động theo hướng hoàn thiện hơn nhằm thích nghi với từng đối tượng
học sinh.

6/8 giáo viên
chấp nhận hoàn toàn những chỉ dẫn trong sách.

+ Kết quả còn 5/8 giáo viên đôi khi còn áp đặt kiến thức cho học sinh,
dẫn dắt bài không tự nhiên, câu hỏi đưa ra còn đơn giản.

+ Một số ít giáo viên (1/8) còn ít chú ý đến việc phối hợp các hình thức
câu hỏi dạy học. Mà như ta đã biết, các câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi dạng
điền khuyết…có rất nhiều tác dụng trong việc phát hiện sai lầm của học sinh,
đặc biệt là gợi động cơ, gây hứng thú học tập cho học sinh.
3. Kết luận
Như vậy, qua thực trạng trên, việc xây dựng và sử dụng câu hỏi trong
dạy học còn chưa được quan tâm nhiều. Khi sử dụng trong dạy học vẫn chưa
khoa học và chưa đạt kết quả cao. Do vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả
của quá trình dạy học, mỗi sinh viên sư phạm cần trang bị những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết về xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học.


CHƢƠNG 2: XÂY DỰNG HỆ THỐN
NHẰM PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH.
Trong sách giáo

10 nâng cao: “

.
1. Mục tiêu của chƣơng:
+
.
+
.
+B

.

+


.

+
.
2. Nội dung của chƣơng:
Chương 2: “

c hai” –

10 nâng cao gồm 3

bài, dự kiến được thực hiện trong 6 tiết, phân bố cụ thể như sau:
1.

3 tiết


×