Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI THU HOẠCH BDTX TIỂU học MODULE 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.79 KB, 13 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ……….

BÀI THU HOẠCH
BDTX NỘI DUNG 3
(Mô đun TH )

GIÁO VIÊN: ……………………………..

Năm học:

1


PHÒNG GD&ĐT …….
TRƯỜNG TH …….

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh Phúc

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN …………..
Năm học
Họ và tên: ……………….
Đơn vị công tác: Trường tiểu học ………
Chức vụ : Giáo viên ………..
Căn cứ Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu học ban
hành kèm theo Thông tư số 32/2011/TT-BGDĐT ngày 08/8/2011 của Bộ trưởng
Bộ giáo dục và Đào tạo; Quy chế bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non,
phổ thông và giáo dục thường xuyên ban hành kèm theo Thông tư số
26/2012/TT-BGDĐT ngày 10/7/2012 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo;


Căn cứ chương trình năm học 201… – 201… của trường Tiểu học ….
Căn cứ quy chế nhiệm vụ năm học 201… - 201... của chuyên môn trường
Tiểu học ….
Căn cứ thực tế nhà trường, tổ khối lớp 1, cá nhân tôi BDTX năm học
201…. – 201…….. như sau:
( Modun TH 3) ĐẶC ĐIỂM CỦA HS CÁ BIỆT, HSG, HSY
ĐẶC ĐIỂM CỦA HS CÁ BIỆT, HSG, HSY
1/ Đặc điểm của Học sinh cá biệt :
Đối với những Học sinh cá biệt luôn luôn có tính hiếu động, thích tìm tòi
và luôn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào, thời điểm nào.
Trước hết chúng ta nên nói đến tính cách của trẻ là sự kết hợp độc đáo
giữa đặc điểm tâm sinh lý của trẻ với điều kiện hoàn cảnh sống nhất định.
Biểu hiện của trẻ là nhanh nhẹn , hoạt bát cùng với sự nghịch ngợm, bất
ổn định kèm theo , bên cạnh đó học tập có thể là học yếu hoặc trung bình, vì các
em đó trong lớp ít chú ý hoặc thậm chí không chú ý khi cô giáo giảng bài, luôn
quậy phá các bạn ngồi bên cạnh, gây mất trật tự trong lớp.
Biểu hiện về mặt thái độ của trẻ với chung quanh và bản thân, những đứa
trẻ hiếu động này thuộc kiểu thần kinh mạnh, cân bằng và linh hoạt. Biểu hiện
của trẻ là ham hoạt động, ham hiểu biết, linh hoạt, thường vui vẻ, vô tư , cảm
xúc của trẻ bất ổn định, rung cảm nhưng không sâu , nhanh nhớ, mau quên. Biểu
hiện rõ nét nhất của đặc tính này là bất cứ điều gì hấp dẫn , thích thú vừa sức thì
các em sẽ làm ngay, tập trung chú ý rất tích cực, càng trong học tập thì đòi hỏi
2


phải kiên trì, chịu khó động não để làm bài, chiếm lĩnh kiến thức thì các em đâm
ra chán nản, ít chú ý hoặc không chú ý nên kết quả học tập thấp.
* Biện pháp thực hiện :
Đối với những trẻ nghịch ngợm, hay nói chuyện riêng, sau mỗi lần giảng
bài xong, hoặc các em đã làm xong bài tập, các em không biết làm gì nên hay

trêu chọc các bạn gây mất trật tự trong lớp Cô giáo nói không nghe, theo tôi cần
giáo dục các em như sau :
+ Thường xuyên quan tâm sâu sát hoạt động của các em
+ Thường xuyên nhắc nhở động viên kịp thời
+ Khích lệ khi em có tinh thần tập thể và lòng vị tha
+ Không nên phê bình , trách phạt
+ Không nên sĩ nhục , xúc phạm đến các em
+ Tránh hình thức áp đặc doạ dẫm , buột các em phải làm theo … vì điều
đó sẽ không đem lại kết quả gì
+ đặc biệt Giáo viên không nên để các em có thời gian rỗi.
+ Kết hợp giữa ba môi trường Giáo dục Gia đình – Nhà trường và Xã hội
2. Tâm lý học sinh yếu – kém:
Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến yếu – kém trong học tập ở học sinh tiểu học
+ Do hoàn cảnh gia đình.
+ Do mất căn bản.
+ Chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập hay nói thông thường là học sinh lười
học, không chăm chỉ chuyên cần.
* Các biện pháp khắc phục - giúp đỡ học sinh yếu kém:
a. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh yếu chính là xác định học sinh hiểu
học để làm gì? Vì sao phải học?
b. Người ta phân chia động cơ học tập của học sinh ra thành nhiều loại như sau:
+ Động cơ mang tính xã hội: học để sau này góp phần xây dựng đất nước,xây
dựng quê hương.
+ Động cơ mang tính cá nhân: học vì lợi ích riêng của mình ,muốn hơn người,
muốn sau này có vị trí cao trong xã hội…
+ Động cơ bên trong:xuất phát từ chính việc học, nghĩa là học để nắm được kiến
thức, vận dụng nó vào thực tế một cách khoa học.
+ Động cơ bên ngoài: Học vì muốn có điểm tốt ,muốn thầy cô và cha mẹ vui
lòng…
Có động cơ học tập đúng đắn nghĩa là động cơ xuất phát từ chính việc học,học

sinh học tập để có kết quả tốt . Do vậy sẽ tạo cho học sinh yêu thích việc học,có
hứng thú trong học tập.Động cơ tạo nên động lực học đó chính là thành tố quan
trọng trong cấu trúc hoạt động học tập của học sinh.
* Đối với học sinh yếu do hoàn cảnh gia đình
Gia đình là môi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ.Trước tiên
là ảnh hưởng của cha mẹ rất sâu sắc. Vì vậy,giáo dục gia đình là một “điểm
mạnh”, là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ. Song mỗi gia
đình có những điểm riêng của nó nên giáo viên phải biết phối hợp như thế nào
để đảm bảo được tính thống nhất, toàn vẹn trong quá trình giáo dục. Đồng thời
phát huy ảnh hưởng cùng nhà trường giáo dục học sinh đạt hiểu quả.
3


Trước những nguyên nhân xuất phát từ gia đình giáo viên cần:
- Tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, nắm bắt cụ thể hướng
phấn đấu của em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp,của trường…Thông qua
các buổi họp phụ huynh học sinh.
- Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và
rèn luyện.Qua đó,giáo viên sẽ thông tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học
tập,hạnh kiểm,các mặt tham gia hoạt động …của con em mình thông qua sổ liên
lạc…Giáo viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện
pháp tác động phù hợp.Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ,nhắc nhở kịp
thời khi các em có biểu hiện cần uốn nắn.
- Giáo viên chỉ mời phụ huynh khi cần thiết để bàn bạc biện pháp giáo dục các
em. (không nên lạm dụng).
- Giáo viên tạo điều kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hoàn thành bài
học ngay lại lớp.
* Đối với học sinh yếu do mất căn bản:
Kiến thức luôn cần có sự xuyên suốt . Do mất căn bản học sinh khó mà có nền
tảng vững chắc để tiếp thu kiến thức mới . Để khắc phục tình trạng này, giáo

viên cần :
- Hệ thống kiến thức theo chương trình.
- Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với kiến thức để học sinh có thể luyện tập
kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học.
- Phân hóa đối tượng học sinh.
- Quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em,bằng nhiều hình thức tổ chức
(thi đua cá nhân,thi đua tổ nhóm,đố vui,giải trí,…). Kết hợp kiểm tra thường
xuyên việc học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen học bài và làm bài,
kích thích hoạt động trí tuệ cho các em.
- Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời với tác dụng :
• Xác nhận sự tiến bộ ở học sinh.
• Kích thích sự say mê,hứng thú học tập của học sinh .
• Thúc đẩy hành động theo chuẩn mực .
• Giúp học sinh tự tin là mình học được,mình có thể giỏi như các bạn…
• Sửa chữa hành vi sai lệch của học sinh.
• Kèm chế sự bộc phát,tập thói quen chu đáo và cẩn thận.
• Ngược lại nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập, sáng tạo của học
sinh.
Ta thấy rằng, con người luôn luôn có hai nhu cầu đối lập nhau là tự khẳng định
mình và đồng nhất mình với người khác. Do vậy, trong giảng dạy giáo viên cần
nắm vững đều này để kích thích học sinh hứng thú say mê học tập.
* Học sinh yếu do lười, học không chăm chỉ ,không chuyên cần hoặc chưa
nhận thức được nhiệm vụ học tập :
Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do : không học bài , không làm bài
,thường xuyên để quen tập ở nhà, vừa học vừa chơi , không tập chung ,lo ra…
Để các em có hứng thú học tập , giáo viên phải nắm vững và phối hợp nhịp
nhàng các phương pháp dạy học,thay đổi bằng hình thức trò chơi, sử dụng
4



phong phú đồ dung học tập … Giúp các em hiểu bài ,tự bản thân mình giải
quyết các bài tập cô giao . Ngoài ra , giáo viên động viên các bạn trong tổ nhắc
nhở và giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi các em vấp phải những lỗi trên. Chúng ta phải
hiểu ,một học sinh yếu – kém không đòi hỏi các em phải giỏi ngay được. Mà
điều ,chúng ta mong muốn là sự tiến bộ từng bước ở các em so với thời gian
trước.Phương pháp này không dùng để giáo dục học sinh yếu – kém do hoàn
cảnh
gia
đình
được.
Ngoài ra ,giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng
lời nói , cử chỉ , mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em.
Chính những tác động trực tiếp thường tạo ra dấu ấn tức thì về sự chuyển biến
tâm lí như thái độ, hành vi ,tình cảm…học sinh sẽ dần tiến bộ
3. Tâm lý của học sinh khá giỏi, học sinh năng khiếu:
a. Năng khiếu là gì?
-Theo từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên): năng khiếu là tập hợp
những tư chất bẩm sinh, nét đặc trưng và tính chất đặc thù làm tiền đề bẩm sinh
cho năng lực.
-Theo “Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” (tác giả Nguyễn Cảnh Toàn) thì
năng khiếu là năng lực còn tiềm tàng về một hoạt động nào đó nhưng chưa bộc
lộ ở thành tích cao vì chưa qua tập dượt, rèn luyện nên còn thiếu hiểu biết và
chưa thành thạo trong lĩnh vực hoạt động đó.
-Tâm lý học nhân cách (Nguyễn Ngọc Bích): Năng khiếu là những tiền đề
bẩm sinh, những khuynh hướng đầu tiên tạo điều kiện cho năng lực và tài năng
phát sinh. Nó bao gồm những đặc điểm tâm sinh lý giải phẫu của hệ thống thần
kinh và khuynh hướng tâm lý đầu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
một năng lực nào đó.
Năng khiếu tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành năng lực và tài năng.
Nghĩa là không phải trẻ nào có năng khiếu cũng là thiên tài. Một em có năng

khiếu đối với hoạt động nào đó không nhất thiết sẽ trở thành tài năng trong lĩnh
vực ấy và ngược lại.
*Nói tóm lại,Năng khiếu : Là mầm mống của tài năng , tương lai . Nếu được
phát hiện bồi dưỡng kịp thời có phương pháp và hệ thống thì năng khiếu được
phát triển và đạt tới đỉnh cao của năng lực, ngược lại thì năng khiếu sẽ bị thui
chột
Người có năng lực năng khiếu thì thị giác thính giác xúc giác vị giác khứu giác
có những cảm giác tri giác đặc biệt ( ngoại cảm )
Cảm giác , tri giác, ghi nhớ tưởng tượng và tư duy có chất lượng cao sẽ quyết
định năng khiếu và tài năng của mỗi con người .
b. Năng lực là gì?: Con người vốn có tiềm năng nội lực hoặc ở mặt này , mặt
khác kể cả những người có khuyết tật . Cần có điều kiện thích ứng để năng lực
được bộc lộ và hoàn thiện . Cho nên năng lực là những đặc điểm tâm lý cá biệt ở
mỗi người tạo thành chiều sâu cường độ lĩnh hội tri thức , hình thành kỹ năng kỹ
xảo để đáp ứng yêu cầu và hoàn thành xuất sắc một hoạt động nhất định
* Trình độ cao của năng lực:
Chính là tài năng ở trình độ tột đỉnh là thiên tài . Năng lực chỉ tồn tại trong quá
trình phát triển, vận động của một hoạt động tương ứng cụ thể . Năng lực là sản
5


phẩm của một hoạt động thực tiễn tích cực của con người không tách rời hoàn
cảnh xã hội và tham gia phục vụ cho sự phát triển xã hội
Lữ Khôn từng nói : Việc sắp xảy ra mà ngăn được
Việc đương xảy ra mà cứu được
Việc đã hỏng mà cứu vớt được . Đó là người có tài
Hay chưa có việc mà biết việc sẽ đến .
Mới có việc mà biết việc sau sẽ ra sao
Định việc mà đoán được việc diễn biến thế nào
Đó là người có tâm .

Vậy Năng lực vừa là trí ( Trí khôn , thông minh ) là tâm đức thống nhất trong
một cấu trúc thích ứng .
Gần đây theo điều tra về chỉ số trí tuệ của người Việt nam người ta thấy có từ 25 % là những người xuất sắc, Khoảng 25- 30 % là khá, Khoảng 25- 30% trung
bình yếu , 2- 5 % yếu . Số còn lại là Trung bình
Về học sinh : 3- 5 % là học sinh giỏi ( Trong 20 vạn học sinh )
Vì thế việc phát hiện bồi dưỡng sử dụng các năng khiếu và tài năng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với nhà trường và xã hội.
c. Thế nào là học sinh giỏi:
“HSG là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao/và có khả năng sáng
tạo, thể hiện một động cơ học tập mãnh liệt/và đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý
thuyết/khoa học; người cần một sự giáo dục đặc biệt/ và sự phục vụ đặc biệt để
đạt được trình độ tương ứng với năng lực của người đó”. Đó là những học sinh
có khả năng thể hiện xuất sắc hoặc năng lực nổi trội trong các lĩnh vực trí tuệ, sự
sáng tạo, khả năng lãnh đạo, nghệ thuật, hoặc các lĩnh vực lí thuyết chuyên biệt.
Những HS này thể hiện tài năng đặc biệt của mình từ tất cả các bình diện xã hội,
văn hóa và kinh tế”. HSG là những đứa trẻ có năng lực trong các lĩnh vực trí tuệ,
sáng tạo, nghệ thuật và năng lực lãnh đạo hoặc lĩnh vực lí thuyết. Những học
sinh này cần có sự phục vụ và những hoạt động không theo những điều kiện
thông thường của nhà trường nhằm phát triển đầy đủ các năng lực vừa nêu
trên.
Dấu hiệu nhận biết trẻ có năng khiếu
1.- Em đó phải có óc suy nghĩ trừu tượng. Nghĩa là học sinh có khả năng nắm
bắt những khái niệm ngôn ngữ học và toán học cao hơn và có khả năng bàn luận
những vấn đề phức tạp như đạo đức học, luân lí và tôn giáo, gia đình. Em đó hay
hỏi kiểu : Mẹ ơi tại sao mào con gà trống lại có màu đỏ???
2. Học sinh đó có tài đặc biệt như khả năng thực hiện các phép tính toán học
trong đầu, hoặc hiểu được các khái niệm như toán nhân trước khi được dạy ở
trường. Có nghĩa là tiếp cận bài nhanh, học đâu hiểu đấy . Hay "nói leo" ra vẻ
biết trước một chút. Đôi khi có vẻ "tinh tướng" với bạn cùng lớp. Ta đây biết
trước nhá. Thưa các thầy cô và các bà mẹ đừng buồn vì điều này cho rằng cháu

không khiêm tốn. Hầu hết các em nhỏ ở tuổi này bộc lộ theo kiểu như vậy . Đôi
khi giáo viên như tôi thấy khó chịu nhưng vui vì đó là đặc điểm tâm lí lứa tuổi.
Khi sang cấp Trung học cái kiểu này tự mất đi.
3. Em đó phải có khả năng tập trung cao độ vào một hoạt động nào đó với thời
gian dài. Đại đa số trẻ cùng lứa khả năng của các em chú ý rất kém. Thường thì
6


các em chỉ tập trung trong vòng 20 phút trở về là tốt . Nhưng riêng các em kiểu
này có khả năng tập trung gấp đôi. Khi chú ý cái gì. Các em kiểu này rất say
sưa, cắn bút, làm mọi cách để ra kết quả. Dù kết quả đó có sai.
4. Các em dạng học sinh năng khiếu văn luôn có vốn từ phong phú và hiểu
được nhiều từ không đặc trưng dành cho những trẻ cùng tuổi. Do vậy những bài
văn của các em viết rất lạ. Ngay kể cả những em có năng khiếu Toán chẳng hạn,
tuy văn các em này viết không hay cho lắm nhưng rất chặt chẽ về dùng từ đặt
câu, về viết câu theo mẫu, cảm xúc, cách nghĩ khác người thì…. Thật độc
đáo..... Chỉ cần một vài câu văn hay là ta đã thấy em đó có năng khiếu rồi. Còn
hay hơn nữa thì cần vai trò của các cô thầy giáo dục và bồi dưỡng và phát triển.
Do vậy như tôi chả bao giờ dám cho các em này điểm tập làm văn dưới 7 cả.
5. Em đó thường là người đầu têu, bày trò, phân việc cho các cuộc chơi của bạn
bè em đó. Cứ quan sát các em chơi là biết. Em đó có khả năng lãnh đạo. Nghĩa
là em học sinh đó thường tổ chức các hoạt động nhóm trong giờ học, phân công
nhiệm vụ, bày trò chơi khi đi với các trẻ khác, thích báo cáo kết quả của nhóm.
6. Em đó cũng hay "bảo thủ", cứ cho là mình làm đúng. Thường tìm ra cách giải
khác hay hơn chẳng hạn, dài hơn , ngô nghê hơn cách giải thầy cô, sách giáo
khoa. Em đó luôn tin tưởng vào những ý kiến và các việc đã làm của mình. Điều
này rất quan trọng cho giáo viên khi đãi cát tìm vàng, lựa chọn đội ngũ học sinh
giỏi .Tố chất này tôi cho là cần phải có ở trẻ khi vào đội tuyển bồi dưỡng học
sinh giỏi. Vì đề thi, vấn đề cuộc sống luôn thay đổi em đó phải biết thích ứng.
7. Em đó luôn thực hiện tốt các môn học khác. Chả có cớ gì học sinh giỏi mà lại

không biết vẽ. Những năm qua, theo kinh nghiệm, hầu hết các em học sinh giỏi
đều hoàn thành tốt các môn học. ( Cái này nói ngoài: Bực cái , có học sinh năng
khiếu cô nào cũng tranh về câu lạc bộ , đội tuyển của mình mà bồi dưỡng vì em
đó vừa hát hay, vẽ đẹp , học giỏi,….Nhưng cũng cần để cho em đó chơi nhá.)
8. Em đó có tính sáng tạo; nghĩa là, thích kể chuyện, vẽ hoặc âm nhạc, văn nghệ.
9. Em đó cần có óc khôi hài và nhanh trí.
10. Em đó thích chơi và làm bạn với những trẻ lớn hơn Và thích nói chuyện với
người lớn. Nhạy cảm với tình cảm của người khác.
11. Em đó có khả năng ghi nhớ các sự việc một cách dễ dàng và có thể nhớ lại
và kể lại những sự việc đó vào những lúc thích hợp.
* Biện pháp với HS khá giỏi, năng khiếu.
- Rà soát Phát hiện đi đôi với bồi dưỡng. GV Theo dõi nắm bắt đối tượng
học sinh. Phân loại học sinh ngay trong tháng 8. Tập hợp và nắm số liệu học
sinh giỏi.
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ đầu năm học.
- Việc bồi dưỡng phải được tiến hành thường xuyên trong mỗi bài, mỗi
chương.
- Với học sinh khá giỏi phải biết khơi dậy trong các em tính ham học,
thích tìm tòi, hiểu biết. Phải biết nắm chắc kiến thức cơ bản. Từ đó mà phát triển
nâng dần kiến thức cao hơn.
- Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh khá giỏi cách học, phương pháp
học, chú trọng việc tự học, tự bồi dưỡng và ý thức tự giác học tập.
7


- Thường xuyên kiểm tra định kỳ. Qua kiểm tra để thấy được học sinh còn
hổng chỗ nào để kịp thời có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.
- Kết hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng. Việc kết hợp giáo dục
giữa giáo viên và gia đình là một điều không thể thiếu trong việc nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.

3. Phương pháp bồi dưỡng.
- Bồi dưỡng qua dự các lớp tập huấn do Sở Giáo dục; Phòng Giáo dục tổ chức.
- Bồi dưỡng thông qua dự các chuyên đề do tổ, trường tổ chức.
- Bồi dưỡng thông qua dự các chuyên đề liên trường, cụm trường.
- Bồi dưỡng qua việc tự học, tự nghiên cứu các văn bản, chỉ thị, nghị quyết, các
tạp chí, tập san, băng đĩa, tài liệu của ngành.
- Bồi dưỡng qua việc khai thác thông tin trên mạng…
4. Các điều kiện để thực hiện:
Về phía BGH nhà trường:
- SGK, tài liệu dành cho bồi dưỡng chưa có và chưa được thống nhất. Mọi nội
dung đều do GV tự tìm tòi qua các nguồn thông tin khác nhau. Do vậy, không
tránh khỏi những nguồn thông tin không chính thống.
- Về việc đánh giá thực hành các modun cho giáo viên căn cứ vào lí luận hay
thực tiễn dạy…
Về phía các giáo viên:
1- Là những người trực tiếp tham gia vào quá trình bồi dưỡng khi mà chưa có
nguồn tài liệu tham khảo. Mọi nội dung đều do bản thân mỗi giáo viên thấy
mình “cần”, mình “yếu” thì lập kế hoạch bồi dưỡng cho mình.
2- Lượng thời gian giáo viên dành cho nghiên cứu bồi dưỡng đều là” tranh
thủ”, có chăng chỉ được một khoảng thời gian hè là thật sự dành cho bồi dưỡng.
Do vậy, việc bồi dưỡng gặp rất nhiều khó khăn. Hoặc việc dạy thực hành áp
dụng kiến thức bồi dưỡng đó vào như thế nào là nỗi trăn trở của tôi khi thực hiện
chương trình bồi dưỡng
MÃ MÔ ĐUN TH 28
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ CÁC MÔN HỌC BẰNG ĐIỂM SỐ
( KẾT HỢP VỚI NHẬN XÉT)
1. Đổi mới đánh giá kết quả học tập ở tiểu học thông qua đánh giá bằng
điểm số kết hợp với đánh giá bằng nhận xét:
1.1. Đánh giá bằng điểm số là gì? Sử dụng những mức điểm khác nhau trong 1
thang điểm để chỉ ra mức độ về kiến thức, kỹ năng mà HS đã thể hiện được qua

một hoạt động hoặc sản phẩm học tập. Trong thang điểm thì mỗi mức điểm đi
kèm theo là những tiêu chí tương ứng (đáp án, hướng dẫn chấm điểm ) và căn cứ
vào đó GV giải thích ý nghĩa của các điểm số và cho những nhận xét cụ thể về
bài làm của HS.
1.2. Giải thích ý nghĩa của điểm số: đây là một hoạt động phức tạp vì nó phản
ánh trình độ học lực và phẩm chất của HS. Người quản lý xem đó là chứng cứ
xác định trình độ học vấn của HS và khả năng giảng dạy của GV. Mặt khác giúp
8


GV và nhà quản lý nắm được chất lượng dạy – học một cách cụ thể hơn, từ đó
đưa ra những quyết sách phù hợp điều chỉnh quá trình dạy học. Bên cạnh đó
việc lý giải kiến thức, kỹ năng hay năng lực của HS thể hiện qua điểm số có tác
dụng thúc đẩy các em học tốt hơn.
1.3. Người GV cần làm gì để có thể diễn giải được ý nghĩa của điểm số tốt
hơn:
- Xác định mục tiêu của đánh giá: Kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực
cần đánh giá.
- Để có một sản phẩm giá trị làm căn cứ cho điểm và qua đó đánh giá
được trình độ của HS thì cần chuẩn bị thật kỹ bài kiểm tra cụ thể:
+ Trong nội dung của bài kiểm tra cần phải bao quát được nhiều mặt kiến thức,
kỹ năng mà HS đã học.
+ Mục tiêu của kế hoạch đã nêu ra trong tháng, trong học kỳ phải được đề cập
trong bài kiểm tra.
+ Xây dựng thang điểm. Có thể điều chỉnh trong quá trình chấm đối với những
bài làm, câu trả lời ngoài dự kiến.
+ Điều chỉnh các câu hỏi, bài tập nếu phát hiện thấy có sự không rõ ràng trong
đề kiểm tra.
+ Xác định ngưỡng đạt yêu cầu của bài kiểm tra.
+ Tập hợp nhiều kênh thông tin khác nhau từ việc học của HS để làm chứng cứ

hỗ trợ cho việc giải thích điểm số của HS.
1.4. Đánh giá bằng động viên: là động viên và khuyến khích sự tiến bộ
của HS khi kiểm tra đánh giá. Thông thường sử dụng bằng điểm số hay nhận xét
để kích thích tinh thần, cảm xúc của HS từ đó thôi thúc các em thực hiện các
nhiệm vụ tiếp theo tốt hơn với sự phấn đấu cao hơn.
1,5. Đánh giá bằng xếp loại: là tiến trình phân loại trình độ hay phẩm
chất năng lực của HS dựa trên cơ sở xem xét kết quả học tập đã thu thập được
qua quá trình kiểm tra liên tục và hệ thống. Kết quả học tập được ghi nhận bằng
điểm số hay bằng nhận xét. Kết quả xếp loại được dùng để đưa ra những quyết
định nào đó cho HS như chứng nhận trình độ, xét lên lớp, khen thưởng…nên nó
có ý nghĩa quan trọng về mặt quản lý.
1.
Yêu cầu, tiêu chí xây dựng đề kiểm tra, quy trình ra đề kiểm tra
học kỳ:
* Một số vấn đề về đánh giá , xếp loại: Mục đích , nguyên tắc của đánh giá , xếp
loại , hình thức đánh giá .
Yêu cầu , tiêu chí đề kiểm tra , quy trình ra đề kiểm tra học kì cấp Tiểu học:
a) Yêu cầu về đề kiểm tra học kì .
Nội dung bao quát chương trình đã học.
Đảm bảo tính chính xác , khoa học .
Đảm bảo mục tiêu dạy học , bám sát chuẩn kiến thức , kĩ năng và yêu cầu về thái
độ ở các mức độ được quy định trong chương trình cấp tiểu học .
Phù hợp với thời gian kiểm tra .
Góp phần đánh giá khách quan trình độ hs.
b) Tiêu chí để kiểm tra học kì.
-Nội dung không nằm ngoài chương trình học kì.
9


Có nhiều câu hỏi trong 1 đề , phân định tỉ lệ phù hợp giữa câu trắc nghiệm

khách quan và câu hỏi tự luận .
Tỉ lệ điểm dành cho các mức độ nhận thức so với tổng số điểm phù hợp với
chuẩn kiến thức ,kĩ năng và yêu cầu về thái độ của môn học : Nhận biết và thông
hiểu khoảng 80% , vận dụng 20%.
Các câu hỏi của đề phải được diễn đạt rõ , đơn nghĩa ,nêu đúng và đủ yêu cầu
của đề.
- Mỗi câu hỏi phải phù hợp với thời gian dự kiến trả lời và với số điểm dành cho
nó.
c)Quy trình ra đề kiểm tra học kì.
C1.Xác định mục tiêu mức độ,nộidung và hình thức ,kiểm tra.
C2.Thiết lập bảng hai chiều.
C3.Thiết kế câu hỏi theo bảng 2 chiều.
C4.Xây dựng đáp án và hướng dẫn chấm.
* Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo Chuẩn kiến thức ,kĩ năng
chương trình.
Chương trình Giáo dục phổ thông-cấp Tiểu học (ban hành kèm theo Quyết định
số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ Giáo dục và đào tạo) đã xác định
Chuẩn kiến thức ,kĩ năng và yêu cầu về thái độ của chương trình tiểu học là “
các yêu cầu cơ bản , tối thiểu về kiến thức,kĩ năng của môn học , hoạt động giáo
dục mà hs cần phải và có thể đạt được”. Dạy học trên cơ sở chuẩn kiến thức kĩ
năng là quá trình dạy đảm bảo mọi đối tượng học sinh đều đạt chuẩn kiến thức ,
kĩ năng cơ bản của môn học trong chương trình bằng sự nỗ lực đúng mức của
bản thân , đồng thời đáp ứng được nhu cầu phát triển năng lực riêng của từng
học sinh trong từng môn học hoặc trong từng chủ đề của từng môn học.
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng
chương trình được thực hiện theo các yêu cầu cơ bản dưới đây :
*/ Đối với các môn học đánh giá bằng điểm số :
-Khi xây dựng đề kiểm tra cần bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng và tham khảo
sách giáo viên. 80-90% trong chuẩn KT –KN và 10-20% vận dụng KT-KN trong
chuẩn để phát triển . Thời lương kiểm tra định kì khoảng 40 phút .

*/ Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét :
Giáo viên cần căn cứ vào tiêu chí đánh giá cuả từng môn học , từng học kì , từng
lớp( bám sát chuẩn KT-KN của môn học đẻ đánh giá xếp loại học sinh hoàn
thành (A,A+) hoặc chưa hoàn thành (B).Việc đánh giá cần nhẹ nhàng không tạo
áp lực cho cả GV và HS , cần khơi dậy tiềm năng học tập của học sinh.
2.
Đánh giá kết quả học tập ở các môn học bằng điểm số theo chuẩn kiến
thức kỹ năng của chương trình:Yêu cầu kiểm tra, đánh giá bám sát
Chuẩn kiến thức, kĩ năng
3.1. Quan niệm về kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra và đánh giá là hai khâu trong một quy trình thống nhất nhằm xác định
kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Kiểm tra là thu thập thông tin từ riêng lẻ đến
hệ thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh giá là xác định mức độ
đạt được về thực hiện mục tiêu dạy học.
10


Đánh giá kết quả học tập thực chất là việc xem xét mức độ đạt được của hoạt
động học của HS so với mục tiêu đề ra đối với từng môn học, từng lớp học, cấp
học. Mục tiêu của mỗi môn học được cụ thể hoá thành các chuẩn kiến thức, kĩ
năng. Từ các chuẩn này, khi tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
học, cần phải thiết kế thành những tiêu chí nhằm kiểm tra được đầy đủ cả về
định tính và định lượng kết quả học tập của HS.
3.2. Hai chức năng cơ bản của kiểm tra, đánh giá
a) Chức năng xác định
- Xác định được mức độ cần đạt trong việc thực hiện mục tiêu dạy học, mức độ
thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục mà HS đạt được
khi kết thúc một giai đoạn học tập (kết thúc một bài, chương, chủ đề, chủ điểm,
mô đun, lớp học, cấp học).
- Xác định được tính chính xác, khách quan, công bằng trong kiểm tra, đánh giá.

b) Chức năng điều khiển : Phát hiện những mặt tốt, mặt chưa tốt, khó khăn,
vướng mắc và xác định nguyên nhân. Kết quả đánh giá là căn cứ để quyết định
giải pháp cải thiện thực trạng, nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học và giáo
dục thông qua việc đổi mới, tối ưu hoá PPDH của GV và hướng dẫn HS biết tự
đánh giá để tối ưu hoá phương pháp học tập. Thông qua chức năng này, kiểm
tra, đánh giá sẽ là điều kiện cần thiết để:
- Giúp GV nắm được tình hình học tập, mức độ phân hoá về trình độ học lực của
HS trong lớp, từ đó có biện pháp giúp đỡ HS yếu kém và bồi dưỡng HS giỏi ;
giúp GV điều chỉnh, hoàn thiện PPDH ;
- Giúp HS biết được khả năng học tập của mình so với yêu cầu
của chương trình ; xác định nguyên nhân thành công cũng như chưa thành công,
từ đó điều chỉnh phương pháp học tập ; phát triển kĩ năng tự đánh giá ;
- Giúp cán bộ quản lí giáo dục đề ra giải pháp quản lí phù hợp để nâng cao chất
lượng giáo dục ;
- Giúp cha mẹ HS và cộng đồng biết được kết quả giáo dục của từng HS, từng
lớp và của cả cơ sở giáo dục.
3.3. Yêu cầu kiểm tra, đánh giá
a) Kiểm tra, đánh giá phải căn cứ vào Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn
học ở từng lớp ; các yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của
HS sau mỗi giai đoạn, mỗi lớp, mỗi cấp học.
b) Kiểm tra, đánh thể hiện được vai trò chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện chương
trình, kế hoạch giảng dạy, học tập của các nhà trường. Cần tăng cường đổi mới
khâu kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì; đảm bảo chất lượng kiểm tra,
đánh giá thường xuyên, định kì chính xác, khách quan, công bằng ; không hình
thức, đối phó nhưng cũng không gây áp lực nặng nề. Kiểm tra thường xuyên và
định kì theo hướng vừa đánh giá được đúng Chuẩn kiến thức, kĩ năng, vừa có
khả năng phân hoá cao ; kiểm tra kiến thức, kĩ năng cơ bản, năng lực vận dụng
kiến thức của người học, thay vì chỉ kiểm tra học thuộc lòng, nhớ máy móc kiến
thức.
c) áp dụng các phương pháp phân tích hiện đại để tăng cường tính tương đương

của các đề kiểm tra, thi. Kết hợp thật hợp lí các hình thức kiểm tra, thi vấn đáp,
11


tự luận và trắc nghiệm nhằm hạn chế lối học tủ, học lệch, học vẹt ; phát huy ưu
điểm và hạn chế nhược điểm của mỗi hình thức.
d) Đánh giá chính xác, đúng thực trạng. Đánh giá thấp hơn thực tế sẽ triệt tiêu
động lực phấn đấu vươn lên ; ngược lại, đánh giá khắt khe quá mức hoặc thái độ
thiếu thân thiện, không thấy được sự tiến bộ, sẽ ức chế tình cảm, trí tuệ, giảm vai
trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
e) Đánh giá kịp thời, có tác dụng giáo dục và động viên sự tiến bộ của HS, giúp
HS sửa chữa thiếu sót. Đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của HS, chú trọng
đánh giá hành động, tình cảm của HS : nghĩ và làm ; năng lực vận dụng vào thực
tiễn, thể hiện qua ứng xử, giao tiếp. Quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực,
chủ động của HS trong từng tiết học tiếp thu tri thức mới, ôn luyện cũng như các
tiết thực hành, thí nghiệm.
g) Đánh giá kết quả học tập, thành tích học tập của HS không chỉ đánh giá kết
quả cuối cùng, mà cần chú ý cả quá trình học tập. Cần tạo điều kiện cho HS
cùng tham gia xác định tiêu chí đánh giá kết quả học tập với yêu cầu không tập
trung vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức
trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. Có nhiều hình thức và độ phân hoá
cao trong đánh giá.
h) Đánh giá hoạt động dạy học không chỉ đánh giá thành tích học tập của HS,
mà còn đánh giá cả quá trình dạy học nhằm cải tiến hoạt động dạy học. Chú
trọng phương pháp, kĩ thuật lấy thông tin phản hồi từ HS để đánh giá quá trình
dạy học.
i) Kết hợp thật hợp lí giữa đánh giá định tính và định lượng : Căn cứ vào đặc
điểm của từng môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp học, cấp học, quy định
đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét của GV hay đánh giá bằng nhận xét,
xếp loại của GV.

k) Kết hợp đánh giá trong và đánh giá ngoài.
Để có thêm các kênh thông tin phản hồi khách quan, cần kết hợp hài hoà giữa
đánh giá trong và đánh giá ngoài. Cụ thể là cần chú ý đến :
- Tự đánh giá của HS với đánh giá của bạn học, của GV, của cơ sở giáo dục, của
gia đình và cộng đồng.
- Tự đánh giá của GV với đánh giá của đồng nghiệp, của HS, gia đình HS, của
các cơ quan quản lí giáo dục và của cộng đồng.
- Tự đánh giá của cơ sở giáo dục với đánh giá của các cơ quan quản lí giáo dục
và của cộng đồng.
- Tự đánh giá của ngành Giáo dục với đánh giá của xã hội và đánh giá quốc tế.
l) Kiểm tra, đánh giá phải là động lực thúc đẩy đổi mới PPDH. Đổi mới kiểm
tra, đánh giá tạo điều kiện thúc đẩy và là động lực của đổi mới PPDH trong quá
trình dạy học, là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo chất lượng dạy học.
3.4. Các tiêu chí của kiểm tra, đánh giá
a) Đảm bảo tính toàn diện : Đánh giá được các mặt kiến thức, kĩ năng, năng lực,
ý thức, thái độ, hành vi của HS.
b) Đảm bảo độ tin cậy : chính xác, trung thực, minh bạch, khách quan, công
bằng trong đánh giá, phản ánh được chất lượng thực của HS, của các cơ sở giáo
dục.
12


c) Đảm bảo tính khả thi : Nội dung, hình thức, cách thức, phương tiện tổ chức
kiểm tra, đánh giá phải phù hợp với điều kiện HS, cơ sở giáo dục, đặc biệt là
phù hợp với mục tiêu theo từng môn học.
d) Đảm bảo yêu cầu phân hoá: Phân loại được chính xác trình độ, mức độ, năng
lực nhận thức của học sinh, cơ sở giáo dục ; cần đảm bảo dải phân hoá rộng đủ
cho phân loại đối tượng.
e) Đảm bảo hiệu quả : Đánh giá được tất cả các lĩnh vực cần đánh giá HS, cơ sở
giáo dục ; thực hiện được đầy đủ các mục tiêu đề ra ; tạo động lực đổi mới

phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

13



×