Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thành phố viêng chăn cộng hoà dân chủ nhân dân lào ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.02 KB, 182 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHÍT SA MÁY BUNVILAY

ph¸t triÓn nguån nh©n lùc
chÊt l-îng cao ë thµnh phè viªng ch¨n,
céng hßa d©n chñ nh©n d©n Lµo

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2014


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHÍT SA MÁY BUNVILAY

ph¸t triÓn nguån nh©n lùc
chÊt l-îng cao ë thµnh phè viªng ch¨n,
céng hßa d©n chñ nh©n d©n Lµo
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số

: 62 34 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS NGUYỄN THỊ HƢỜNG
2. TS. LÊ VĂN CHIẾN



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức
năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận án là
mới và chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa
học nào.
Tác giả luận án

Phít Sa Máy Bunvilay


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình nghiên cứu nguồn nhân lực và phát triển nguồn
nhân lực
1.2. Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực chất lượng cao
và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
1.3. Kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án và hướng nghiên cứu

của luận án
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO

2.1. Nhận thức chung nguồn nhân lực chất lượng cao
2.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
2.3. Kinh nghiệm quốc tế và bài học rút ra cho Thành phố Viêng
Chăn, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào về phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN, CỘNG HOÀ
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN 2005 ĐẾN NAY

3.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao
3.2. Thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Thành phố Viêng Chăn giai đoạn 2005 đến nay
3.3. Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Thành phố Viêng Chăn
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ
VIÊNG CHĂN, CỘNG HÕA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
ĐẾN NĂM 2020

4.1. Định hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố
Viêng Chăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đến năm 2020
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ở Thành phố Viêng Chăn giai đoạn đến 2020
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

6
6
19
26
29
29
43

60
73
773
83
105

116
116
130
146
148
149


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ADB

: Ngân hàng Phát triển Châu Á


AFTA

: Khu vực thương mại tự do Châu Á

ASEAN

: Hiệp hội Đông Nam Á

CHDCND

: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNKT

: Công nhân kỹ thuật

CMKT

: Chuyên môn kỹ thuật

EU

: Liên minh châu Âu

FDI


: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

HCM

: Hồ Chí Minh

HDI

: Chỉ số phát triển con người

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HRD

: Phát triển nguồn nhân lực

ILO

: Tổ chức lao động quốc tế

IT

: Công nghệ thông tin


NDCM

: Nhân dân cách mạng

NNL, CLC

: Nguồn nhân lực chất lượng cao

ODA

: Hỗ trợ phát triển chính thức

UBND

: Ủy ban nhân dân

UNDP

: Chương trình phát triển quốc gia thống nhất

USD

: Đô-la Mỹ

UNESCO

: Tổ chức văn hóa khoa học giáo dục quốc gia thống nhất

WTO


: Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 3.1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP của Thủ đô Viêng Chăn

74

Bảng 3.2: Chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế Thủ đô

74

Bảng 3.3: Dân số và nguồn nhân lực ở Thủ đô Viêng Chăn

76

Bảng 3.4: Chỉ số HDI của Lào và thế giới

79

Bảng 3.5:Tình hình lao động và việc làm ở Thủ đô Viêng Chăn
năm 2002, 2010, 2013

84

Bảng 3.6: Nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở Thủ đô tính đến
năm 2013
Bảng 3.7: Trình độ của cán bộ, giáo viên dạy nghề năm 2013


85
87

Bảng 3.8: Kết quả điều tra về chính sách của Thành phố Viêng Chăn
đối với nguồn nhân lực chất lượng cao

104

Bảng 3.9: Số lượng đào tạo nghề trình độ chuyên môn kỹ thuật tại
Thủ đô Viêng Chăn năm 2005 - 2013

108


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
Trang
Biểu đồ 3.1: So sánh cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế ở Thủ
đô giữa giai đoạn 2006 - 2010 và 2010 - 2012

76

Biểu đồ 3.2: Nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở Thủ đô

86

Biểu đồ 3.3: Cơ cấu trình độ của cán bộ, giáo viên dạy nghề năm 2013

87


Biểu đồ 3.4: Chuyển dịch cơ cấu trình độ của cán bộ quản lý Thành
phố Viêng Chăn

89

Biểu đồ 3.5: Số lượng đào tạo nghề trình độ chuyên môn kỹ thuật tại
Thủ đô Viêng Chăn năm 2005 - 2013

108


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực là tài sản quý giá đối với mỗi quốc gia, vừa là mục tiêu,
tiền đề, vừa là động lực để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bước vào thế kỷ XXI, trước xu thế phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nền kinh tế tri thức hình thành và
được coi là một xu hướng phát triển kinh tế chủ yếu của thời đại. Tri thức,
trí tuệ trở thành nguồn gốc và sức mạnh quan trọng nhất quyết định trình
độ phát triển của mỗi quốc gia. Bởi vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao
đóng vai trò quan trọng, là nhân tố quyết định đến sự phát triển và hưng
thịnh của đất nước. Sự phát triển thần kỳ của nhiều nước ở khu vực Đông
Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và tốc độ tăng trưởng nhanh chóng
của các nước ASEAN, Trung Quốc đều phần lớn nhờ vào nguồn nhân lực
có chất lượng cao [108]. Thực tế cho thấy, các quốc gia công nghiệp hoá
thành công đều phải có chính sách ưu tiên xây dựng và phát triển đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong điều kiện hội nhập quốc tế
ngày một sâu rộng.

CHDCND Lào đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
tiếp cận với trình độ khoa học công nghệ cao nên đòi hỏi một lực lượng lao
động có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường mới. Phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có trình độ chuyên môn và đặc biệt là có
khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất là
yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của CHDCND Lào theo
hướng hiện đại và bền vững. Do vậy, đầu tư vào con người là cơ sở vững chắc
cho sự phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh hiện nay.


2
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước Lào đã rất quan tâm đến việc
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 2006 đã khẳng định: "Con người là yếu tố
quyết định cho sự phát triển và coi con người là đối tượng ưu tiên của sự
nghiệp phát triển. Việc phát triển đất nước có hiệu quả hay không, ít hay nhiều
luôn phụ thuộc vào yếu tố con người" [172, tr.56]. Song cho đến nay, đội ngũ
lao động chất lượng cao ở CHDCND Lào còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, phát triển đội ngũ nhân lực chất
lượng cao có đủ năng lực giải quyết các vấn đề phát triển của đất nước trong
bối cảnh hiện nay là một yêu cầu cấp bách.
Thành phố Viêng Chăn, nước CHDCND Lào có vị trí chiến lược rất
quan trọng, là trái tim của cả nước; đầu não chính trị, hành chính quốc gia,
trung tâm lớn nhất về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc
tế. Viêng Chăn là một trong những địa phương có tốc độ phát triển cao về
kinh tế, văn hoá, xã hội so với cả nước. Sự phát triển của thành phố phải trở
thành động lực lan toả và là đầu tàu lôi kéo sự phát triển của các địa phương
khác trong cả nước. Muốn vậy, yếu tố có ý nghĩa quyết định chính là nguồn
lực con người.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn nhân lực nói chung, nguồn

nhân lực chất lượng cao nói riêng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, trong những năm gần đây, lãnh đạo các cấp Thành phố Viêng Chăn đã xây
dựng chiến lược phát triển nguồn lực con người và bước đầu đã đạt được một
số thành tựu nhất định. Tuy vậy, quá trình thực hiện chiến lược này vẫn còn
nhiều bất cập như: chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; cơ cấu đào tạo chưa hợp lý; đời sống
của một bộ phận lao động ở thành phố còn gặp không ít khó khăn. Do đó, tình
trạng thiếu cán bộ kỹ thuật lành nghề, cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn


3
khác trong các cấp, các ngành đang là vấn đề phổ biến không chỉ của thành
phố, mà trở thành vấn đề chung của cả nước.
Do vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để tìm ra những giải pháp
hữu hiệu nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoà và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành nhiệm vụ cấp
thiết đối với Viêng Chăn hiện nay. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh chọn chủ
đề "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố Viêng Chăn,
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào" làm đề tài luận án tiến sĩ kinh tế.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở làm rõ lý luận và đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Thành phố Viêng Chăn, CHDCND Lào để đề xuất giải
pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố đến năm 2020.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện những mục tiêu trên, luận án tập trung vào làm rõ các nội
dung sau đây:
- Hệ thống hoá và bổ sung cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực cao ở một số địa

phương của các nước trong khu vực Châu Á. Từ đó, rút ra một số bài học kinh
nghiệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố Viêng Chăn,
CHDCND Lào.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ở Viêng Chăn từ 2005 đến 2013.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Thành phố Viêng Chăn, CHDCND Lào trong bối cảnh hiện nay và
tầm nhìn 2020.


4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao thành phố - cấp tỉnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao của
Thành phố Viêng Chăn giới hạn trong đội ngũ công chức của thành phố và
một số cơ sở đào tạo trên địa bàn thành phố.
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu động thái của sự phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao và chính sách của thành phố nhằm thúc đẩy sự phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Thời gian nghiên cứu của luận án từ 2005 - 2013 và định hướng
đến năm 2020.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với nghiên cứu đường lối, chủ
trương đổi mới của Đảng, Nhà nước Lào, cùng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh và tiếp cận hệ thống để nghiên cứu và giải quyết
các vấn đề đặt ra.

- Đặc biệt luận án đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để có
những đánh giá khách quan về chính sách phát triển nguồn nhân lực của
Thành phố Viêng Chăn. Đồng thời, luận án tham khảo, kế thừa có chọn lọc
các kết quả của các nghiên cứu đi trước có liên quan đến đề tài để giải quyết
làm rõ các vấn đề luận án đặt ra.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao.


5
- Phân tích và đánh giá một cách toàn diện thực trạng phát triển nguồn
nhân lực của Thành phố Viêng Chăn.
- Đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Thành phố Viêng Chăn.
- Luận án là một công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách
nghiêm túc có hệ thống về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho
CHDCND Lào nói chung và Thành phố Viêng Chăn nói riêng.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án bao gồm 4 chương, 11 tiết.


6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Trong mọi thời đại, nguồn nhân lực luôn đóng vai trò quan trọng nhất
đối với sự phát triển của một đất nước. Bởi vì, con người không chỉ là một yếu
tố đầu vào của quá trình như các nguồn lực khác mà với khả năng, trình độ của

mình con người quyết định mức độ hiệu quả của khai thác và sử dụng các
nguồn lực khác. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh
chóng của cách mạng khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao
trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong
quá trình phát triển.
Vai trò quan trọng của nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất
lượng cao nói riêng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học, các chuyên gia hoạch định chính sách trên thế giới và ở nước
CHDCND Lào. Trong chương này, Luận án sẽ tổng quan một số công trình
nghiên cứu có liên quan đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1.1.1. Những công trình nghiên cứu nguồn nhân lực và vai trò của
nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội
Ngày nay hầu như tất cả các nghiên cứu về nguồn nhân lực đều thống
nhất với nhau ở một luận điểm là nguồn nhân lực ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vai trò quan trọng
này được thể hiện như thế nào, quan trọng đến đâu thì vẫn là vấn đề còn
tranh cãi. Đó chính là lý do khiến chủ đề vai trò của nguồn nhân lực trong
phát triển kinh tế - xã hội nhận được sự quan nghiên cứu của nhiều nhà khoa


7
học, nhiều tổ chức ở tất cả các quốc gia. Ngân hàng thế giới (World Bank)
đã tiến hành nhiều cuộc điều tra về nhân lực dưới nhiều góc độ tại rất nhiều
quốc gia trên thế giới. Trang web của World Bank có thể cung cấp cho
chúng ta rất nhiều tài liệu về nguồn nhân lực, trong đó có một số ấn phẩm
đáng chú ý như Meeting human resources needs (Đáp ứng các nhu cầu về

nguồn nhân lực) của Karen Lashman; Human resources for health policies:a
critical component in health policies (2003), Apr 14 [223], (Nguồn nhân lực
cho chính sách về sức khoẻ: một nhân tố thiết yếu trong các chính sách về
sức khoẻ) của Gilles Dussault và Carl-Ardy Dubois; Managing human
resources in a decentralized context (2010) [224], (Quản lý nguồn nhân lực
trong bối cảnh phi tập trung hoá) của tác giả Amanda E. Green; và ngay cả
tờ tạp chí của tổ chức này The World Bank Economic Review, (2005) [199],
cũng là một ấn phẩm có đăng tải rất nhiều bài viết về vấn đề nguồn nhân lực.
Các tác phẩm này đều phân tích vai trò của nguồn nhân lực với phát triển
kinh tế - xã hội theo các khía cạnh khác nhau. Tổ chức văn hoá, khoa học,
giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) cũng rất quan tâm tới vấn đề nguồn
nhân lực, thể hiện bằng một loạt các công trình nghiên cứu đã được xuất bản
như: Toward a system of human resources indicators for less developed
countries (1986), [225], (Hướng đến hệ thống chỉ báo nguồn nhân lực cho
các nước kém phát triển) của Zymunt Gostkowski giới thiệu một dự án của
UNESCO nghiên cứu về nguồn nhân lực, đưa ra các chỉ số cho việc nghiên
cứu phát triển nguồn nhân lực và quan hệ giữa nguồn nhân lực với phát triển
kinh tế ở các nước chậm phát triển. Một công trình khác của F. Harbison,
(1993),[202] Educational planning and human resource development. (Kế
hoạch giáo dục và phát triển nguồn nhân lực) Công trình này được coi là
một trong những bộ bách khoa toàn thư của UNESCO, trình bày các quan
điểm hiện đại về kế hoạch hoá và quản lý giáo dục, nguồn nhân lực, dùng
phương pháp hệ thống để phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng


8
đến sự phát triển nguồn nhân lực ở các nước đang phát triển.
Ngoài ra, có thể kể đến những ấn phẩm đáng chú ý về chủ đề nguồn nhân
lực của tổ chức quốc tế như Chương trình phát triển của Liên hợp quốc UNDP,
với những báo cáo hàng năm về tình hình phát triển con người (Human

development report), cung cấp một cách đầy đủ và cập nhật chỉ số phát triển con
người của hầu hết các quốc gia trên thế giới được sắp xếp theo thứ tự từ cao xuống
thấp. Đặc biệt, UNDP đã đề ra 5 nhân tố của sự phát triển nguồn nhân lực, đó là
giáo dục và đào tạo, sức khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và sự giải
phóng con người; trong đó giáo dục và đào tạo là bộ phận cơ bản nhất, quan
trọng nhất để phát triển nguồn nhân lực. Một số tổ chức quốc tế quan trọng
khác, như WHO - tổ chức Y tế thế giới cũng có những nghiên cứu quan tâm tới
nguồn nhân lực từ khía cạnh sức khoẻ; ILO - Tổ chức Lao động quốc tế cũng
phát hành những những ấn phẩm về chủ đề nguồn nhân lực và vấn đề đào tạo
(Human development and training, ILO, Geneva, 2003, 2004)... [212].
Một số công trình đã nghiên cứu về vai trò của nguồn nhân lực trong
phát triển kinh tế - xã hội đã coi nguồn nhân lực như một loại hình vốn, nó
là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, góp phần vào sự tăng trưởng
của một nền kinh tế.
Vốn con người là một khái niệm xuất phát từ kinh tế học dùng để chỉ
học vấn, tay nghề, kỹ năng lao động của người lao động. Khái niệm này đã
được Adam Smiths chỉ ra từ rất sớm và được nhắc đến thường xuyên trong các
tài liệu kinh tế từ cuối thế kỷ 19. Sự ra đời của khái niệm vốn con người được
xem như sự khai sinh cho một tân lý thuyết về vốn, bởi trước đó, nói đến vốn
người ta chỉ nghĩ đến vốn tài chính. Tổng thống Hoa Kỳ Theodore W. Schutlz
đã trình bày quan điểm có hệ thống đầu tiên về vốn con người, ông cho rằng:
Sự thất bại trong sử dụng nguồn vốn con người rõ ràng với tư cách là
một loại hình vốn, một loại phương tiện sản xuất và một sản phẩm của đầu tư
được duy trì bởi khái niệm cổ điển về lao động chỉ với tư cách một dạng năng


9
lực mà với nó, theo định nghĩa này, tất cả người lao động đều được trả lương
ngang nhau [209, tr.15].
Tuyên bố của Schultz đã định hình những nét cơ bản cho lý thuyết về

vốn, nó đã được bổ sung, phát triển thêm bởi những nhà kinh tế học khác như
Johnson, Becker... Gary S. Becker (2010),[200] trong tác phẩm Vốn con
người: Phân tích lý thuyết và kinh nghiệm, liên quan đặc biệt đến giáo dục.
Công trình nghiên cứu về những tác động của đầu tư vào nguồn nhân lực đến
việc làm, thu nhập và do đó đến tăng trưởng kinh tế nói chung. Theo ông, vốn
con người không chỉ là thể lực vốn có mà còn là giá trị bổ sung của người lao
động khi anh ta có được tri thức, kỹ năng và những tài sản hữu ích khác đối
với các ông chủ lao động trong quá trình sản xuất và trao đổi. Điểm khác biệt
quan trọng giữa thể chất và vốn con người là ở chỗ vốn con người là giá trị
phụ trội gắn liền và xuất phát từ chính bản thân người lao động. Do đó,
"người lao động có thể trở thành chủ tư bản không phải từ sự phổ biến của
quyền sở hữu tập hợp vốn như trong quan hệ tư bản - công nhân mà từ sự thu
thập tri thức và kỹ năng có thể đem lại giá trị kinh tế. Điều đó có nghĩa là, với
tri thức và kỹ năng, người lao động có thể đòi hỏi một giá cao hơn cho sức
lao động của họ bỏ ra" [200].
Trong các lý thuyết về phát triển hiện đại, con người được coi là động
lực quan trọng nhất của sự phát triển, là yếu tố quyết định việc tổ chức sử dụng
hiệu quả các nguồn lực khác, không dựa trên nền tảng phát triển cao của nguồn
nhân lực thì không thể sử dụng hợp lý, thậm chí có thể làm cạn kiệt, huỷ hoại
các nguồn lực khác. Các lý thuyết này cho rằng một quốc gia muốn phát triển
kinh tế xã hội nhanh và bền vững phải hội đủ 5 yếu tố và 3 điều kiện cần thiết.
Năm yếu tố đó là: con người và nguồn nhân lực; vốn tài chính; khoa học công
nghệ; trình độ quản lý; khả năng tiếp thị. Ba điều kiện là: trí tuệ và đội ngũ trí
thức; chăm sóc lợi ích người lao động; tạo mối liên thông, liên kết ở trong nước


10
với các nước trên thế giới. Trong đó, yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế - xã
hội với tốc độ nhanh là con người và khoa học công nghệ.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố nguồn nhân lực, rất nhiều tác giả

đã lấy ví dụ minh chứng từ sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của các nước khu
vực Đông Á. Tác phẩm The East Asian Miracle: economic growth and public
policy (Thần kỳ Đông Á: Phát triển kinh tế và chính sách công) của World
Bank (1993) [213], hay bài viết Inequality and growth reconsidered: lesson
from East Asia (Xem xét lại sự bất bình đẳng và tăng trưởng: những bài học
từ Đông Á) của 3 tác giả Nancy Birdsal, David Ross, và Richarch Sabot
(1995; 1996) [199], đều đi tới một kết luận rằng, một trong những nguyên
nhân quan trọng tạo nên thần kỳ Đông Á, khiến cho các nước này có giai
đoạn phát triển kinh tế với tốc độ gấp hai, gấp ba lần các nước phát triển ở Âu
- Mỹ chính là chính sách phát triển nguồn nhân lực với mức đầu tư và tích
luỹ vốn nhân lực cao ở các nước này. Bài viết Asia's four little dragons: a
comparison of the role of education in their development [214] (Bốn con
rồng nhỏ châu Á: một sự so sánh về vai trò của giáo dục trong phát triển)
của Paul Moris (1996; 2000) và Another look at East Asia Miracle (Một cái
nhìn khác về thần kỳ Đông Á) của Ranis G (1996) [215], đều đề cập tới
Đông Á dưới góc độ giáo dục và nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình xây dựng và
phát triển đất nước. Nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…
đã trở thành những con rồng Châu Á ở những thập kỷ cuối thế kỷ 20 và tạo
ra sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, phát triển bền vững trong những
năm đầu của thế kỷ XXI, cũng là nhờ chiến lược đúng đắn trong việc phát
triển nguồn nhân lực quốc gia.
Ở Việt Nam, vai trò quyết định của nguồn nhân lực đã và đang được
khẳng định trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong chiến lược


11
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 (Văn kiện đại hội Đảng lần IX), Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn
nhân lực được coi là một trong những bước đột phá quan trọng.

Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn Việt Nam [121]. Trong công trình này, các tác giả
đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực ở một số nước trên thế
giới dưới tác động của giáo dục - đào tạo, đồng thời nêu bật vai trò của giáo
dục - đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
GS, TS Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã
hội [86]. Cuốn sách này gồm 6 chương, nội dung chính của công trình này tập
trung làm rõ cơ sở tự nhiên hình thành nguồn nhân lực xã hội; vai trò nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội; những đặc điểm chủ yếu của nguồn
nhân lực Việt Nam; những yêu cầu và các hình thức phát triển nguồn nhân
lực; ý nghĩa của việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực xã hội trong quá trình
phát triển của một quốc gia.
Phạm Công Nhất (2007), Phát huy nhân tố con người trong phát triển
lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [81]. Trên cơ sở khẳng định phát
triển nguồn lực con người là yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, tác giả đã nêu thực trạng của nguồn nhân lực Việt
Nam và những định hướng chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng ở Việt Nam hiện nay.
Bùi Quang Bình (2009), Vốn con người và đầu tư vào vốn con người [7],
cho rằng, vốn con người là những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tích luỹ
trong mỗi con người nhờ quá trình học tập, rèn luyện và lao động. Nguồn vốn
này được khai thác sử dụng trong quá trình người lao động tham gia vào sản
xuất và được phản ánh qua năng suất lao động và hiệu quả công việc của họ.
Cùng với vốn hữu hình nó tạo ra tài sản của nền kinh tế, nhưng vốn con người


12
là phần cấu thành quan trọng nhất trong đó, góp phần vào tăng trưởng bền
vững cho nền kinh tế của mỗi nước.
Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam [56]. Công trình đã trình bày nội dung,
đặc điểm và tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam; phân
tích vai trò của nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; từ đó, đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát
triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam.
Trần Thọ Đạt, Đỗ Tuyết Nhung (2008), Tác động của vốn con người
đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh thành phố Việt Nam [31]. Công trình đã
phân tích các tác động của vốn con người đến quá trình tăng trưởng kinh tế
thông qua việc xem xét các nền kinh tế cấp tỉnh, thành phố của Việt Nam.
Mặc dù vốn con người bao gồm cả giáo dục, sức khoẻ cũng như nhiều khía
cạnh khác của vốn xã hội nhưng nghiên cứu này chỉ tập trung vào giáo dục
coi nó như là nhân tố cơ bản nhất của vốn con người. Tác phẩm cũng cho thấy
vốn con người là nhân tố quan trọng khi giải thích sự tăng trưởng kinh tế các
tỉnh, thành phố ở Việt Nam cũng như giải thích khoảng cách chênh lệch giữa
các vùng kinh tế ở Việt Nam. Tác giả cũng đưa ra những kiến nghị chính sách
nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong đó nhấn mạnh sự gia
tăng đầu tư vào giáo dục, đồng thời, chú ý tới tác động khác nhau của vốn con
người ở những vùng kinh tế khác nhau.
Cù Chí Lợi (chủ biên) (2009), Tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam [70]. Trong cuốn sách này, các tác giả trình bày các
nguồn lực tăng trưởng (bao gồm các nguồn vốn đầu tư, nhân lực và các nguồn
lực khác); Thực trạng tăng trưởng kinh tế; Đánh giá và luận giải tăng trưởng ở
Việt Nam (bao gồm các đánh giá chung và trình bày một số nguyên nhân về


13
tình trạng hiệu quả thấp của nền kinh tế; Tăng trưởng kinh tế và vấn đề chất
lượng sống (việc làm, thu nhập, đói nghèo, giáo dục, y tế, chỉ số phát triển
con người và một số vấn đề cần được cải thiện). Nghiên cứu cũng trình bày

các nhân tố tác động tới tăng trưởng ở Việt Nam, dự báo tăng trưởng trong
thời gian tới… Theo các tác giả, Việt Nam trong những năm qua đã không tận
dụng được lợi thế của thời đại trong việc đẩy cao năng suất thông qua tác
động vào nguồn vốn con người, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
chủ yếu là tăng trưởng qua số lượng của các yếu tố đầu vào. Vì vậy, nếu
không có sự điều chỉnh về mô hình và chất lượng tăng trưởng thì nền kinh tế
Việt Nam hoàn toàn có khả năng đối diện với nguy cơ giảm tăng trưởng.
Ngoài ra, chủ đề vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào. Sỉ Sổm Phon Vông Pha Chăn (2009),
với Phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
Thành phố Viêng Chăn hiện nay" [100]; Đa Von Bút Tha Nu Vông (2011),
với Phát huy nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Thủ đô Viêng Chăn hiện nay [29]; Vi La Phăn Sỉ Li Thăm (2011), với
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát triển nguồn nhân
lực ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn mới [127]; Sẳn Xay
Nha Xẻng (2011), với Phát huy vai trò của giáo dục đối với phát triển phụ
nữ ở Thủ đô Viêng Chăn [99] v.v… là những tác phẩm tiêu biểu mô tả vai
trò của nguồn nhân lực như một yếu tố đầu vào của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của Lào.
Nhìn chung, các tài liệu phong phú trên đã cho thấy một bức tranh đa
dạng, nhiều màu sắc về các nghiên cứu nguồn nhân lực trên thế giới. Tất cả các
nghiên cứu ấy đều có một nhận định chung rằng, chính nguồn nhân lực - nguồn
vốn con người - chứ không phải nguồn vốn nào khác có vai trò quan trọng nhất


14
đối với tính cạnh tranh của một nền kinh tế trong thời đại toàn cầu hoá.
Dù coi nguồn nhân lực là một loại vốn hay là động lực trong phát triển,
các công trình nghiên cứu gần đây đều thống nhất cho rằng nguồn nhân lực là
yếu tố quyết định hàng đầu cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia.

Đúng như phát biểu của ngài Federico Mayor [216], Tổng Giám đốc UNESCO
rằng "Nếu có ai hỏi tôi cái gì ngày nay làm nên sự giàu có của các nước, tôi sẽ
trả lời là không phải là khả năng công nghệ hay sức mạnh kinh tế mà là khả
năng của các công dân nước ấy...".
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về chính sách của nhà nƣớc
nhằm phát triển nguồn nhân lực
Vấn đề nguồn nhân lực dưới khía cạnh quản lý cũng nhận được sự quan
tâm khá sâu rộng của các nhà nghiên cứu. Charles Greer (2001), "Strategic
human resources management" [217] (Chiến lược quản lý nguồn nhân lực)
phân tích sự tác động qua lại giữa nguồn nhân lực với các chiến dịch quản lý
cũng như những định hướng về đầu tư phát triển nguồn nhân lực; Arthur
Sherman, George Bohlander và Scott Swell (1997) [218] "Managing human
resources" (Quản lý nguồn nhân lực) với phần tổng quan về quản lý và phát
triển nguồn nhân lực.
Cũng đề cập tới vấn đề nguồn nhân lực ở các nước châu Á, nhưng những
ấn phẩm dưới đây lại quan tâm tới khía cạnh khác của vấn đề, đó là những vấn
đề xã hội đặt ra đối với quá trình phát triển của các quốc gia đang phát triển,
kém phát triển tại châu Á. Một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như cuốn
Human resource policy and economic development [219] (Chính sách nguồn
nhân lực và phát triển kinh tế), xuất bản vào năm 1990 và tái bản năm 1991 của
Ngân hàng Phát triển châu Á, đề cập đến chính sách và xu hướng phát triển
kinh tế, biến đổi cơ cấu lao động, nguồn nhân lực lao động ở các nước đang
phát triển ở châu Á; cuốn Human resources in development along the Asian -


15
Pacific Rim [208], (Nguồn nhân lực trong phát triển ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương), nghiên cứu các chính sách kinh tế, sự thay đổi dân số, y tế, giáo
dục, các nước châu Á cũng đã rút ra những bài học về chính sách phát triển
nguồn nhân lực qua khủng hoảng tài chính, tiền tệ năm 1997. Một trong những

nguyên nhân của cuộc khủng hoảng là do chưa chú ý đúng mức đến phát huy
nội lực trong phát triển, thiếu sự độc lập về trí tuệ và năng lực quản lý nguồn
nhân lực và thị trường lao động tại chính đất nước mình.
Tác giả Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con
người phục vụ phát triển kinh tế- xã hội [40], đã làm rõ vai trò quan trọng của
giáo dục - đào tạo trong việc phát triển con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục Việt Nam để phục vụ hiệu quả việc phát triển con người.
Mai Quốc Chính (chủ biên) (1996), Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [13], đã phân tích
vai trò của nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, từ đó đề xuất những giải pháp chính sách chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở
Việt Nam [18]. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày có tính hệ thống một
số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bố, sử dụng nguồn
lực con người trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm phát
triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Ngoài ra, còn một số luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tại một số địa phương của Việt
Nam. Các nghiên cứu này, đã vận dụng lý luận về nguồn nhân lực vào phân


16
tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của các địa phương, từ đó đưa ra các
giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của các địa phương này trong thời gian tới. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu
này là Trương Tuấn Dũng (2009), Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tỉnh

Hòa Bình [20]; Trần Văn Đỉnh (2010), Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế
- xã hội tỉnh Hà Giang [35]; Nguyễn Quốc Thanh (2010), Nguồn nhân lực
cho phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Thanh Hóa [105]; Lê Thị Mai
(2005), Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre [76].
Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông (2005), Vai trò của chính sách xã hội đối
với việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay [129]. Trên cơ sở phân tích
khái quát một số khía cạnh lý luận về nhân tố con người và phát huy nhân tố
con người, đồng thời làm rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội trong việc
phát huy nhân tố con người, công trình đã phân tích rõ thực trạng và những vấn
đề đặt ra trong chính sách xã hội của Lào nhằm phát huy nhân tố con người, từ
đó, nêu phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới chính sách xã
hội để phát huy hiệu quả nhân tố con người trong những năm tiếp theo.
Ban Tổ chức Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào (2002), Chiến
lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020 [136]. Nội dung chính trong
công trình này đề cập một cách khá toàn diện, hệ thống về thực trạng nguồn
nhân lực ở nước CHDCND Lào, đặc biệt công trình đã chỉ ra những ưu điểm,
hạn chế và bài học kinh nghiệm trong công tác đào tạo phát triển nguồn nhân
lực ở nước Lào trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Công trình
cũng đã đưa ra và phân tích một hệ thống các giải pháp nhằm phát triển nguồn
nhân lực của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đến năm 2020.
Ban Tổ chức Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào (2007), Công
tác phát triển nguồn nhân lực đối với tám tỉnh miền Bắc và chín tỉnh miền


17
Trung, Nam nước CHDCND Lào [137]. Đề tài thuộc Chương trình Khoa học
Công nghệ cấp Nhà nước giai đoạn 2005 - 2008. Đề tài đã nhấn mạnh và làm
rõ công tác phát triển nguồn nhân lực của CHDCND Lào trong thời gian qua.
Trong đó, tập trung các vấn đề như tính nhân đạo - nhân cách, vấn đề giáo

dục đào tạo, vấn đề phát triển con người Lào trở thành người tốt, có lòng yêu
nước, yêu chế độ dân chủ nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội; chính sách và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phải đầu tư nhiều hơn nữa
vào giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng các bậc học; phải đảm bảo dịch
vụ y tế và bảo hiểm xã hội cho nhân dân các dân tộc Lào, đặc biệt là những
người nghèo và gia đình chính sách xã hội; về lao động và tạo công ăn việc
làm phải đầu tư nhiều hơn nữa xây dựng các trường trung học chuyên nghiệp
trên cả nước. Cuối cùng, đề tài đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân
lực gồm: chiến lược và chính sách đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng và
phải dành ngân sách thoả đáng cho chiến lược này hơn nữa... để đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực ở Lào đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Xư Lao Xô Tu Ky (2007), Nguồn nhân lực cho công nghiệp hiện đại
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Viênhoáhăn [130]. Trong công trình này, tác giả đã
trình bày khái niệm, những yêu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình CNH,
HĐH; trình bày kinh nghiệm của Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực phục
vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Đồng thời, tác giả đã phân tích, đánh giá khá rõ nét
thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Viêng Chăn, qua đó đề ra mục tiêu và các
giải pháp nâng cao hiệu quả chiến lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh đáp
ứng yêu cầu phát triển của địa phương và đất nước trong giai đoạn mới.
Nguyễn Hải Hữu (2011), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [175]. Ở đây, tác giả đã nhấn mạnh những
thay đổi cơ bản về nhận thức và tư duy đối với phát triển nguồn nhân lực
trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2009). Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh công cuộc


18
đổi mới ở CHDCND Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần đưa
đất nước Lào đi nhanh hơn vào quá trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, quá trình
này cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, nhất là vấn đề phát triển nguồn
nhân lực. Lực lượng lao động qua đào tạo nghề còn thấp chưa đáp ứng được

nhu cầu phát triển của nền kinh tế, là lực cản đối với sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội ở nước CHDCND Lào. Do vậy, tác giả nhấn mạnh để quá
trình CNH, HĐH được đẩy mạnh và phát triển thì nguồn nhân lực nói chung
và nguồn nhân lực chất lượng cao ở CHDCND Lào cần được chú trọng phát
triển cả về lượng và chất. Đặc biệt, theo tác giả cần có một giải pháp đồng bộ
để nâng cao hiệu quả công tác phát triển nguồn nhân lực của Lào đáp ứng yêu
cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Đình Cử (2011), Những giải pháp góp phần thực hiện đột
phá: Phát triển tài nguyên con người nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và
bền vững ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [163]. Trong bài viết, tác
giả đã phân tích thực trạng chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực
nhằm làm rõ vì sao cần phát triển nguồn tài nguyên con người lại được lựa
chọn là một trong những khâu đột phá ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào. Qua đó, tác giả đưa ra một số kết luận về nguyên nhân dẫn đến chất
lượng nguồn nhân lực chưa cao và cuối cùng đề xuất một số giải pháp góp
phần thực hiện khâu đột phá nói trên.
Đọc Mại Phạ Kạ Xun (2013), Đầu tư Nhà nước phát triển nguồn nhân
lực tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [174]. Công trình đã phân tích, lý
giải một cách khoa học, hệ thống và có tính thực tiễn cao, đáp ứng được mục
tiêu đặt ra: đánh giá thực trạng đầu tư của Nhà nước Lào vào phát triển nguồn
nhân lực; đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đầu tư
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước trong thời kỳ phát triển CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.


×