Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

KINH TE CHINH TRI (lop pho soan)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.29 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA KINH TẾ
HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ - MÁC LÊ NIN (45T – 2 tín chỉ)
CÂU 1. Trình bày sự ra đời của sản xuất hàng hóa và những ưu thế của
sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cấp tự túc; cho biết những biện pháp để
thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa ở vùng sâu vùng xa?
Sản xuất hàng hoá: là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm của nó dùng để trao
đổi, mua bán. Sản xuất hàng hoá khác với sản xuất tự cấp, tự túc là dùng để phục vụ
cho nhu cầu của mình.
Hai trình độ của sản xuất hàng hoá: sản xuất hàng hoá giản đơn và sản xuất
hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá:
- Có sự phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hoá sản xuất, mỗi người
sản xuất một hoặc vài sản phẩm. Nó là điều kiện cần cho sự ra đời của sản xuất hàng
hoá.
- Có chế độ tư hữu và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất:
nghĩa là phải có người sở hữu sản phẩm đứng ra quan hệ trao đổi mua bán, sản phẩm
mới trở thành hàng hoá. Nó là điều kiện đủ cho sự ra đời của sản xuất hàng hoá.
* Những ưu thế của sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cấp, tự túc:
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: muốn hàng hoá chất lượng, mẫu mã
phù hợp, giá thành hợp lý thì đòi hỏi người sản xuất phải luôn năng động cải tiến kỹ
thuật, áp dụng công nghệ hiện đại…từ đó thúc đẩy LLSX phát triển, nâng cao năng
suất lao động.
- Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất: khi sản xuất hàng hoá phát triển nó
đẩy mạnh quá trình hiệp tác và phân công lao động sâu sắc hơn, dẫn đến quá trình tích
tụ, tập trung sản xuất mạnh mẽ, dẫn đến quá trình xã hội hoá sản xuất ngày càng phát
triển.
- Tạo ra nhiều hàng hoá đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: sản xuất hàng
hoá tạo ra sản phẩm đa dạng, phong phú nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu dùng của
xã hội cả về vật chất lẫn tinh thần.


- Tạo điều kiện cho nền sản xuất lớn ra đời: sản xuất hàng hoá phát triển tạo
nguồn vốn ban đầu cho quá trình công nghiệp hoá và cách mạng kỹ thuật để từng
bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn ra đời.


* Có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở vùng sâu, vùng
xa nhưng cần tập trung các biện pháp sau:
- Thứ nhất, quy hoạch và đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật như
hệ thống đường giao thông, hệ thống lưới điện,…nhằm phục vụ nhu cầu dân sinh và
đảm bảo các yêu cầu cần thiết cho hoạt động sản xuất hàng hoá.
- Thứ hai, xây dựng được nguồn nhân lực tại chỗ có trình độ, chất lượng.
- Thứ ba, tiếp cận thị trường và tìm hiểu, khai thác những ngành nghề, sản
phẩm là thế mạnh của vùng mà xã hội đang cần, có những chính sách thu hút đầu tư
của các doanh nghiệp đến sản xuất và kinh doanh (ví dụ: bao tiêu sản phẩm, liên kết
sản xuất giữa các vùng với nhau, giảm phương thức sản xuất nhỏ lẻ…).
- Thứ tư, có những cơ chế đặc thù dành riêng cho từng vùng thúc đẩy hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hoá và xây dựng chính quyền thân thiện, gần gũi, tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp hoạt động sản xuất hàng hoá.
- Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa 03 nhà: nhà nông, nhà doanh nghiệp và nhà
nước giúp cho nông dân tiếp cận kỹ thuật, công nghệ mới, có chính sách ưu đãi về
vốn, đồng thời hỗ trợ về giá đầu vào đầu ra của sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng,
hạ giá thành sản phẩm. Từ đó, sản phẩm có sức cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất hàng
hoá ở vùng sâu vùng xa hiệu quả.
CÂU 2. Hàng hoá là gì? phân tích hai thuộc tính của hàng hoá; tại sao hàng
hóa lại có hai thuộc tính? Vận dụng những vấn đề đó vào sản xuất kinh doanh
như thế nào?
Khái niệm Hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thoả mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán; Hàng hóa bao gồm cả sản phẩm hữu hình và sản phẩm
vô hình.

Từ khái niệm trên ta thấy:
- Hàng hoá phải là sản phẩm của lao động, còn những sản phẩm không do lao
động tạo ra, mặc dù rất cần thiết cho con người như: nước, không khí… đều không
phải là hàng hoá…
- Hàng hoá phải qua trao đổi mua bán, nếu sản xuất ra để tiêu dùng như người
nông dân sản xuất thóc để ăn, dệt vải để mặc… thì sản phẩm đó không phải là hàng
hoá.
- Hàng hoá phải được tiêu dùng, nếu nó là vô dụng thì cũng không phải là hàng
hoá.
Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá: Hàng hoá có hai thuộc tính:
+ Giá trị sử dụng


+ Giá trị
* Giá trị sử dụng của hàng hoá
Là công dụng hay tính có ích của vật phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người; Do thuộc tính tự nhiên quyết định, Một vật có thể có nhiều công dụng;
Khoa học kỹ thuật càng PT thì con người càng phát hiện ra nhiều công dụng của vật
phẩm; GTSD là phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng của hàng hoá do công dụng của nó quy định. Công dụng đó
nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người, có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá
nhân như: quần áo, giầy dép, lương thực, thực phẩm,... có thể là nhu cầu cho tiêu
dùng sản xuất như máy móc, nguyên liệu, vật liệu phụ...
Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hoặc một số công dụng nhất định. Chính
công dụng đó làm cho nó có giá trị sử dụng, giá trị sử dụng được phát hiện dần trong
quá trình phát triển của khoa học, kĩ thuật và lực lượng sản xuất.
Ví dụ: than đá ngày xưa chỉ dùng để đun, sưởi, khi phát minh ra nồi súpde thì
than đá được dùng làm chất đốt, về sau ngoài các công dụng đã có nó được dùng làm
nguyên liệu cho công nghiệp hoá chất...
=> Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của nó quyết định. Vì

vậy giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. C.Mác viết: "giá trị sử dụng cấu thành
cái nội dung vật chất của của cải, chẳng kể hình thái xã hội của của cải đó như thế
nào"
Như vậy, trong bất kì một xã hội nào, của cải của xã hội xét về mặt vật chất
cũng đều là một lượng nhất định những giá trị sử dụng. Xã hội càng tiến bộ thì số
lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất
lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không
phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho
người khác, cho xã hội thông qua trao đổi, mua - bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị
sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
* Giá trị của hàng hoá
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi
là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Thực chất: trao đổi là trao đổi lao động ẩn dấu trong các hàng hóa (Lao động
xã hội), Giá trị của HH là lao động xã hội kết tinh trong HH, nó biểu hiện quan hệ
giữa những người SXHH với nhau; GT là một phạm trù lịch sử, gắn liền với SXHH.
Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng
khác nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào
đó.


Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì
giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị sử
dụng của chúng, bởi vì, giá trị sử dụng của vải là để mặc, hoàn toàn khác với giá trị sử
dụng của thóc là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động,
đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao
đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hoá cho nhau chẳng qua là trao đổi
lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hoá ấy.
Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hoá là cơ sở chung của việc trao đổi và

nó tạo thành giá trị của hàng hoá.
Như vậy, giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá
kết tinh trong hàng hoá. Còn giá trị trao đổi mà chúng ta để cập ở trên, chẳng qua chỉ
là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị
trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng
hoá. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng
hoá.
Tại sao hàng hóa lại có hai thuộc tính:
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị là vì lao động sản
xuất hàng hóa có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ
thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Không
phải có hai thứ lao động khác nhau, mà chỉ có một loại lao động sản xuất hàng hóa,
nhưng loại lao động đó được xem xét ở hai mặt. Nếu với mục đích tìm hiểu xem
người lao động đã lao động như thế nào, bằng cách nào để tạo ra sản phẩm hàng hóa
thì đó là lao động cụ thể. Cũng lao động sản xuất hàng hóa đó, nhưng lại xem xét để
biết nó tốn bao nhiêu sức lực, hết bao nhiêu thời gian thì đó là lao động trừu tượng.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính: thống nhất 2 thuộc tính của 1 hàng hóa 2 giá
trị thuộc tính mâu thuẩn với nhau, tách rời nhau cả không gian và thời gian nhưng thị
trường quyết định.
Vận dụng những vấn đề đó vào sản xuất kinh doanh như thế nào
- Đẩy mạnh phân công lao động để phát triển kinh tế hàng hoá, đáp ứng nhu
cầu đa dạng và phong phú của xã hội.
- Phải coi trọng cả 2 thuộc tính của hàng hoá để không ngừng cải tiến mẫu mã,
nâng cao chất lượng, hạ giá thành.
- Trong sản xuât kinh doanh phải chú ý cả hai mặt giá trị sử dụng và giá trị của
hàng hóa
+ Giá trị sử dụng: phải làm cho hàng hóa tốt, bền, đẹp,có nhiều tính năng, tác
dụng
+ Về giá trị: Muốn thực hiện được giá trị tức là muốn bán được hàng hóa thì
phải làm sao cho giá trị cá biệt của nó thấp hơn giá trị xã hội thì mới có lãi: do vậy



phải đổi mới kỹ thuật và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực
trong sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động v.v.
Vì GTSD là vật mang giá trị, nên những người SXHH phải quan tâm đến chất
lượng, mẫu mã và giá thành sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu
dùng, thì mới bán được hàng hóa. Còn người tiêu dùng phải “thông thái” khi mua
hàng thì mới lựa chọn được những hàng hóa có GTSD và giá cả phù hợp.
CÂU 3. Phân tích nhận định sau đây: “Lượng giá trị của một hàng hóa tỷ lệ
thuận với thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, tỷ lệ
nghịch với năng suất lao động và không thay đổi khi cường độ lao động tăng lên”
Lượng giá trị của một hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị hàng hóa là do lượng lao động tiêu hao
để làm ra hàng hóa quyết định. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính theo thời gian
lao động.
Lượng giá trị của một hàng hóa tỷ lệ thuận với lượng lao động hao phí: Giá trị
của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa,
nó phản ánh quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa; Lượng giá trị của
hàng hóa là số lượng lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa và
được đo bằng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa. Đó là thời gian cần
để sản xuất hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội. Tức là với trình
độ kỹ thuật trung bình , trình độ tay nghề trung bình và cường độ lao động trung
bình. Điều kiện sản xuất bình thường của xã hội thông thường được quyết định bởi
điều kiện sản xuất của khối lượng chủ yếu của loại hàng hóa đó. Thông thường thời
gian lao động xã hội cần thiết được xác định theo thời gian lao động cá biệt của những
người sản xuất và cung ứng tuyệt đại bộ phận loại hàng hóa đó trên thị trường; Trong
quá trình sản xuất hàng hóa, mỗi người có lượng lao động hao phí khác nhau, đó là
lao động hao phí cá biệt. Hao phí này là cơ sở để xác định giá trị cá biệt của hàng hóa.
Trên thị trường không thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hóa để trao đổi mà phải dựa
vào giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian

lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Yêu cầu của việc xác định lượng
giá trị hàng hóa: quy đổi lao động phức tạp thành lao động giản đơn để tính. Theo đó,
lượng giá trị hàng hóa bầng thời gian lao động giản đơn trung bình cần thiết.
Lượng giá trị của một hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất
lao động được đo bằng hai cách. Một là, số lượng sản phẩm
Được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hai là thời gian lao động chi phí để sản
xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động được quyết định bởi: trình độ tay
nghề của người lao động; trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật –công nghệ và mức độ
ứng dụng vào sản xuất; việc tổ chức sản xuất của xã hội; quy mô và hiệu quả của tư
liệu sản xuất; những điều kiện tự nhiên.
Khi năng suất lao động tăng lên, thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị
hàng hóa giảm xuống, do đó lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa ít đi, nên
giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm. Ngược lại khi năng suất lao động giảm xuống,


thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa tăng lên, do đó lượng lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hóa nhiều lên, nên giá trị của môt đơn vị hàng hóa tăng
lên.
Quy luật về sự biến đổi giá trị hàng hóa yêu cầu người sản xuất hàng hóa phải
lấy thời gian lao động xã hội cần thiết để so sánh với thời gian lao động cá biệt của
mình. Tỷ lệ thời gian lao động cá biệt đã hao phí để sản xuất hàng hóa với thời gian
lao động xã hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của việc thực hiện giá trị và
kinh doanh.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, năng suất lao động sẽ không
ngừng tăng lên, số lượng hàng hóa được sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian
sẽ tăng, lượng giá trị trong từng đơn vị hàng hóa ngày càng giảm nhưng tính phức tạp
của lao động ngày càng gia tăng lại sẽ làm cho tổng giá trị xã hội gia tăng
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với quá trình sản xuất, kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay: Bất kể
nền kinh tế thị trường thuộc loại hình và tính chất xã hội như thế nào, thì hạ thấp chi

phí sản xuất bao giờ cũng là biện pháp quan trọng để doanh nghiệp đạt hiệu quả. Các
biện pháp đó là: Nâng cao năng suất lao động, giảm bớt chi phí lao động, đây là nhân
tố có tính quyết định nhằm hạ thấp giá trị các biệt của doanh nghiệp, bởi vì nâng cao
năng suất lao động tức là hạ thấp mức tiêu hao lao động sống và cả lao động vật hóa
trong giá thành sản phẩm; Nâng cao năng suất lao động sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng
tiền công thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động, từ đó giảm bớt hàm lượng tiền
công trong giá thành của từng sản phẩm; Tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật tiên
tiến, giảm bớt hao phí nguyên nhiên vật liệu trên từng đơn vị sẩn phẩm; Sử dụng hợp
lý thiết bị máy móc, nâng cao hiệu suất sử dụng thiết bị; Nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm thiểu thứ phẩm và phế phẩm nhằm giảm bớt lãng phí lao động sống và
lao động vật hóa; Tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp và giảm bớt các loại chi phí
không mang tính sản xuất.
CÂU 4. Phân tích nguồn gốc, bản chất và các chức năng của tiền.
*Nguồn gốc:
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hóa, hay của quá trình phát triển của các hình thái giá trị của hàng hóa.
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên là hình thái mà giá trị của hàng hóa này biểu
hiện ở một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1 cái rìu = 20 kg thóc.
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị là hình thái mà giá trị của hàng hóa
đuệoc biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác.
Ví dụ: 1 con cừu = 40 kg thóc hoặc 20kg chè


- Hình thái chung của giá trị là hình thái mà tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá
trị ở một hàng hóa có vai trò làm vật ngang giá chung.
Ví dụ: 2 cái rìu hoặc 40kg thóc = 1 con cừu
- Hình thái tiền tệ là hình thái khi vật ngang giá chung được cố định ở một hàng
hóa độc tôn và phổ biến.
Lúc đầu có nhiều hàng hóa đóng vai trò tiền tệ, cuối cùng được cố định lại ở vàng.

Ví dụ: 40 kg thóc
hoặc

10 kg chè

= 2 gram vàng

2 cái rìu
Như vậy, tiền tệ ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và
trao đổi hàng hóa, đồng thời là quá trinh phát triển của các hình thái giá trị.
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả hàng
hóa, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa.
*Bản chất:
Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa phân làm hai cực: một cực là những hàng
hoá thông thường đại biểu cho những giá trị sử dụng, cực khác là hàng hóa đóng vai
trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị.
Chức năng của tiền tệ có 5 chức năng cơ bản:
- Thước đo giá trị.
Chức năng thước đo giá trị là chức năng cơ bản nhất, với chức năng này, tiền
dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa.
Tiền làm thước đo giá trị cho các hàng hóa khác vì bản thân nó cũng có giá trị.
Tiền làm chức năng thước đo giá trị không nhất thiết phải là tiền mặt, tiền thật, mà chỉ
cần tiền trong ý niệm, tiền tượng trưng.
Khi giá trị biểu hiện thành tiền thì gọi là giá cả. Như vậy, giá trị là nội dung bên
trong, còn giá cả là hình thức biểu hiện ở bên ngoài, khi giá trị thay đổi thì giá cả biến
đổi theo.
- Phương tiện lưu thông.
Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ là mô giới trong việc trao đổi
hàng hóa. Khi tiền tệ làm mô giới trong quá trình trao đổi thì gọi là lưu thông hàng

hóa và có công thức:
H – T – H (Hàng - Tiền – Hàng)
Tiền làm chức năng phương tịên lưu thông phải là tiền vàng thật, chư không
phải tiền trong ý niệm. Tiền là phương tiện lưu thông phải có một khối lượng nhất


định. Thông thường, khối lượng này bằng tổng số giá cả hàng hóa chia cho số vòng
quay của những đồng tiền cùng loại.
Công thức:
M=

P.Q
V

Trong đó:
M – là khối lượng tiền cần cho lưu thông
P – Là giá cả của hàng hóa
Q – Là khối lượng hàng hóa lưu thông
V – Là số vòng quay của đồng tiền cùng loại
Tiền làm chức năng phương tiện lưu thông làm cho việc lưu thông hàng hóa trở
nên thuận lợi. Nhưng đồng thời cũng làm cho việc mua – bán hàng hóa tách rời nhau
cả về không gian và thời gian.
- Phương tiện cất trữ.
Làm phương tiện cất trữ, tiền được rút khỏi lưu thông và được cất trữ. Làm
phương tiện cất trữ, tiền tệ nhất thiết phải là tiền vàng thật.
Tiền tệ làm phương tiện cất trữ có vai trò to lớn, nó tự phát điều tiết khối lượng
tiền trong lưu thông hàng hóa. Nếu sản xuấ hàng hóa giảm sút, lượng hàng hóa lưu
thông ít thì một phần tiền rút khỏi lưu thông và được cất trữ. Ngược lại, khi sản xuất
hàng hóa phát triển, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng, thì những đồng tiền đó được
quay trở lại lưu thông.

- Phương tiện thanh toán.
Khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó, tất yếu dẫn đến tình
trạng mua – bán chịu, do đó tiền có thêm chức năng thanh toán.
Tiền làm phương tiện thanh toán là tiền dùng để chi trả sau khi công việc mua
bán đã hoàn thành.
Thí dụ: Trả tiền mua hàng chịu, thuê nhà, nộp thuế…
Trong quá trình thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, xuất hiện nhiều
hình thức của tiền: tiền tín dụng, tiền sec…nên giảm được tiền mặt. Do đó, khi tiền
làm phương tiện thanh toán thì quy luật khối lượng tiền cần cho lưu thông được bổ
sung như sau:
Công thức: M=A-B+C-D
V
Trong đó:
M - Khối lượng tiền cần cho lưu thông


A - Tổng số giá cả hàng hóa
B - Tổng số giá cả hàng hóa bán chịu
C - Tổng số giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán
D - Tổng số giá cả hàng hóa khấu trừ nhau
V- Tốc độ vòng quay của đồng tiền cùng loại.
- Tiền tệ thế giới.
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biển giới quốc gia thì tiền tệ làm
chức năng tiền tệ thế giới.
Chức năng tiền tệ thế giới là dùng tiền làm phương tiện trao đổi hàng hóa và
thanh toán quốc tế, duy chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Làm chức năng
tiền tệ thế giới thì phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện
thanh toán quốc tế.
CÂU 5. Trình bày nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong
nền kinh tế hàng hoá; vận dụng quy luật giá trị vào hoạt động sản xuất kinh

doanh như thế nào?
1. Nội dung, yêu cầu:
Định nghĩa:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Quy luật này quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến
hành trên cơ sỡ hao phí lao động xã hội cần thiết.
Do vậy, trong sản xuất đòi hỏi người sản xuất phải làm cho giá trị cá biệt bằng
hoặc thấp hơn giá trị xã hội thì mới có lãi.
Còn trong lưu thông đòi hỏi mọi người phải trao đổi ngang giá, Nghĩa là phải
bán theo giá trị thị trường.
2. Tác dụng: có 3 tác dụng sau đây:
- Một là, điều tiết sản xuất và lưu thông.
Sự điều tiết của quy luật giá trị đối với sản xuất được thể hiện ở việc phân bố
lại sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành. Sự điều tiết này tiến hành một
cách tự phát thông qua giá cả thị trường.
Nếu cung nhỏ hơn cầu,hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả cao hơn giá trị do đó
có lãi nhiều, người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, một số người khác chuyển
sang sản xuất mặt hàng này. Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển
vào ngành này nhiều hơn các ngành khác và ngược lại. Nếu cung lớn hơn cầu, hàng


hóa không bán được buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển
sang sản xuất mặt hàng khác.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất mà còn điều tiết lưu thông. Nó khơi
nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao nhờ đó mà tạo ra một sự cân đối tạm thời
giữa cung và cầu hàng hóa.
- Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Các hàng hóa sản xuất trong những điều kiện khác nhau, nên có giá trị cá biệt
khác nhau. Nhưng trên thị trường đòi hỏi người sản xuất phải tuân theo giá trị thị
trường. Do vậy, mọi người phải tìm mọi cách như: cải tiến kỹ thụât, tổ chức lại sản

xuất…để làm cho giá trị cá biệt của mình nhỏ hơn giá trị xã hội mới thu được lợi
nhuận. Lúc đầu chỉ có một vài người đi tiên phong, sau trở thành phổ biến trên toàn
xã hội. Như vậy, do tác dụng của quy luật giá trị đã thúc đẩy lực lựơng sản xuất phát
triển.
- Ba là, phân hoá người sản xuất.
Quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải đảm bảo thời gian lao
động xã hội cần thiết. Do vậy người nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội sẻ
phát tài, trở nên giàu có. Ngược lại, người nào có giá trị cá biệt của hàng hóa cao hơn
giá trị xã hội sẻ ở vào thế bất lợi, làm ăn thua lỗ và phá sản.
Như vậy, do tác dụng của quy luật giá trị đã đưa tới sự phân hóa người sản xuất
hàng hóa, sự phân hoá này là cơ sỡ kinh tế cho phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
*Vận dụng vào sản xuất kinh doanh:
- Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao
dịch trên sàn giao dịch chứng khoán , thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA.
WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của
mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập quốc tế hội nhập
đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức canh tranh giữa các
doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước
ngoài , giữa các cá nhân trong nước và các nhân nước ngoài.
- Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế
năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con
đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tạo nên sự sản xuấ hiệu
quả nhất.
Sự năng động thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Vì, việc
phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các
thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều



hàng hóa thu lợi nhuận hay nâng cao trình độ sản xuất một ngành, một lĩnh
vực nhất định.
- Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc.
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận, sự đầu tư trong nước
và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy
quá trình hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, quy luật giá trị tác động có tác dụng giáo dục những cán bộ
lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất hợp lý, tôn trọng kỉ luật, học hỏi tiềm lực của sản
xuất, tính toán chính xác, nắm bắt tình hình thực hiện của sản xuất, biết tìm cách lực
lượng dự trữ tiềm tàng giấu kín trong sản xuất.
CÂU 6. Trình bày mâu thuẫn trong công thức thức chung của tư bản và
giải thích tại sao trao đổi ngang giá mà nhà tư bản vẫn thu được giá trị thặng
dư?
Để giải quyết mâu thuẫn chung của tư bản trước hết phải nghiên cứu 2 lưu
thông sau:
- Tiền: là sản vật cuối cùng trong lưu thông hàng hóa đồng thời cũng là hình thức
biểu hiền đầu tiên của tư bản,bản thân tiền ko phải là tư bản.
- Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức H-T-H (1) còn
tiền được coi là tư bản thì vận động theo công thức T-H-T (2).
- Sự giống và khác nhau giữa 2 công thức là:
+ Giống nhau:
Đều do 2 yếu tố cấu thành nên là hàng và tiền.
Đều chứa đựng 2 hành vi đối lập nhau là mua và bán.
Đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và bán khác nhau.
+ Khác nhau:
Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H-T) và hành vi mua
(T-H), điểm xuất phát và kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian
nhưng mục đích là gía trị sử dụng.
Ngược lại lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T-H) và kết thúc
bằng hành vi bán (H-T), tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc còn hàng hóa

đóng vai trò trung gian,
Tiền trở thành tư bản khi đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Công thức T-H-T' với T'=T+m là công thức chung của tư bản, điểm khác biệt lớn nhất
giữa (1) và (2) là sự lớn lên của đồng tiền.


 Mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
+ Mua bán ngang giá.....
+ Mua bán ko ngang giá......
Giải thích: Ta lấy 01 ví dụ
Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10 $. Để biến
số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc
là 2 $; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày lao động là 12 giờ; trong
một giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả
định trong quá trình sản xuất, sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì
nhà tư bản phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg sợi) mà nhà tư bản
thu được cũng là 15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù
đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa sản
xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả thuận thì:

Chi phí sản xuất

Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)

- Tiền mua bông (20 kg): 20$Tiền hao mòn máy móc: 4$- Tiền
mua sức lao động trong một
ngày:3$ Tổng cộng 27$


- Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20$- Giá
trị của máy móc được chuyển vào sợi: 4$- Giá trị
mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ
lao động: 6$ Tổng cộng: 30$

Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của
sản phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30$. Vậy
27 $ ứng trước đã chuyển hoá thành 30$, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó
tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản. Nhưng nếu nhà tư bản sán xuất
27$ và bán 27$ tức là trao đổi ngang giá thi nhà tư bản vẫn có giá trị thặng dư là 3$
của giá trị lao động hay còn gọi là lấy công làm lời.
CÂU 7. Hãy thông qua một ví dụ để trình bày cách làm tăng giá trị (cách làm
giàu) của nhà tư bản; từ đó rút ra định nghĩa về thời gian lao động tất yếu, thời
gian lao đông thặng dư, ngày lao động và định nghĩa đầy đủ về tư bản.
-Để hiểu bản chất quá trình sản xuất giá trị thặng dư diễn ra như thế nào ta tìm
hiểu qua ví dụ sau: Để sản xuất ra 10kg sợi thì cần có bông, một nhà tư bản chi phí
các yếu tố sản xuất như sau: mua 10kg bông hết 20.000 đơn vị tiền tệ; mua sức lao
động của công nhân trong 01 ngày (10 giờ) hết 5.000 đơn vị tiền tệ; Hao mòn máy
móc để chuyển 01kg bông thành sợi hết 3.000 đơn vị tiền tệ. Giả sử trong 05 giờ đầu
của ngày lao động, bằng lao động cụ thể, dụng máy móc cán và xe 10 kg bông thành


sợ, theo đó giá trị của bông (20.000) và phần hao mòn máy móc (3.000) được chuyển
vào sợi; bằng lao động trừu tượng, người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới
bằng sức lao động (5.000). Như vậy giá trị của 10 kg sợi là 28.000đơn vị tiền tệ.
Nếu nhà tư bản chỉ yêu câu người công nhân làm việc trong 5 giờ thì nhà tư bản
không có lợi lộc gì, không đạt được mục đích là kiếm giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư
bản mua sức lao động trong một ngày(10 giờ) thì phải sử dụng số hàng đã mua đó
trong cả ngày.
Trong 5 giờ lao động tiếp theo của ngày lao động, nhà tư bản chỉ phải chi phí

các yếu tố sản xuất như sau: mua thêm 10 kg bông hết 20.000 đơn vị tiền tệ; hao mòn
máy móc để chuyển 10 kg bông thành sợi hết 3.000 đơn vị tiền tệ. Quá trình lao động
lại tiếp tục diễn ra và kết thúc quá trình này, người công nhân lại tạo ra 10 kg sợi có
giá trị 28.000 đơn vị tiền tệ.
Như vậy sau một ngày nhà tư bản đã có 20 kg sợi với giá trị là 56.000 nhưng
chỉ phải bỏ ra 51.000 so với số tư bản ứng trước (51.000) sản phẩm sợi thu được có
giá trị lớn hơn là 5.000. Đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được.
Vậy giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không và tư bản là giá trị đem lại
giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Mục đích của nhà tư bản đã đạt được, mặc dù vẫn theo đúng quy luật trao đổi:
mua bán ngang giá. Đến đây chúng ta có thể giải thích rõ hơn mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản: trong quá trình lưu thông, nhà tư bản trả đúng giá trị của hàng
hóa sức lao động; trong quá trình sản xuất, công nhân tạo ra một giá trị mới bằng giá
trị sức lao động của mình cộng thêm giá trị thặng dư; nhà tư bản đem bán hàng có
chứa đựng giá trị thặng dư, nên thu được nhiều tiền hơn so với số tiền bỏ ra ban đầu.
- ĐN về thời gian lao động tất yếu: là bộ phận thời gian để tái sản xuất giá trị
sức lao động được gọi là thời gian lao động cần thiết.
+ ĐN về thời gian lao động thặng dư: là bộ phận thời gian sản xuất ra giá trị
thặng dư.
+ ĐN về ngày lao động: trong quá trình làm tăng thêm giá trị, ngày lao động
được chia làm hai bộ phận: thời gian lao động cần thiết hay tất yếu và thời gian lao
động thặng dư.
+ ĐN về tư bản: giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột sức lao động
của công nhân làm thuê.
CÂU 8. Tại sao nói “sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư
bản bằng cách không ngừng mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật” là quy luật
kinh tế cơ bản và tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản?
Trả lời: Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng tồn tại một quy luật kinh tế
phản ánh mặt bản chất nhất của phương thức sản xuất đó, quy luật kinh tế đó được gọi

là quy luật kinh tế cơ bản.


Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, thực
chất của quy luật này là sản xuất nhiều giá trị thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột
công nhân làm thuê.
Như C.Mác đã chỉ rõ, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản. giá trị thăng dư phản ảnh đầy đủ nhất bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản, phản ánh mối quan hệ giai cấp tư sản bốc lột giai cấp công nhân làm thuê.
Quy luật giá trị thặng dư vạch rõ mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
và phương tiện để đạt mục đích đó: mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá
trị thặng dư càng nhiều càng tốt; phương tiện và thủ đoạn để có nhiều giá trị thặng dư
là tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý. So với phương thức bóc lột của
các xã hội trước chủ nghĩa tư bản thì phương thức bóc lột giá trị thặng dư có điểm
khác biệt: khác biệt bóc lột là không giới hạn; phương pháp bóc lột rất tinh vi hiện
đại, dựa trên cơ sở sự phụ thuộc về kinh tế và biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức
một quan hệ mua bán sòng phẳng giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê.
Tác động của quy luật giá trị thặng dư: sản xuất nhiều giá trị thặng dư là mục
đích, là động lực thúc đẩy sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển và bị thay thế bởi một
phương thức sản xuất tiến bộ hơn.
CÂU 9. Phân tích bản chất và các hình thức cơ bản của tiền công; tại sao
nói hình thức của tiền công đã xuyên tạc bản chất của tiền công?
* Bản chất của tiền công: Bản chất của tiền công dưới CNTB là hình thức
biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài
là giá cả của lao động. Công nhân làm thuê cho nhà tư bản trong một thời gian nhất
định, sản xuất cho nhà tư bản một số hàng hóa nhất định được trả một khoản tiên công
nhất định, tiền công đó là giá cả lao động, do đó toàn bộ lao động mà người công
nhân hao phí đều được nhà tư bản trả công đầy đủ, không có bóc lột. thực ra tiền công
không phải là giá cả lao động, lao động không phải là hàng hóa, lao động không phải
là đối tượng mua bán được vì:

Một là, nếu lao động bị đem đi bán thì cũng như mọi thứ Hàng hóa khác,
lđộng phải có giá trị, mà giá trị lại được đo bằng thời gian lđộng xã hội cần thiết;
Hai là, lđộng đòi hỏi phải có tư liệu sản xuất, nhưng công nhân không có tư
9liệu sx, nên một khi lđ thực sự bắt đầu thì nó không thuộc về người công nhân nữa,
do đó họ không thể bán lđộng được;
Ba là, bán lđộng có nghĩa là đổi lđộng sống lấy lđ vật hóa dưới hình thức tiền
tệ. Như vậy lđ không thể là hàng hóa và do đó không thể có giá trị. Cái mà công nhân
bán cho nhà tư bản chính là sức lđộng. Tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là
hình thức chuyển hóa của giá trị sức lao động thành giá cả sức lao động. Bản chất của
tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài là giá
cả của lđộng.
* Các hình thức cơ bản của tiền công: tiền công được trả dưới hai hình thức:
tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.


Một: Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó
ít hay nhiều tùy theo thời gian lđ của công nhân (giờ, ngay, tháng) dài hay ngắn. tiền
công tính theo thời gian , nhà tư bản áp dụng thủ đoạn bóc lột tinh vi: kéo dài ngày lđ
mà không tăng tiền công ngày; kéo dài ngày lđộng và tăng tiền công ngày theo một tỷ
lệ không tương xứng; tăng cường độ lđ.
Hai: Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó
phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đã làm ra hoặc số lượng công việc đã hoàn thành
trong một thời gian nhất định. Đơn giá tiền công được xác định bằng cách lấy tiền
công trung bình một ngày của một công nhân chia cho số lượng sản phẩm của một
công nhân làm ra trong một ngày bình thường. C.Mác cho rằng tiền công tính theo
sản phẩm là hình thức tiền công thích hợp nhất với phương thức sx TBCN vì: một là,
nó có tác dụng kiểm tra chất lượng của lđộng, theo đó sản phẩm phải có chất lượng
trung bình thì mới được trả công theo giá đã thỏa thuận; hai là, là thước đo cường độ
lđộng một cách chính xác, theo đó nếu một công nhân trong một ngày không sx ra
được một số lượng sp nhất định, sẽ bị sa thải; ba là, do lợi ích cá nhân thúc đẩy, công

nhân sẽ làm việc hết sức mình, là điều kiện để nhà tư bản dễ dàng nâng cao cường độ
lđ; bốn là, tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí quản lý, tạo cơ sở cho chế độ gia
công ra đời.
Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế:
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà công nhân nhận được do bán slđ của mình
cho nhà tư bản. tiền công danh nghĩa là cái giá của hàng hóa sức lao động, nó phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu về Hàng hóa sức lao động trên thị trường, tiền công danh
nghĩa không phản ánh đầy đủ mức sống của công nhân. Tiền công thực tế là tiền công
được biểu hiện bằng số lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ tiêu dùng mà người công
nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Tiền công thực tế là giá cả hàng hóa slđ, nó có thể tăng lên hay giảm xuống
tùy theo sự biến động trong quan hệ cung cầu Hàng hóa sức lao động trên thị trường.
tiền công danh nghĩa có vai trò quyết định đối với tiền công thực tế. trong một thời
gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên nhưng giá cả tư liệu sinh hoạt
và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực tế giảm xuống hay tăng lên.
* Tại sao nói hình thức của tiền công đã xuyên tạc bản chất của tiền công.
Vì:
Hình thức của tiền công thì đối với công nhân làm thuê nhà tư bản áp dụng thủ
đoạn bóc lột tinh vi, kéo dài ngày lao động cho người lao động mà không tăng tiền
công lao động, có tăng nhưng cũng không tương xứng cho người lao động.
Còn bản chất của tiền công là công nhân làm thuê cho nhà tư bản trong một
thời gian nhất định, sản xuất cho nhà tư bản một số hàng hóa nhất định được trả một
khoản tiên công nhất định, tiền công đó là giá cả lao động, do đó toàn bộ lao động mà
người công nhân hao phí đều được nhà tư bản trả công đầy đủ, không có bóc lột.
Công nhân làm ra sản phẩm được trả lương thỏa đáng.


CÂU 10. Phân tích thực chất của tích luỹ tư bản và những hệ quả tất yếu của
tích lũy tư bản.
*Thực chất của tích lũy tư bản

Tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư, là biến một phần giá trị thặng dư
quay trở lại làm chức năng tư bản, thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất. Tích
lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng.
Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư, lao động không
công của người công nhân làm thuê. Tư bản tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong
toàn bộ tư bản, còn tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông ngày càng
lớn của tích lũy cho nên toàn bộ sự giàu có của giai cấp tư sản đều là kết quả của sự
chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra.
Ví dụ: Xét một mô hình sản xuất của một nhà tư bản: Năm thứ nhất quy mô sản
xuất là: 800c + 200v + 200m. Giả định 200m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho
cá nhân mà được phân thành 100m dùng để tích lũy và 100m dành cho tiêu dùng cá
nhân của nhà tư bản. Phần 100m dùng để tích lũy được phân thành 80c + 20v khi đó
quy mô sản xuất của năm sau sẽ là: 880c + 220v + 220m ( với điều kiện tỉ suất lợi
nhuận m’ không đổi). Như vậy, vào năm thứ 2 quy mô của tư bản bất biến và tư bản
khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng. Và cứ như vậy thì
quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng, tích lũy tư bản ngày càng lớn, phần giá trị
thặng dư thành tư bản ngày càng tăng lên. Đây chính là thực chất của chủ nghĩa tư
bản.
* Những hệ quả tất yếu của tích lũy tư bản
Một là, do nhu cầu tái sản xuất mở rộng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đặc
trưng của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng, có như vậy mới thu
được ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Nhưng muốn tái sản xuất mở rộng thì phải đầu
tư một lượng tư bản ngày càng lớn. Vì thế tất yếu phải tích lũy.
Hai là, do nhu cầu phải thắng đối thủ trong cạnh tranh. Cạnh tranh là biểu hiện
mang tính quy luật trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Để có điều kiện thắng đối thủ
trong cuộc cạnh tranh quyết liệt đó, cần nhiều tư bản để đầu tư. Do đó, tất yếu các nhà
tư bản phải tích lũy.
Ba là, do yêu cầu của sự phát triển khoa học- kỹ thuật trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Tư bản chủ nghĩa phát triển cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp. Việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật và khoa học

- công nghệ vào sản xuất nhằm thu được ngày càng nhiều giá trị thặng dư là việc làm
thường xuyên của các nhà tư bản. Nhưng muốn ứng dụng những thành tựu của khoa
học kỹ thuật và khoa học - công nghệ thì phải có một lượng tư bản đầu tư thỏa đáng.
Vì thế, tất yếu phải tích lũy.


Bốn là, do yêu cầu sự thống trị của tư bản đối với lao động, bởi vì chỉ có một
lượng tư bản tương đối lớn mới có thể trang bị được máy móc hiện đại, đủ điều kiện
buộc công nhân phải tuân theo một “kỹ luật công xưởng”, phải gắn liền với dây
chuyền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
* Liên hệ thực tiễn Việt Nam (nếu có)
Tích lũy tư bản làm cho nền kinh tế nước ta tích lũy được nguồn vốn phát triển
kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp cần phải
năng động sáng tạo tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo ra
hàng hóa có chất lượng tốt, năng suất cao, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên
thị trường. Đồng thời cần mở rộng hội nhập để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Đào tạo đội ngũ công nhân, lao động có tay nghề, thúc đẩy sản xuất. Bên cạnh đó
cũng có những tác động tiêu cực: Việc tích lũy tư bản không đúng mục đích làm cho
xã hội Việt Nam có sự phân hóa giàu nghèo, tạo nên sự mất bình đẳng xã hội ngày
càng lớn, tăng nguy cơ thất nghiệp, các tệ nạn xã hội tăng ./.
CÂU 11. Phân tích sự vận động của tư bản công nghiệp, từ đó rút ra khái
niệm tuần hoàn và chu chuyển của tư bản; vận dụng lý luận này vào hoạt động
sản xuất kinh doanh như thế nào?
Sự vận động của tư bản phải trải qua 3 giai đoạn, mang 3 hình thái: tư bản tiền
tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa để thực hiện 3 chức năng nhất định, cuối cùng
thực hiện mục tiêu là gia tăng giá trị tư bản.
Công thức tư bản: T- H – (SLĐ,TLSX) …SX…H’-T’
* Giai đoạn 1: tư bản tiền tệ: nhà tư bản với tư cách người mua xuất hiện (mua
sức lao động và mua tư liệu sản xuất), để chuẩn bị cho quá trình sản xuất. Chức năng
chuẩn bị sản xuất. Hình thái tư bản lúc đầu là tư bản tiền tệ, kết thúc là tư bản sản

xuất.
Công thức: T- H (TLSX, SLĐ)
* Giai đoạn 2: tư bản sản xuất: là sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động,
thực hiện quá trình sản xuất ra giá trị và giá trị thăng dư
Công thức: H – (TLSX+ SLĐ) …Sx…H’
Giai đoạn sản xuất là giai đoạn đặc biệt của tư bản, nó quyết định bởi tính chất
đặc biệt của sự kết hợp giữa TLSX và SLĐ, sự kết hợp này khác với quá trình sản
xuất thông thường. Chức năng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Hình thái ban đầu là tư
bản sản xuất và kết thúc là tư bản hàng hóa
* Giai đoạn 3: tư bản hàng hóa với nhiệm vụ bán sản phẩm, thu tiền về với giá
trị lớn hơn.
Công thức: H’-T’
Giai đoạn này nếu xét về hình thức: không khác với giai đoạn tiêu thụ hàng hóa
thông thường vì điều biến hàng hóa thành tiền, hàng hóa từ tay người bán chuyển
sang tay người mua, hình thức giá trị từ hàng hóa chuyển thành tiền, lượng giá trị


không thay đổi. Nếu xét về tính chất nó khác với giai đoạn tiêu thụ hàng hóa thông
thường vì lượng giá trị bao gồm giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư, nó là kết
quả của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai đoạn này không những thay đổi về
giá trị hàng hóa mà còn thay đổi về hình thức tư bản, là quá trình thực hiện giá trị và
giá trị thặng dư. Đây là giai đoạn đặc biệt của tuần hoàn tư bản. Chức năng bán hàng
hóa tạo ra giá trị tư bản và giá trị thặng dư nằm trong hàng hóa.
 Tuần hoàn của tư bản: là sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn, lần lượt
mang 3 hình thái, thực hiện 3 chức năng, để rồi trở về hình thái ban đầu với
lượng giá trị không những chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên.
 Chu chuyển của tư bản: là tuần hoàn của tư bản được lập đi lập lại một cách có
định kỳ.
Một lần chu chuyển của tư bản chính là tuần hoàn của tư bản; sự lặp lại chu kỳ
tuần hoàn của tư bản là chu chuyển của tư bản.

Thời gian chu chuyển: gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
 Vận dụng lý luận này vào hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào?
Trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn
của tư bản chính là nghiên cứu quá trình lưu thông để xác định rõ hơn vị trí của
lưu thông và hiểu biết đầy đủ sự vận động của tư bản cùng với những biểu hiện
của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa trong quá trình vận động đó. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp cần kết hợp phân tích lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư
bản với điều kiện hiện có của doanh nghiệp.
CÂU 12. Bản chất của lợi nhuận? nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp và
lợi nhuận ngân hàng? Từ những vấn đề đó bạn có nhận xết gì về quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa nói chung?
* Bản chất của lợi nhuận:
Do có sự chênh lệc giữa giá trị hàng hóa và chi phí sx TBCN, nên khi bán hàng
hóa theo giá cả thị trường(bằng giá trị hàng hóa) các nhà tư bản thu được một khoản
tiền lời gọi là lợi nhuận, ký hiệu bằng p. so sánh lợi nhuận với giá trị thặng dư cho
thấy:
Về lượng: nếu cung bằng cầu và do đó giá cả hàng hóa bán ra theo đúng giá trị
của nó thì số lượng lợi nhuận thu được bằng số lượng giá trị thặng dư. Nếu cung nhỏ
hoặc lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa có thể cao hơn hay thấp hơn giá trị của nó thì từng
tư bản cá biệt có thể thu được một lượng lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn lương giá trị
thặng dư. Nhưng trong toàn xã hội, tổng số giá cả ngang bằng với tổng giá trị hàng
hóa,tổng số lợi nhuận ngang bằng với tổng số giá trị thặng sự.
Về chất, giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới do lđ của công nhân tạo ra trong
lĩnh vực sx dôi ra ngoài phần bù lại giá trị tư bản khả biến mà nhà tư bản đã trả cho


công nhân; còn lợi nhuận là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị thặng dư, là giá
trị thặng dư khi nó được quan niệm là con để của toàn bộ tư bản ứng trước, là kết quả
hoạt động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sx kinh doanh.
Như C.Mác viết: “Giá trị thặng dư hay lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy

của giá trị HH so với chi phi sx của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lao động chứa
đựng trong hàng hóa so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong HH”.
Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sx giữa tư bản và lđ vì
nó làm cho người ta tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê
tạo ra. Thực chất, lợi nhuận và giá trị thặng dư là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một
hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư.
* Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp:
Tư bản thương nghiệp chỉ làm nhiệm vụ lưu thông hàng hóa (nếu không kể đến
việc vận chuyển, bao bì, đóng gói, bảo quản)thì nó không tạo ra giá trị thặng dư, vậy
lợi nhuận thương nghiệp do đâu mà có?
Do tư bản thương nghiệp chuyên làm nhiệm vụ lưu thông hàng hóa cho tư bản
công nghiệp, nên tư bản công nghiệp phải nhường một phần giá trị thặng dư cho tư
bản thương nghiệp. Việc làm đó có lợi cho cả tư bản công nghiệp và thương nghiệp
Tư bảng công nghiệp nhường bằng cách bán hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế
của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị, thu về lợi nhuận thương nghiệp.
Như vậy không phải tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cao hơn giá trị, mà do
mua được hàng hóa thấp hơn giá trị rồi bán đúng giá trị thu về lơi nhuận.
* Nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng:
Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà người đi vay trả cho người vay vì
đã sử dụng tiền tệ của họ để sản xuất, kinh doanh thu về lợi nhuận bình quân.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa chủ ngân hàng với các nhà tư
bản trực tiếp kinh doanh.
Ngân hàng là một xí nghiệp kinh doanh tiền tệ - ngân hàng trở thành kẻ trung
gian đại diện tất cả những người có nhu cầu cho vay tiền và những người muốn vay
tiền, cho nên ngân hàng có 2 nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay. Nhận gửi với lợi tức
thấp, cho vay với lợi tức cao, khoản chênh lệch giữa lợi tức nhận gửi và lợi tức cho
vay, sau khi trừ các khoản chi phí kỹ thuật tiền tệ, còn lại là lợi nhuận ngân hàng.
* Từ những vấn đề trên cho thấy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự
thống nhất giữa quá trình lao động tạo ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư.

Một mặt, là quá trình lao động. Đó là quá trình kết hợp sức lao động với tư
liệu sản xuất để tạo ra giá trị sữ dụng đáp ứng nhu cầu xã hội. Quá trình nhà tư bản sử
dụng sức lao động có đặc điểm riêng: công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà
tư bản; sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản.
Mặt khác, là quá trình tạo ra giá trị và làm tăng giá trị. Nhà tư bản vẫn phải
tuân thủ đúng quy luật giá trị, tức là phải tuân thủ theo đúng thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.


CÂU 13. Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản
độc quyền và biểu hiện mới của những đặc điểm đó ở chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản mà trong đó hầu hết các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự
phát triển của sự phát triển toàn bộ nền kinh tế. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc
quyền vẫn không làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
- Ra đời và phát triển phổ biến các tổ chức độc quyền thống trị đối với toàn bộ
nền kinh tế.
Thông qua việc hình thành các tổ chức độc quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền
chi phối và thống trị việc sản xuất và thị trường tiêu thụ hàng hóa trong nước, định giá
cả độc quyền và thu lợi nhuận độc quyền.
Các hình thức cơ bản của độc quyền: cácten, xanhđica, tờrớt,…
- Tư bản tài chính.
Tư bản tài chính là liên minh giữa độc quyền ngân hàng và độc quyền công
nghiệp nhằm thống trị nguồn vốn và sản xuất của xã hội để thu được lợi nhuận độc
quyền cao.
Tư bản tài chính thống trị đời sống kinh tế - xã hội thông qua chế độ tham dự,
chế độ ủy nhiệm. Ngoài ra, nó còn áp dụng các thủ đoạn lập công ty mới, kinh doanh
công trái, đầu cơ chứng khoán có giá ở sở giao dịch, lập ra công ty bảo hiểm,…
- Xuất khẩu tư bản.

Xuất khẩu là đưa tư bản ra nước ngoài để thu được giá trị thặng dư và các
nguồn lợi khác ở nước nhập khẩu tư bản.
Xét ở góc độ đầu tư, có hai hình thức xuất khẩu tư bản là đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI).
Xét ở góc độ sở hữu, có thể phân thành xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất
khẩu tư bản tư nhân.
- Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của tư bản độc quyền.
Thực hiện thông qua việc ký kết các hiệp định để phân chia thị trường, khu vực
xuất khẩu dựa trên tương quan lực lượng kinh tế giữa các cường quốc tư bản và được
hình thành thông qua các hình thức tổ chức như: tờrớt quốc tế, cácten quốc tế,…
- Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc.
Để đảm bảo sự phân chia thế giới về kinh tế, các cường quốc tư bản tiến hành
phân chia thế giới về lãnh thổ. Thông qua sự phân chia này để biến các nước lạc hậu
thành thuộc địa và nửa thuộc địa.
Biểu hiện mới của những đặc điểm đó ở chủ nghĩa tư bản ngày nay
Thứ nhất, về tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tập trung sản xuất vận động theo ba hướng:
Một là, hình thành các doanh nghiệp khổng lồ tồn tại dưới dạng các công ty
xuyên quốc gia.


Hai là, hình thành và phát triển bùng nổ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ba là, sự liên kết của hai loại hình doanh nghiệp này tạo thành mối liên kế kiểu
mạng lưới.
Các tổ chức độc quyền có những biểu hiện mới về cơ cấu tổ chức. Tổ chức độc
quyền tạo ra các quan hệ liên kết: liên kết dọc và ngang kiểu consơn và côngglômêrát
để tăng tính linh hoạt và hiệu quả trước sự biến đổi của thị trường thế giới.
Thứ hai, tư bản tài chính hiện đại.
Phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công
nghiệp được mở rộng ra nhiều ngành.

Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng, tinh vi và phức tạp hơn.
Hình thức liên kết theo cả hướng tâm và ly tâm, hình thành nên các trung tâm
tài chính của thế giới như: Nhật Bản, Mỹ, Đức, Hồng Kông, Xingapo,…
Thứ ba, xuất khẩu tư bản hiện đại.
Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của độc quyền quốc tế sau chiến tranh. Ngày nay,
trong điều kiện lịch sử mới nó đã có những biến đổi lớn.
Biểu hiện mới về xu hướng dòng xuất khẩu tư bản: kết hợp xuất khẫu một
chiều và đa chiều.
Biểu hiện mới về các hình thức, vai trò và bản chất của xuất khẩu tư bản.
Trong những thập kỷ gân đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua chảy lại giữa các
nước tư bản phát triển với nhau. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong xuất
khẩu tư bản ngày càng lớn, đặc biệt là trong đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đã xuất hiện
nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển mà nổi bật là NIEs châu Á.
Hình thức xuất khẩu tư bản đa dạng. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện
những hình thức mới như BOT,BT… Sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất
khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Thứ tư, những biểu hiện mới trong hình thành các liên minh độc quyền và
phân chia thị trường thế giới.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, tham gia vào phân chia thị trường thế giới
không chỉ có liên minh giữa các công ty độc quyền tư bản, mà có cả các quốc gia, tạo
thành khối kinh tế mở trong đó các công ty xuyên quốc gia trở thành mắt xích neo
chặt các nền kinh tế có trình độ phát triển và chế độ chính trị khác nhau lại thành các
khối kinh tế lớn. Xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng bên cạnh
xu hướng khu vực hóa nền kinh tế. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế lại diễn ra
xu hướng khu vực hóa kinh tế, hình thành nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên
minh châu Âu (EU); Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC), khu
vực tư do Bắc Mỹ (NAFTA)…
Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức
cạnh tranh và thống trị mới. Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị
đẩy lùi, nhưng lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, những

cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo.



×