Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.81 KB, 28 trang )

Bài thảo luận kinh tế vĩ mô
Nhóm 8
Đề tài: Tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
I.

Cơ sở lí thuyết

Năm 2009, dưới tác động của cuộc suy thoái kinh tế thế giới đi kèm với các áp lực của suy giảm
kinh tế trong nước, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp nhằm kích thích
tổng cầu của nền kinh tế chẳng hạn như miễn, giảm, giãn, hoãn thuế cho các tổ chức và cá nhân,
đồng thời thực hiện một số chính sách tăng chi tiêu và đầu tư của khu vực chính phủ, và đặc biệt
là chính sách hỗ trợ 4% lãi suất vay vốn lưu động cho khu vực doanh nghiệp. Cho đến nay, hiệu
quả của các chính sách kích thích kinh tế này vẫn còn là một chủ đề gây không ít tranh cãi. Một
số ý kiến cho rằng nhờ các chính sách kích cầu kịp thời của Chính phủ đã giúp đẩy lùi được suy
giảm kinh tế hay ít nhất là không làm cho nền kinh tế rơi vào khó khăn của đáy suy thoái. Ngược
lại cũng có không ít ý kiến cho rằng các chính sách kích cầu đó đã không những không giúp lấy
lại sức tăng trưởng vững chắc cho nền kinh tế mà còn gây ra nhiều hệ quả mới về bất ổn vĩ mô
chẳng hạn như lạm phát cao quay trở lại và tình trạng nhập siêu thêm một nặng nề.
Hiện tại nền kinh tế vẫn tăng trưởng rất thấp và thiếu ổn định, các nguy cơ của bất ổn vĩ mô vẫn
còn hiện hữu. Trong bối cảnh đó xuất hiện những ý kiến cho rằng Chính phủ nên tiếp tục gia
tăng tổng cầu thông qua việc mở rộng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, một
số ý kiến phản biện cho rằng trong điều kiện không gian tài khóa không còn do thâm hụt ngân
sách đã quá lớn và gánh nặng nợ công quá cao, Chính phủ sẽ rất khó để có thể tiếp tục thực hiện
một gói kích thích kinh tế lần thứ hai. Những người ủng hộ quan điểm này đề nghị Chính phủ
nên tiếp tục theo đuổi mục tiêu ổn định vĩ mô và cải cách thể chế nhằm chuẩn bị nền tảng cho sự
phục hồi vững chắc cho nền kinh tế trong tương lai. Chúng ta sẽ không tìm cách ủng hộ hay
phản bác cho ý kiến nào trên đây cả. Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ tìm hiểu một số khái niệm cơ
bản liên quan đến chính sách tài khóa. Dưới đây là một số câu hỏi quan trọng mà bài thảo luận
sẽ đề cập:



Cần phải hiểu đúng chính sách tài khóa như thế nào? Những công cụ của chính sách tài khóa là
gì?



Chính sách tài khóa có thể tạo ra hiệu ứng số nhân như thế nào?



Các khuynh hướng can thiệp của chính sách tài khóa là gì?



Đâu là những giới hạn của chính sách tài khóa?


Khi nói đến các chính sách kinh tế vĩ mô các bạn thường nghe nói đến chính sách
tiền tệ (monetary policy) và chính sách tài khóa (fiscal policy) bên cạnh một số chính sách vĩ
mô khác. Chúng ta biết rằng trong khi chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương (có thể là
một cơ quan trực thuộc chính phủ hoặc cơ quan độc lập) đảm trách thì chính sách tài khóa lại
do chính phủ thực hiện mà nhiệm vụ trực tiếp thường là Bộ Tài chính. Cùng với các chính
sách kinh tế khác, chính sách tài khóa là một công cụ trọng yếu giữ vai trò quyết định trong
quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để đánh giá những tác động của chính sách tài khóa đối
với kinh tế vĩ mô, bài viết phân tích thực trạng từ năm 1990-2015 qua phương pháp so sánh và
đo xung lực tài khóa (MFI) nhằm xem xét tính phù hợp của chính sách tài khóa đối với chu kỳ
kinh tế, từ đó đưa ra các kiến nghị trong thời gian tới.

1. Chính sách tài khóa là gì?
Chính sách tài khóa có thể hiểu là các biện pháp can thiệp của chính phủ đến hệ thống thuế
khóa và chi tiêu của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô như tăng

trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và lạm phát. Như vậy, việc thực thi
chính sách tài khóa sẽ do chính phủ thực hiện liên quan đến những thay đổi trong các chính sách
thuế hoặc/và chi tiêu chính phủ. Cần phải lưu ý rằng, chỉ chính quyền trung ương (chính phủ)
mới có quyền và chức năng thực thi chính sách tài khóa, còn chính quyền địa phương không có
chức năng này. Đây cũng chính là một trong những yếu tố giúp phân biệt giữa một chính sách tài
khóa với một chính sách chi tiêu thuộc phạm vi ngân sách theo phân cấp của chính quyền địa
phương.
Để thực thi chính sách tài khóa thì chính phủ sẽ cần phải sử dụng các công cụ của nó. Các công
cụ của chính sách tài khóa bao gồm các công cụ về thuế, công cụ chi tiêu, và công cụ tài trợ cho
thâm hụt ngân sách.
-

-

-

Có nhiều loại thuế khác nhau chẳng hạn như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bất động sản, v.v... nhưng tựu trung lại
có thể chia ra làm hai loại thuế là thuế trực thu (direct taxes) và thuế gián thu (indirect taxes).
Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp lên tài sản và/hoặc thu nhập của người dân, còn thuế
gián thu là thuế đánh lên giá trị của hàng hóa, dịch vụ trong lưu thông thông qua các hành vi
sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế.
Các chính sách chi tiêu của chính phủ cũng hết sức đa dạng nhưng cũng có thể tạm chia
thành hai phần chính là chi tiêu thường xuyên (chẳng hạn như chi lương cho công chức, chi
cho các hoạt động giáo dục, y tế, khoa học-công nghệ, an ninh-quốc phòng) và chi đầu tư
phát triển (chẳng hạn như chi xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội).
Chính sách thuế (T) nói chung không chỉ có thuế mà còn các khoản thu ngân sách ngoài thuế
khác và không tính nợ vay. Ngoài ra, chúng ta xem trợ cấp như một loại thuế âm và chi tiêu
chính phủ (G) (chi tiêu mua sắm hàng hóa, dịch vụ của chính phủ. Ngoài công cụ thuế và chi



tiêu, các công cụ tài trợ cho thâm hụt ngân sách hay tài trợ nợ của chính phủ (tạm gọi là nợ
công) cũng được xem là một phần của chính sách tài khóa.
Như vậy, chúng ta thấy có ba trạng thái của cán cân ngân sách chính phủ (T – G):


Nếu T > G => thặng dư ngân sách



Nếu T < G => thâm hụt ngân sách



Nếu T = G =>cân bằng ngân sách

Lưu ý rằng các khoản thu (T) và chi ngân sách (G) này không bao gồm các khoản vay và trả nợ.
Khi đó trạng thái ngân sách sẽ được gọi là thặng dư/thâm hụt/cân bằng ngân sách cơ bản. Nếu
tính cả các khoản vay trả nợ nữa thì gọi là thặng dư/thâm hụt/cân bằng ngân sách tổng thể.
2. Nguyên tắc tài khóa vàng
Trong trường hợp ngân sách thặng dư (T > G) chúng ta thấy chính phủ khi đó có khoản tiết kiệm
dương. Khoản tiết kiệm này có thể được dùng để trả nợ công (do thâm hụt tích lũy trong những
năm tài khóa trước) hoặc cho vay nền kinh tế trong nước hay nước ngoài. Ngược lại, nếu ngân
sách thâm hụt thì chính phủ sẽ phải đi vay để tài trợ cho phần thâm hụt đó. Có một số cách để
chính sách tài trợ thâm hụt ngân sách, chẳng hạn như phát hành tín phiếu/trái phiếu chính phủ
(nghĩa là đi vay trong nước hoặc nước ngoài), bán bớt các tài sản quốc gia (chẳng hạn bán tài
nguyên hay bán cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước) hoặc thậm chí có thể in tiền. Tất
nhiên chính phủ sẽ phải cân nhắc các lựa chọn này vì mỗi một lựa chọn như vậy đều có lợi ích
và chi phí kinh tế đi kèm. Chẳng hạn như vay nợ sẽ phải trả lãi suất, thậm chí vay nước ngoài
(vay ngoại tệ) sẽ còn chịu rủi ro biến động tỷ giá hối đoái. Tương tự, nếu bán tài sản quốc gia có

thể làm suy giảm nguồn lực của thế hệ tương lai, hay in tiền có thể gây áp lực lạm phát và bất ổn
vĩ mô...). Ngoài vấn đề lựa chọn kênh tài trợ thâm hụt, việc sử dụng nguồn tài trợ đó như thế nào
cũng là một thách thức không nhỏ. Có một nguyên tắc tài trợ thâm hụt là chính phủ không nên đi
vay để chi tiêu mà phải dùng cho đầu tư phát triển. Người ta gọi đó là nguyên tắc tài khóa vàng
(golden rule). Ngụ ý ở đây là việc đi vay để chi tiêu sẽ không thể tạo ra nguồn tiền cho việc trả
nợ trong tương lai, ảnh hưởng đến tính an toàn của nợ công. Thay vào đó, việc đi vay chỉ được
dùng để tài trợ cho các dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn hoặc ít nhất là cũng tạo ra năng lực
sản xuất cho nền kinh tế.
3. Tác động chèn lấn đầu tư tư nhân
Đến đây có một câu hỏi được đặt ra là liệu việc tài trợ thâm hụt ngân sách có phải là không tốt?
Câu trả lời chắc chắn sẽ là một sự tranh cãi. Một số người cho rằng việc chính phủ tài trợ thâm
hụt có thể phát tín hiệu về một tương lai tương sáng. Điều này rất quan trọng trong những thời
kỳ nền kinh tế bị suy thoái và niềm tin của người tiêu dùng cũng như giới đầu tư bị suy giảm.
Chính sách tăng chi tiêu và chấp nhận thâm hụt ngân sách của chính phủ sẽ không chỉ tạo ra tác
động lan tỏa (thông qua cơ chế của số nhân tài khóa mà chúng ta sẽ nói lát nữa đây) mà còn tạo


dựng niềm tin cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô (đặc biệt
là học thuyết của Keynes) cũng chứng minh rằng việc gia tăng chi tiêu chính phủ cũng sẽ giúp
kích thích gia tăng sản lượng của nền kinh tế, tránh được tình trạng thiểu dụng (thất nghiệp). Tuy
nhiên, nhiều người khác lại lo ngại rằng thâm hụt ngân sách thường là mầm móng cho sự trỗi
dậy của lạm phát. Thâm hụt ngân sách và tài trợ thâm hụt cũng tạo ra tác động chèn lấn
(crowding out) đầu tư và tiêu dùng của khu vực tư nhân. Chúng ta có thể hiểu đơn giản tác động
chèn lấn như sau. Khi chính phủ đi vay để tài trợ thâm hụt sẽ làm tăng nhu cầu vay vốn trên thị
trường tài chính. Xét tình huống một nền kinh tế đóng, trong điều kiện giả định nguồn cung quỹ
cho vay (loanable funds) là giới hạn, việc chính phủ tăng nhu cầu vay mượn sẽ làm tăng lãi suất
của nền kinh tế. Lãi suất tăng lên sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn đầu tư của khu vực doanh
nghiệp cũng như nhu cầu vay mượn cho tiêu dùng của khu vực hộ gia đình. Người ta gọi đây là
tác động chèn lấn của tài trợ thâm hụt. Việc chính phủ tăng chi tiêu cũng tạo ra tác động chèn lấn
với cơ chế tương tự như tài trợ thâm hụt.

Hình 1. Tác động chèn lấn của chi tiêu chính phủ và tài trợ thâm hụt

Nhiều người cũng hoài nghi rằng, ngoài tác động chèn lấn, việc chính phủ tăng chi tiêu và tài trợ
thâm hụt cũng chưa hẳn giúp gia tăng tổng cầu của nền kinh tế. Họ lập luận rằng, khi chính phủ
tăng cường vay mượn trong hiện tại thì sẽ phải tìm cách tăng thuế trong tương lai để trả nợ. Việc
tăng thuế trong tương lai chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thu nhập khả dụng của họ trong tương lai
và như vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi tiêu của họ trong tương lai. Tuy nhiên, khi
người dân nghĩ như vậy thì ngay hiện tại họ đã bắt đầu giảm chi tiêu và tăng tiết kiệm nhằm có
tiền nộp thuế trong tương lai và bù lại phần chi tiêu có thể sẽ giảm đi trong tương lai đó. Nếu
điều này xảy ra thì cầu tiêu dùng của khu vực hộ gia đình và kể cả cầu đầu tư của khu vực doanh
nghiệp đã giảm ngay trong năm hiện tại. Như vậy, khoản chi tiêu tăng thêm của chính phủ sẽ
được bù đắp bởi khoản sụt giảm trong chi tiêu của hộ gia đình và đầu tư của tư nhân. Người ta
gọi đây là tương đương Ricardo (Ricardian Equivalence).
Chúng ta lưu ý rằng, hiện tượng chèn lấn đầu tư tư nhân như đã nói ở trên chỉ là chèn lấn một
phần khi chúng ta xét trong một nền kinh tế đóng. Trong một nền kinh tế mở thì việc tăng chi
tiêu chính phủ và tài trợ thâm hụt còn dẫn đến hiện tượng chèn lấn hoàn toàn thông qua các thay
đổi về tỷ giá và cơ chế dịch chuyển của dòng vốn quốc tế. Ở đây chúng ta cần biết rằng, không
phải mọi biện pháp gia tăng chi tiêu và tài trợ thâm hụt của chính phủ đều có tác động hữu hiệu
lên tổng cầu nội địa. Trong điều kiện nền sản xuất trong nước còn yếu kém thì việc gia tăng chi
tiêu chính phủ thường sẽ dẫn đến tình trạng nhập siêu nặng nền hơn. Nói khác đi, các chính sách


gia tăng chi tiêu hay “kích cầu” nhiều khi lại “kích cầu” cho nền kinh tế nước khác. Đây cũng là
chủ đề thú vị nếu như các bạn liên hệ đến gói kích thích kinh tế trong năm 2009 ở Việt Nam như
mở đầu bài thảo luận này có đề cập. Theo đó, một số nghiên cứu cho thấy rằng, gói kích cầu
năm 2009 thực ra lại ít phát huy tác dụng trong việc kích thích nền sản xuất nội địa, thay vào đó
lại kích thích gia tăng nhập khẩu từ bên ngoài. Cuối cùng, tác động của tài trợ thâm hụt còn phụ
thuộc vào động thái của chính sách tiền tệ. Trong nhiều trường hợp, việc thực thi chính sách tiền
tệ lại làm vô hiệu tác dụng của chính sách tài khóa.
4. Chính sách tài khóa trung lập, mở rộng và thu hẹp

Khi nói đến điều hành chính sách tài khóa, người ta thường nói đến các loại như chính như chính
sách tài khóa mở rộng (expansionary fiscal policy), và chính sách tài khóa thu hẹp
(contractionary fiscal policy)
-

Chính sách tài khóa trung lập: Là chính sách cân bằng ngân sách khi đó G = T (G: chi tiêu
chính phủ, T: thu nhập từ thuế). Chi tiêu của chính phủ hoàn toàn được cung cấp do nguồn
thu từ thuế và nhìn chung kết quả có ảnh hưởng trung tính lên mức độ của các hoạt động
kinh tế.

-

Chính sách tài khóa mở rộng là chi sách tăng cường chi tiêu của chính phủ (G > T) thông
qua mở rộng chi tiêu và/hoặc giảm bớt nguồn thu thuế.Chính sách tài khóa thu hẹp là chính sách giảm bớt chi tiêu hoặc/và tăng nguồn thu của
chính phủ.
Việc điều hành chính sách tài khóa theo hướng nào tùy thuộc vào quan điểm của từng chính
phủ gắn với các bổi cảnh kinh tế vĩ mô cụ thể. Có những chính phủ theo đuổi chính sách tài
khóa trung lập, trong khi cũng có những chính phủ theo đuổi các chính sách tài khóa mở
rộng hoặc thu hẹp gắn với từng bối cảnh cụ thể của nền kinh tế vĩ mô.

-

Hình 2. Chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tài khóa thu hẹp


5. Chính sách tài khóa thuận và nghịch chu kỳ
Thông thường khi nền kinh tế suy thoái thì chính phủ sẽ thực thi chính sách tài khóa mở rộng và
ngược lại khi nền kinh tế tăng trưởng thì chính phủ sẽ thực thi chính sách tài khóa thu hẹp. Điều
hành chính sách tài khóa theo hướng này được gọi là chính sách tài khóa nghịch chu kỳ
(counter-cyclical fiscal policy). Ngược lại cũng có những quốc gia điều hành chính sách tài

khóa thuận chu kỳ (pro-cyclical fiscal policy), tức là khi nền kinh tế suy thoái thì thu hẹp tài
khóa, còn khi nền kinh tế tăng trưởng nóng thì mở rộng tài khóa. Nhiều nghiên cứu cho thấy
rằng, ở các nước phát triển thường chính sách tài khóa có tính nghịch chu kỳ, ngược lại ở các
nước đang phát triển thì chính sách tài khóa lại thường có tính thuận chu kỳ).
Hình 3. Chính sách tài khóa thuận và nghịch chu kỳ như thế nào


6. Độ trễ chính sách
Khi nói đến tính hiệu lực của chính sách tài khóa, người ta nói đến vai trò của độ trễ chính
sách. Độ trễ chính sách bao gồm độ trễ trong và độ trễ ngoài.
-

-

Độ trễ trong có nghĩa là khoảng thời gian từ khi vấn đề trục trặc của nền kinh tế vĩ mô được
nhận diện cho đến khi chính sách tài khóa can thiệp được hoạch định và được cơ quan có
thẩm quyền thông qua.
Độ trễ ngoài là khoảng thời gian từ khi chính sách tài khóa được thông qua cho đến khi nó
được triển khai và bắt đầu phát huy tác dụng.
Độ trễ chính sách là một trong những lý do làm giảm tính hiệu lực của chính sách tài khóa.
Điều này là bởi vì kể từ khi nhận diện được trục trặc cho đến khi chính sách được thiết kế,
thông qua, và triển khai có quá nhiều yếu tố làm cho tình hình thay đổi. Khi đó, các chính
sách dù được thiết kế tốt nhưng lại có thể không phù hợp với bối cảnh và các trục trặc mới
nảy sinh.

7. Chính sách bình ổn tự động và chính sách tùy nghi
Đề cập về tính chủ động trong điều hành chính sách tài khóa, người ta chia làm hai loại gồm
chính sách bình ổn tự động và chính sách tài khóa tùy nghi. Chính sách được xem là bình ổn
tự động khi chính sách thuế và chi tiêu sẽ phụ thuộc vào sự biến động của chu kỳ kinh tế. Chúng
ta có thể nhận thấy điều này khi nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái. Chẳng hạn, khi nền kinh

tế tăng trưởng nguồn thu thuế của chính phủ cũng sẽ tăng lên trong khi nhu cầu chi tiêu hay quy
mô của các gói trợ cấp của chính phủ cũng sẽ giảm đi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái thì
nguồn thu thuế của chính phủ cũng sẽ bị suy giảm và nhu cầu trợ cấp của chính phủ cũng sẽ tăng
lên. Trong khi đó, chính sách tài khóa là tùy nghi khi chính phủ sẽ hành động nhằm thay đổi các
chính sách thuế và chi tiêu mà không phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
8. Số nhân tài khóa
Chúng ta biết rằng một chính sách tài khóa mở rộng (tăng G hoặc giảm T) sẽ giúp đẩy đường
tổng cầu sang phải. Ngược lại, một chính sách tài khóa thu hẹp (giảm G hoặc tăng T) sẽ đẩy
đường tổng cầu sang trái. Đối với nhà hoạch định chính sách, họ cần phải biết thêm rằng với một
chính sách tài khóa mở rộng hay thu hẹp nhất định sẽ làm đường tổng cầu dịch chuyển bao nhiêu
thay vì chỉ là dịch chuyển sang phải hay sang trái. Để biết được điều đó người ta sử dụng khái
niệm số nhân tài khóa.
Số nhân tài khóa (fiscal multiplier) là tỷ số của sự thay đổi GDP thực do thay đổi mang tính tự
định trong chi tiêu hoặc thuế của chính phủ. Chúng ta có thể giải thích ngắn gọn hiệu ứng này
như sau. Khi chính phủ gia tăng chi tiêu sẽ tạo ra doanh thu cho những doanh nghiệp sản xuất và
cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho chính phủ. Doanh thu này sẽ chảy vào các hộ gia đình dưới hình
thức là tiền lương, tiền lãi, lợi nhuận, tiền thuê. Sự gia tăng thu nhập khả dụng này lại dẫn đến
tăng chi tiêu tiêu dùng. Tiếp đó, tăng chi tiêu tiêu dùng sẽ làm cho các doanh nghiệp tăng được


sản lượng và doanh thu, rồi lại dẫn đến một vòng tăng thu nhập và chi tiêu mới, và cứ như vậy.
Tác động cuối cùng của chính sách tăng chi tiêu của chính phủ là làm cho tổng thu nhập của nền
kinh tế tăng lên một lượng thậm chí còn lớn hơn cả lượng chi tiêu tăng thêm của chính phủ.
Người ta gọi đây chính là hiệu ứng của số nhân.
Bằng phép toán đại số đơn giản chúng ta có thể xác định được số nhân tài khóa này.

Giả sử MPC = 0,8 và thuế suất t =25% thì ta tính được độ lớn của số nhân tài khóa sẽ m = 2,5
lần. Điều này có nghĩa là khi chính phủ tăng chi tiêu thêm 100 tỷ đồng thì tổng sản lượng thực
của nền kinh tế sẽ tăng lên 250 tỷ đồng.
Trong trường hợp không có thuế, tức t = 0, thì số nhân chi tiêu chính phủ sẽ có độ lớn là:

> 2,5 lần trong trường hợp có thuế 25%.
Điều này có nghĩa là trong trường hợp không có thuế thì số nhân chi tiêu sẽ lớn hơn so với
trường hợp có thuế.
Dựa theo nguyên tắc này, các bạn cũng có thể tự lập được số nhân thuế của chính phủ. Sau khi
các bạn lập được công thức số nhân thuế, bạn hãy so sánh nó với số nhân chi tiêu và cho nhận
xét thử nhé. Sẽ có nhiều điểm thú vị liên quan đến hai loại số nhân này. Trong thực tế, các tranh
cãi về việc lựa chọn công cụ chính sách tài khóa như thế nào để phát huy hiệu quả cao nhất cũng
phụ thuộc vào độ lớn của các số nhân được ước lượng.
9. Mô hình Mundell-Fleming
Là một mô hình kinh tế học vĩ mô sử dụng 2 đường IS và LM để phân tích tác động của các
chính sách kinh tế vĩ mô được thực hiện trong một nền kinh tế nhỏ, mở cửa và vốn di chuyển tự
do. Tuy nhiên tùy vào cơ chế tỷ giá thả nổi hay cố định mà chính sách tài khóa có những tác
động cụ thể như sau:
a. Tỷ giá hối đoái thả nổi
Trong ngắn hạn, chi tiêu chính phủ tăng làm tăng chi tiêu hàng hóa trong nước, dẫn đến đồng nội
tệ lên giá so với ngoại tệ, làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong dài hạn, sự gia tăng của
tỷ giá hối đoái làm giảm xuất khẩu ròng, là nguyên nhân làm mất ảnh hưởng của sự mở rộng
tổng cầu trong nước về hàng hóa và dịch vụ. Đây gọi là tác động


lấ n át củ

a chính sách tài khóa.

b. Tỷ giá hối đoái cố định
Trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định thì chính sách mở rộng tài khóa của chính phủ sẽ làm
dịch chuyển đường IS sang phải. Để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì ngân hàng trung ương
phải tăng cung tiền, làm dịch chuyển đường LM sang phải với quy mô tương ứng.
II.


THỰC TRẠNG KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
VIỆT NAM
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam trước 2012

1.1 Tổng quan tình hình kinh tế
Giai đoạn sau khủng hoảng tài chính thế giới từ năm 2009 đến nay: Sau ảnh hưởng khủng
hoảng tài chính thế giới, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp quyết liệt nhằm chống suy giảm
kinh tế, ổn định vĩ mô. Giải pháp chủ yếu được áp dụng là chính sách tài khóa mở rộng, gồm
các gói kích cầu khác nhau: Gói kích cầu thứ nhất được triển khai trị giá 1 tỷ USD (17.000 tỷ
đồng) nhằm hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Gói kích cầu thứ hai, với tổng
nguồn vốn khoảng 8 tỷ USD, hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn nhằm kích cầu đầu tư, phát triển
sản xuất. Mặc dù, nguồn thu (thu từ nội địa, thu từ xuất nhập khẩu) đều được cải thiện và tương
đối ổn định, song các gói kích cầu làm tỷ lệ bội chi ngân sách trong giai đoạn này tiếp tục tăng
cao (bình quân 5,17% trên 5% theo khuyến cáo của các tổ chức tài chính quốc tế
Với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Việt Nam đã duy trì
tăng trưởng ở tốc độ 5,3% năm 2009, 6,75% năm 2010, và đạt mức 5,89% năm 2011. Dù tốc độ
tăng trưởng trong ba năm này thấp hơn mức trung bình trong cả thập kỷ trước, nhưng đây được
coi là thành công bởi những áp lực từ những diễn biến kinh tế bất lợi là rất lớn.


Tốc độ tăng trưởng này được nhìn nhận một phần là do tác động của gói kích cầu và các chính
sách tiền tệ mở rộng. Thực tế cho thấy trong năm 2010, khi các gói kích cầu tài khóa đã dừng lại
thì chính sách tiền tệ mở rộng tiếp tục được duy trì là nguồn thúc đẩy tăng trưởng. Đến nay, Việt
Nam liên tục phải đương đầu với những bất ổn kinh tế do chính những kéo dài và thiếu nhất
quán.
1.2 Diễn biến ngân sách và chính sách tài khóa
Năm 2011, các giải pháp và các quyết sách của chính phủ thiên về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm
chế lạm phát và đảm bảo an sinh xã hội đã được thực hiện đồng bộ, kịp thời và quyết liệt. Thu
nội địa năm 2011 đạt 425.000 tỷ đồng, vượt 11,3% so dự toán, tăng 19,9% so với thực hiện năm
2010. Tất cả các mục thu đều thu vượt dự toán.

Có ba nguyên nhân chính khiến thu ngân sách vượt mức dự toán: Thứ nhất, đà phát triển tốt của
nền kinh tế trong những tháng cuối năm 2010, tạo nguồn thu gối đầu cho NSNN năm 2011 đạt
khá. Thứ hai, giá cả hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng; Đồng thời, giá của dầu thô tăng cũng
góp phần nâng cao mức thu ngân sách nhà nước từ dầu thô lên hơn 25% so với dự toán. Thứ ba,
việc triển khai quyết liệt công tác quản lý thu, tăng cường kiểm soát kê khai, đẩy mạnh thanh tra,
kiểm tra và đôn đốc thu nợ thuế, thu vào NSNN kịp thời các khoản thu.
Hoạt động chi ngân sách trong năm 2011 được kiểm soát chặt chẽ. Số dự án hoàn thành trong
năm 2011 đã tăng thêm 1.053 dự án, với khoảng 9.452 tỷ đồng được điều chuyển. Các bộ
ngành và địa phương thực hành tiết kiệm, cắt giảm 10% chi tiêu thường xuyên. Tuy nhiên, thực
tế chi ngân sách nhà nước vẫn tăng cao, với mức tăng 18,6% so với năm 2010 và cao hơn dự
toán 9,7%.
Bội chi NSNN đã tăng từ mức trung bình là 4,0% GDP giai đoạn 1996-2000 lên 4,9%
GDP giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2006-2010 là 5,5% GDP. Năm 2011, tuy bội chi NSNN
đã được giảm xuống mức thấp nhất trong 3 năm trở lại đây song vẫn đang là mức cao cần phải
được tiếp tục cắt giảm hơn nữa để đảm bảo sự bền vững tài khóa trong trung và dài hạn.
Hình 2: Bội chi ngân sách ở Việt Nam 1996-2011


Nguồn: Bộ Tài chính
Bội chi NSNN liên tục và ở mức cao sẽ kéo theo sự gia tăng trực tiếp của dư nợ công. Khi huy
động nguồn vốn để bù đắp cho bội chi NSNN sẽ gián tiếp làm nợ công tăng. Nợ công tăng lên sẽ
kéo theo lãi phải trả tăng. Khi lãi phải trả tăng sẽ lại làm cho bội chi NSNN tăng. Chu trình này
sẽ trầm trọng hơn trong bối cảnh lãi suất cao, tăng trưởng thấp, hiệu quả sử dụng NSNN thấp.

Như vậy, trong năm 2011, chi ngân sách nhà nước chưa hoàn thành nhiệm vụ thắt chặt chính
sách tài khóa.
 Đánh giá Chính sách tài khóa Việt Nam trước 2012:
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB, 2011), chính phủ Việt Nam đã giải quyết khá quyết
liệt đối với các hiện tượng bất ổn kinh tế vĩ mô, nhưng nguyên nhân sâu xa của những bất ổn



chưa được giải quyết triệt để. Kết luận này dựa trên thực tế những bất ổn kinh tế vĩ mô diễn ra
lặp đi lặp lại trong thời gian ngắn. Trong giai đoạn 2007 – 2011, chính sách kinh tế xoay quanh
chu kỳ: thắt chặt nhằm cắt giảm lạm phát – nới lỏng nhằm thúc đẩy sản xuất – thắt chặt nhằm
đối phó với lạm phát.
2. Tình hình kinh tế và chính sách tài khóa của Việt Nam trong năm 2012
2.1. Lạm phát
Theo mục tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội số 01 /NQ-CP ngày 03/01/2012, chỉ tiêu lạm
phát được đặt ra dưới 10%. So với mục tiêu này, lạm phát năm 2012 đã được thực hiện rất tốt ở
mức 6,81 %, thấp nhất từ năm 2007 tới nay.
Diễn biến CPI tháng trong năm 2012 theo chiều hướng tăng đầu năm, giảm giữa năm, tăng cuối
năm.
Những năm gần đây, CSTK cho thấy sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cơ quan
hoạch định CSTK:
- Thâm hụt ngân sách đã giảm suốt từ năm 2009 đến nay (2009: -6,9%; 2010: -6,2%; 2011: -4,9%:
2012: -4,8%).

- Chi cho đầu tư phát triển đã có xu hướng giảm so với trước đây nhờ một loạt các hoạt động cắt
giảm chi tiêu công trong năm 2011.
- Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã giảm từ 36,4% năm
2011 xuống còn 33,5% trong 9 tháng 2012.
2.2. Tăng trưởng kinh tế
Năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 5,03%, thấp nhất trong một thập kỷ qua.
Các chính sách kiềm chế lạm phát gây hiệu ứng phụ là tăng trưởng kinh tế bị suy giảm và trong
bối cảnh suy giảm chung của kinh tế toàn cầu. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
2,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,42%.
Sự chững lại của tốc độ tăng trưởng do các nguyên nhân sau:

- Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
- Việt Nam phụ thuộc vào mô hình kinh tế dựa vào tài nguyên, vốn và số lượng lao động chất

lượng chưa cao.
- Tính bất ổn định của nền kinh tế thế giới và bản thân nền kinh tế Việt Nam còn rất lớn. Bản thân
Việt Nam cũng tồn tại các bất ổn thể hiện qua chỉ số bất ổn kinh tế vĩ mô MII (Macroeconomic
Instability Index) và chênh lệch giữa GDP thực và GDP danh nghĩa.


- Tình hình tồn kho nhiều, sức tiêu thụ chậm, đặc biệt tồn kho trong lĩnh vực bất động sản đang là
trở ngại lớn dẫn đến tình trạng nợ xấu của nền kinh tế.
Nhà nước đã có nhiều quyết sách, nỗ lực để ngăn chặn đà tăng chậm lại như Nghị quyết 13 với
gói giải pháp trị giá 29.000 tỷ đồng nhằm giãn thời gian nộp thuế VAT, giảm tiền thuê đất, tái cơ
cấu nợ... Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa như kỳ vọng. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, trước
hết, cần giải quyết hàng tồn kho vì tồn kho lớn ảnh hưởng đến DN, Người lao động và sức cầu
của nền kinh tế.
2.3 Thu chi ngân sách
2.3.1. Thu NSNN
Miễn, giảm, gia hạn một số khoản thu NSNN đối với một số loại hình DN và lĩnh vực sản xuất –
kinh doanh gồm :
- Gia hạn 6 tháng thời giạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT) của các tháng 4, 5 năm 2012 và gia hạn
9 tháng thời hạn nộp thuế VAT của tháng 6 năm 2012 đối với DNNVV.

- Giảm 50% tiền thuê đất phải nộp năm 2012
- Gia hạn 9 tháng thời hạn nộp thuế thu nhập DN (TNDN) đối với số thuế phải nộp của năm 2010
trở về trước mà đến ngày 10/5/2012 DN chưa nộp NSNN
- Miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối;
- Gia hạn nộp tiền sử dụng đất (tối đa 12 tháng theo quyết định của UBND cấp tỉnh) cho các chủ
đầu tư dự án đến ngày 10/5/2012 chưa nộp hoặc chưa nộp đủ…
- Thực hiện nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân; triển khai thực hiện Luật
Thuế bảo vệ môi trường, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp…
- Tập trung chỉ đạo ngành Thuế, Hải quan làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại DN và đẩy
mạnh các hoạt động chống chuyển giá, chống buôn lậu và gian lận thương mại…

2.3.2. Chi NSNN
Điều hành chính sách chi tiết kiệm, linh hoạt hiệu quả :

- Rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại để điều chuyển vốn đầu tư từ NSNN, trái phiếu chính phủ để tập
trung vốn đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp thiết.
- Không khởi công các công trình, dự án mới, trừ các dự án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên
tai cấp bách, dự án trọng điểm quốc gia.


- Sử dụng nguồn dự phòng NSNN được bố trí để xử lý những nhiệm vụ cấp bách như: phòng
chống thiên tai, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng an ninh…;Không sử dụng dự phòng ngân
sách để bổ sung cho các nhiệm vụ chưa thật cần thiết.
- Khuyến khích thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đối với các
dự án đầu tư trọng điểm, có hiệu quả. - Tăng cường công tác kiểm soát chi NSNN.
2.3.3. An sinh xã hội

- Nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ cận nghèo.
- Tăng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho người có công với cách mạng từ 876.000 đồng lên
1.110.000 đồng;
- Chuyển vốn cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, cho vay hộ đồng bào nghèo
vùng Đồng bằng sông Cửu Long…
- Tăng lương tối thiểu chung từ 830.000 đồng/tháng lên 1.050.000 đồng/tháng và tăng phụ cấp
công vụ từ 10% lên 25% mức lương hiện hưởng từ 1/5/2012 các đối tượng hưởng lương NSNN.
2.3.4. Thực hiện cân đối NSNN
Hiệu quả quản lý nợ công, nợ quốc gia đã được nâng cao thông qua việc rà soát, hoàn thiện các
quy định giám sát chặt chẽ các khoản nợ để đảm bảo nợ trong mức giới hạn an toàn, giảm thiểu
phát sinh nghĩa vụ nợ và nợ rủi ro cao.
2.3.5. Kết quả thực hiện thu, chi NSNN:

- Về cân đối thu chi :

 Bộ Tài chính cho biết, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2012 ước đạt khoảng
742.380 tỷ đồng, đạt 100,3% so với dự toán.

 Trong năm 2012, riêng chi thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội ước tính khoảng
323.920 tỷ đồng, bằng 35,8% tổng chi NSNN, tăng 33,2% so với năm 2011.

 Thâm hụt ngân sách đã giảm suốt từ năm 2009 đến nay (2009: -6,9%; 2010: 6,2%; 2011: -4,9%:
2012: -4,8%).

 Chi cho đầu tư phát triển đã có xu hướng giảm so với trước đây nhờ một loạt các hoạt động cắt
giảm chi tiêu công trong năm 2011 (với Quyết định 527/QĐ-BTC) và năm 2012, kéo theo tỷ lệ
vốn đầu tư xã hội/GDP giảm: năm 2012 ước đạt 33,5%, thấp hơn so với năm 2011 là 34,6%.

 Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã giảm từ 36,4% năm
2011 xuống còn 33,5% trong 9 tháng 2012.


- Cán cân tổng thể của Việt Nam năm 2012 biến chuyển tích cực:
Từ bị thâm hụt trong 2 năm 2009 (-8,4 tỷ USD), 2010 (-1,7 tỷ USD) sang thặng dư
trong năm 2011 (2,5 tỷ USD) và tiếp tục thặng dư trong các quý năm 2012 - quý I: 4,28
tỷ USD; quý II: 2,17 tỷ USD; quý III: 4,2 tỷ USD.
2.3.6. Đầu tư nước ngoài 2012

- Vốn đăng ký đã có xu hướng suy giảm rõ rệt trong những năm gần đây. Sau khi đạt mức tăng kỷ
lục vào năm 2008, 71,7 tỷ USD, FDI đăng ký của Việt Nam giảm dần: Năm 2009: 21,5 tỷ USD;
2010: 17,23 tỷ USD; 2011: 14,7 tỷ USD;2012: 13,03 tỷ USD.
- Trong năm 2012, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu
tư vào Việt Nam 13,013 tỷ USD, bằng 84,7% so với cùng kỳ 2011.
 Đánh giá về chính sách tài khóa 2012
Từ những phân tích về tình hình kinh và kết quả tế vĩ mô năm 2012, chúng ta nhận thấy rằng

mặc dù trong năm 2012 tình hình kinh tế vĩ mô có nhiều cải thiện: lạm phát được kiềm chế, tăng
trưởng khá, dự trữ ngoại hối tăng đi liền với tỷ giá USD/VND giảm 0,96% so với năm 2011. Tuy
nhiên, sự ổn định này vẫn chưa bền vững vì nguy cơ tái lạm phát còn cao do nhiều vấn đề vẫn
chưa được giải quyết, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến tái cấu trúc kinh tế và chuyển đổi mô
hình kinh tế.
Chính sách tài khóa tiếp tục được điều hành theo hướng chặt chẽ, hiệu quả, linh hoạt. Căn cứ
diễn biến tình hình thực tế, chính sách thu và chi NSNN đã được điều chỉnh linh hoạt nhằm tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư để kích thích
nền kinh tế, hoàn thành dự toán NSNN năm 2012, giữ bội chi NSNN năm 2012 ở mức Quốc hội
quyết định là 4,8% GDP, bảo đảm mức dư nợ công, dư nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc
gia trong giới hạn an toàn.
Đã bổ sung, điều chỉnh chính sách về thuế, phí, chế độ thu phù hợp với nhiệm vụ ổn định kinh tế
vĩ mô, nhất là thực hiện một số ưu đãi bổ sung về chính sách thuế đối với một số loại hình doanh
nghiệp, lĩnh vực sản xuất-kinh doanh để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất-kinh
doanh.
Phát hiện và xử lý kịp thời nhiều trường hợp vi phạm, gian lận, trốn lậu thuế.
Đã thực hiện rà soát, nghiên cứu bổ sung, điều chỉnh các chính sách thu để khuyến khích xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu phù hợp với cam kết hội nhập, khuyến khích sử dụng hàng sản xuất
trong nước thay thế hàng nhập khẩu. Bám sát tình hình thực tế, đã thực hiện điều chỉnh kịp thời
thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng quan trọng (xăng, dầu, than,
vật liệu xây dựng, thép) nhằm bình ổn giá trong nước và khuyến khích sản xuất- kinh doanh, đẩy
mạnh xuất khẩu.


Về chi NSNN: Đã tổ chức điều hành NSNN chủ động, tích cực, đáp ứng đầy đủ, kịp thời kinh
phí để thực hiện các nhiệm vụ chi về đảm bảo quốc phòng, an ninh, các sự nghiệp giáo dục-đào
tạo, y tế, văn hoá, đảm bảo xã hội; tăng lương tối thiểu chung và tăng phụ cấp công vụ theo
đúng quy định từ ngày 01/5/2012. Từ đầu năm 2012 đến nay, cơ quan Kho bạc Nhà nước đã
kiểm tra, phát hiện trên 51.800 khoản chi của 23.600 lượt đơn vị chưa chấp hành đúng thủ tục
chế độ quy định; xử lý tạm dừng chưa thanh toán trên 736 tỷ đồng.

III.

Tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam

Mở đầu
Chính sách tài khóa có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế quốc gia. Các nhà hoạch định chính
sách thường sử dụng linh hoạt chính sách tài khóa- tiền tệ nhằm đạt mục tiêu chung về tăng
trưởng kinh tế. Để đánh giá tác động của các công cụ chính sách tài khóa tới tăng trưởng kinh tế,
bài viết sử dụng các phân tích tổng hợp kết hợp với những phân tích định lượng nhằm tìm ra mối
quan hệ giữa các khoản mục chi tiêu của chính phủ có tác động tới tăng trưởng kinh tế. Kết quả
và phương pháp nghiên cứu sẽ gợi mở các tiếp cận nghiên cứu định lượng trong đánh giá chính
sách.
Những điểm nổi bật của chính sách tài khóa ở Việt Nam
Giai đoạn từ năm 2009 đến nay, kinh tế toàn cầu suy thoái, kinh tế nước ta đối mặt với rất
nhiều khó khăn. Thị trường Việt Nam có độ mở cao (xuất, nhập khẩu trên 150% GDP); khu vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tuy chỉ chiếm trên 27% tổng đầu tư xã hội, nhưng luôn đạt từ
55 - 70% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nên sau khi khủng hoảng nổ ra, thị trường xuất khẩu
và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột, nền kinh tế Việt Nam lập tức rơi vào tình trạng sản xuất trì
trệ. Nền kinh tế suy yếu đi, các doanh nghiệp rơi vào tình trạng suy kiệt, phải đóng cửa. Trong
năm 2008, quy mô nhập siêu của nước ta lên tới 17,5 tỉ USD và năm 2009 nhập siêu khoảng 12
tỉ USD. Năm 2012, nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn và một số rủi ro tiềm ẩn khác như: nợ xấu
của khu vực bất động sản vẫn chưa được giải quyết.
Như vậy, muốn cân đối, giảm thâm hụt ngân sách nhà nước và giảm nợ công thì không thể
tiếp tục tăng thu mà chỉ có thể giảm chi, nhất là giảm chi đầu tư phát triển và xây dựng cơ sở hạ
tầng từ nguồn ngân sách nhà nước. Hơn nữa, chi ngân sách nhà nước cần được giám sát chặt chẽ


để chấm dứt tình trạng vượt quá cao so với dự toán trong khi dự toán đã có khoản chi dự phòng và
dự trữ tài chính.

Thâm hụt ngân sách nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 đã tăng mạnh trong những năm gần đây,
đặc biệt từ 2010 – 2012, tỷ số thâm hụt ngân sách trên GDP được kiểm soát khá tốt, chỉ khoảng
4,8%.
Tác động của chính sách tài khóa tới tăng trưởng
Để đánh giá tác động của chính sách tài khóa tới tăng trưởng kinh tế, bài viết xem xét những
yếu tố của chính sách tài khóa trong các khoản mục chi tiêu của Chính phủ như: chi đầu tư phát
triển, chi thường xuyên và chi cho giáo dục, y tế.
Bài viết sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số cho trường hợp cụ thể của Việt Nam như sau:
GDPRt = α0+ α1GCR +α2GIR +Ut
Trong đó: GDPR – Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội
GCR – Tốc độ tăng chi tiêu thường xuyên của chính phủ
GIR – Tốc độ tăng chi đầu tư phát triển
Ut – Nhiễu của mô hình
Mô hình hiệu chỉnh sai số
Xét trong ngắn hạn, mô hình hiệu chỉnh sai số được xây dựng như sau:

Trong đó: y – Tổng sản phẩm quốc nội
x – Chi tiêu cho đầu tư phát triển của chính phủ
ECT – phần hiệu chỉnh sai số
ε và ω đo lường tốc độ trở lại trạng thái cân bằng trong ngắn hạn
Kiểm định tính dừng của các biến
Các biến trong nghiên cứu này được kiểm định tính dừng bằng phương pháp kiểm định của
Dickey –Fuller (ADF) để xem xét tính dừng cho từng chuỗi số liệu (Bảng 1).
Bảng 1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị


Biến

Hằng số c, xu thế t
Không có hằng

số chặn
Không có hằng
số chặn
Không có hằng
số chặn
Có hằng số
Không có hằng
số chặn

D(GDPR)
D(GCR)
D(GIR)
G_ex
D(G_edu_he)

Bậc trễ

Kết quả kiểm
định thống kê t

Xác suất

4

-4,74*

0,0001

4


-3,24*

0,0068

4
4

-3,43*
-8,39*

0,0018
0,0000

4

-3,13**

0,0034
Nguồn: GSO, ADB

số và hệ
số và hệ
số và hệ
số và hệ

Ghi chú: * Mức ý nghĩa 1% và ** mức ý nghĩa 5%
Trong đó: GDPR – Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội
GCR – Tốc độ tăng chi tiêu thường xuyên của chính phủ
GIR – Tốc độ tăng chi đầu tư phát triển
G_ex – Tổng chi tiêu chính phủ đã trừ đi khoản chi cho y tế và giáo dục

G_edu_he – Tổng chi tiêu chính phủ cho y tế và giáo dục
Kiểm định đồng tích hợp
Từ các kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho các biến, ta kiểm định tính đồng tích hợp giữa
các biến tăng trưởng kinh tế, chi đầu tư và chi thưởng xuyên của Chính phủ. Kết quả kiểm định
chỉ ra rằng, giữa các biến tăng trưởng GDP, chi đầu tư và chi thường xuyên của Chính phủ có
quan hệ đồng tích hợp (Bảng 2).
Bảng 2: Kiểm định đồng tích hợp
Kiểm định thứ hạng đồng tích hợp không hạn chế (Giá trị Vết)
Giả thuyết
Số véc tơ đồng
tích hợp
Không có *

Giá trị vết

0,05

Giá trị riêng

Thống kê

Giá trị tới hạn

Xác suất.**

0,840236

42,28514

29,79707


0,0011

Có ít nhất 1

0,337864

9,272060

15,49471

0,3408

Có ít nhất 2

0,097719

1,850933

3,841466

0,1737

Kiểm định vết chỉ ra có một phương trình đồng tích hợp tại mức ý nghĩa 0,05
* Ký hiệu bác bỏ giả thuyết tại mức ý nghĩa 0,05
**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) giá trị P


Kiểm định thứ hạng đồng tích hợp không hạn chế (Giá trị cực đại)
Giá trị riêng cực

Giả thuyết
0.05
đại
Số véc tơ đồng
Giá trị riêng
Thống kê
Giá trị tới hạn
tích hợp
Không có *
0,840236
33,01308
21,13162

Xác suất.**
0,0007

Có ít nhất 1

0,337864

7,421127

14,26460

0,4406

Có ít nhất 2

0,097719


1,850933

3,841466

0,1737

Kiểm định vết chỉ ra có một phương trình đồng tích hợp tại mức ý nghĩa 0,05
* Ký hiệu bác bỏ giả thuyết tại mức ý nghĩa 0,05
**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) giá trị P
Kiểm định độ trễ trong mô hình
Trong kiểm định độ trễ các biến trong mô hình, tác giả sử dụng các kiểm định để xem xét
nên có bao nhiêu trễ là phù hợp. Kết quả kiểm định chỉ ra rằng, độ trễ phù hợp cho mô hình là 1,
nguyên nhân ở đây có thể là do chuỗi số liệu Việt Nam ngắn.
Bảng 3: Kiểm định trễ
Độ trễ

LogL

LR

FPE

AIC

SC

HQ

0
1

2
3

-166,7934
-147,6450
-140,6737
-131,9485

NA
29,78645*
8,520392
7,755750

31.339,81
10.376,71*
14.468,43
20.042,35

18,86593
17,73833*
17,96375
17,99428

19,01433
18,33191*
19,00251
19,47823

18,88639
17,82018*

18,10698
18,19890

* Thứ bậc độ trễ được lựa chọn bởi các tiêu chí
FPE: Dự đoán sai số cuối cùng
AIC: Tiêu chí thông tin Akaike
SC: Tiêu chí thông tin Schwarz
HQ: Tiêu chí thông tin Hannan-Quinn
Kiểm định ảnh hưởng dài hạn
Để kiểm tra ảnh hưởng dài hạn của các biến trong mô hình, tác giả thực hiện chạy mô hình
và kiểm định tính dài hạn này thông qua phần hiệu chỉnh sai số có phương trình cụ thể như sau:
GDPR = C(1)*GDPR(-1) + C(2)*GIR(-1) + C(3)*GCR(-1) + C(4)
Bảng 4: Kiểm định tính dài hạn của các biến
Hệ số

Độ
lệch
chuẩn

Xác suất.


C(1)
0,59571
0,23317
C(2)
0,00071
0,00987
C(3)
-0,0107

0,02507
C(4)
3,09876
1,67112
Từ bảng ước lượng mô hình (Bảng 4) cho thấy, hệ số C(1)

0,0212
0,9437
0,6758
0,0822
= 0,0212 <0,05. Do vậy, có thể

kết luận ảnh hưởng của chi tiêu thường xuyên và các khoản mục chi đầu tư có ảnh hưởng dài hạn
tới tăng trưởng kinh tế.
Ước lượng tác động các nhân tố tới tăng trưởng kinh tế
- Tác động của chi đầu tư và chi thường xuyên tới tăng trưởng GDP
Bảng 5: Tác động của chi đầu tư và chi thường xuyên
tới tăng trưởng GDP
Biến

Hệ số

Độ lệch chuẩn

Xác suất.

GIR

-0,0051


0,0025

0,0572

GCR

0,0352

0,0153

0,0364

C

6,8285

0,5428

0,0000

AR(1)

0,3266

0,2186

0,1559

MA(1)


0,9629

0,0000

R2

0,7400

0,0286
Thống kê DurbinWatson

1,400082

Inverted
AR
0,33
Inverted MA Roots
-0,96
Roots
Từ kết quả ước lượng ở Bảng 5 cho thấy, hệ số R 2 = 0,74, DW =1,4, mô hình phù hợp và các
biến giải thích trong mô hình giải thích được 74% những biến động của biến phụ thuộc trong mô
hh́nh. Trong khi chi thường xuyên có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh tế thì chi cho đầu tư
lại có ảnh hưởng ngược lại. Cụ thể, khi chi thường xuyên tăng 1% thì tăng trưởng có thể tăng
thêm 0,0352% và chi cho đầu tư tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế giảm tới -0,0051%. Xu hướng
này khá giống với nghiên cứu của Đinh Tuấn Minh và Tô Trung Thành (2012) cho trường hợp cụ
thể ở Việt Nam là đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế.
- Tác động của chi tiêu cho giáo dục tới tăng trưởng kinh tế
Để đánh giá ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư chính phủ, tác giả tách tổng
chi tiêu chính phủ thành 2 phần, bao gồm: chi cho y tế - giáo dục và phần còn lại.



Bảng 6: Ước lượng ảnh hưởng của chi giáo dục và y tế tới
tăng trưởng kinh tế
Biến

Hệ số

Sai số chuẩn

Xác suất

G_EX

0,49623

0,07456

0,0000

G_EDU_HE

0,17665

0,05079

0,0037

C

5,50754


0,42219

0,0000

R2 = 0,991
DW=1,259
Từ kết quả ước lượng (Bảng 6) cho thấy, các khoản mục chi tiêu của Chính phủ có tác động
tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, khi Chính phủ tăng chi thường xuyên (đã trừ chi cho y tế
và giáo dục) tăng lên 1% thì tăng trưởng có thể tăng tới 0,496% và khi chi tiêu có giáo dục và y
tế tăng 1% thì tăng trưởng có thể tăng tới 0,176%. Như vậy, tác động chi thường xuyên của
Chính phủ tới tăng trưởng kinh tế là rất lớn.

 Đánh giá tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế Việt Nam
Chính sách tài khóa là các biện pháp can thiệp của Chính phủ đến hệ thống thuế
và chi tiêu của Chính phủ nhằm đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng
kinh tế, tạo công ăn việc làm, ổn định giá cả. Một chính sách tài khóa tốt phải
đạt 3 mục tiêu: Đúng lúc; Đúng mục tiêu và Kịp thời. Phương pháp để đánh giá
trạng thái tài khóa ảnh hưởng đến kinh tế có đáp ứng được các mục tiêu kể trên
hay không mà hiện nay được nhiều nhà kinh tế và Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF)
sử dụng là đo lường xung lực tài khóa đối với sản lượng/GDP trong một khoảng
thời gian nhất định. Nếu xung lực tài khóa dương (hay âm) hàm ý trạng thái tài
khóa mở rộng (thu hẹp) hơn so với năm trước. Khi trạng thái tài khóa thay đổi,
sẽ làm thay đổi xung lực tài khóa, và làm thay đổi chu kỳ kinh tế. Phương pháp
này cho thấy những nhà hoạch định có đưa ra chính sách tài khóa đúng lúc và
hợp lý hay không. Để đánh giá tác động của chính sách tài khóa đến kinh tế, tác
giả sử dụng phương pháp đo lường xung lực tài khóa đối với sản lượng/GDP
trong một khoảng thời gian từ năm 1991-2015 (số liệu năm 2015 là số ước tính
từ Tổng cục Thống kê).



IV.

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Một số khuyến nghị

-

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, các khoản mục như: chi cho đầu tư phát triển và chi thường
xuyên của Chính phủ có tác động tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Trong đó, các khoản mục
cho chi thường xuyên là các khoản mục kích thích nền kinh tế tăng trưởng thì các khoản mục
trong chi cho đầu tư phát triển lại có ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế.

-

Trong các khoản mục chi tiêu thường xuyên, chi cho giáo dục, y tế là khoản mục kích thích tăng
trưởng đáng kể. Điều đặc biệt ở đây là giá trị chi cho giáo dục, y tế ở Việt Nam vẫn còn thấp. Do
vậy, trong việc tái cơ cấu chi đầu tư công cần chú ý tới đặc điểm này.

-

Chính phủ cần đưa ra một kế hoạch tổng thể chính sách về tài chính, tiền tệ trung và dài hạn,
trong đó các vấn đề về cân đối bội chi ngân sách, cân đối đầu tư công cần được tính toán kết hợp
với nghiên cứu tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng.

-

Trong giai đoạn cần thiết tái cơ cấu đầu tư như hiện nay, Chính phủ cần phải có những nghiên
cứu cụ thể cho từng lĩnh vực của đầu tư công để có thể phân bổ nguồn vốn nhà nước một cách
hợp lý. Bên cạnh đó, Chính phủ cần phải giám sát chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư công để đảm

bảo hiệu quả của các nguồn vốn này.

-

Để nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng, cần nhiều
các bài phân tích, các đánh giá định tính, định lượng từ các chính sách khác, từ kết hợp của các
chính sách tài chính tiền tệ.

-

Nền kinh tế Việt Nam cũng trải qua các thời kỳ hay chu kỳ kinh tế khác nhau, từ tăng trưởng, suy
thoái và phục hồi. Phân tích cũng cho thấy, kinh tế Việt Nam thật sự chịu tác động từ kinh tế thế
giới, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng. Để thích ứng với chu kỳ kinh tế và tác động bên ngoài
thì chính sách tài chính cần được bổ sung, thay đổi kịp thời. Mặc dù, thu ngân sách nhà nước
năm 2016 ước tính sẽ tăng cao hơn dự toán năm 2015 hơn 60.750 tỷ đồng, nhưng tình hình ngân
sách năm 2016 vẫn rất “căng thẳng” do giá dầu giảm cùng áp lực chi, do đó con số thực để phân
bổ chỉ còn 45.000 tỉ đồng, áp lực chi trả nợ đang tăng vì các khoản vay đến hạn. Khối lượng vay
phần lớn là để chi trả nợ, rất ít nguồn dành cho đầu tư phát triển, đây là dấu hiệu không tốt cho
trạng thái ngân sách trong chính sách tài khóa. Trước bối cảnh này, trong năm 2016 và những
năm tiếp theo, cần phải xây dựng chính sách tài chính nói chung và chính sách tài khóa nói riêng
phải hướng đến tính an toàn và bền vững.


1. Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Một là, giữa Bộ tài chính và NHNN cần phải cung cấp, trao đổi thông tin thường xuyên trong
việc trao đổi, xây dựng, hoạch định và thực thi CSTK, CSTT trong ngắn hạn cũng như trong dài
hạn, bao gồm:

- Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội như: tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ tiêu lạm phát, tăng
trưởng tín dụng, đầu tư công, bội chi NSNN và dự kiến kế hoạch điều hành CSTK và CSTT.

Thống nhất giải pháp điều hành, thực thi CSTK và CSTT; tránh tình trạng xung đột và triệt tiêu
lẫn nhau giữa hai chính sách.
- Dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) hàng năm, kế hoạch điều hành thu, chi NSNN.
- Quản lý ngân quỹ của Chính phủ, quản lý nợ quốc gia và vốn ODA; Phát triển và thanh tra, giám
sát thị trường tài chính; Quản lý thuế, hải quan..
- Chủ động phối hợp trong công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức dụng, công
ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ, các ngân hàng chính sách và các định
chế tài chính khác.
- Kế hoạch và diễn biến tăng trưởng, tăng phương tiện thanh toán, huy động vốn, dư nợ tín dụng,
lượng tiền cung ứng, dự trữ bắt buộc, dự trữ ngoại hối nhà nước, cán cân thanh toán quốc tế;
Diễn biến của thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại hối gồm các mức lãi suất điều hành của
NHNN…
Hai là, CSTT và CSTK cần phối hợp để góp phần thực hiện cùng một lúc hai mục tiêu
kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh để ngăn chặn kịp thời tình trạng số lượng doanh nghiệp phá
sản ngày càng tăng. Trong dài hạn CSTT cần kiên trì theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm
phát, CSTK phải sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội.
2. Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, tiết kiệm
Chính phủ ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực
hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013. Trong đó,
nêu rõ trong năm 2013 tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, triệt để tiết kiệm.
2.1 Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4,8% GDP

- Cần tăng cường công tác chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế, chống chuyển giá
- Đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra thuế, nhất là các lĩnh vực, khoản thu có khả năng thất thu cao; xây
dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu thuế; tăng cường chế tài, thực thi pháp luật về thuế.


- Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho cộng
đồng xã hội.

- Tổng kết, đánh giá, kiến nghị giải pháp phù hợp đối với chính sách động viên, huy động, sử dụng
các nguồn thu từ đất đai, tài nguyên, công sản, đặc biệt là đất đai báo cáo Thủ tướng Chính phủ
trong quý I-2016
2.2 Thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính

- Cần rà soát, quản lý chặt chẽ, đảm bảo trong phạm vi dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt và theo đúng chế độ quy định
- Tổ chức thực hiện nghiêm, có hiệu quả các biện pháp chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng.
- Triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, nhất là các khoản chi: mua xe công, tổ chức lễ hội, hội nghị,
khởi công, phong tặng danh hiệu, chi phí điện, nước...
- Thiện nghiêm kỷ luật tài chính, ngân sách nhà nước; tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng
ngân sách nhà nước.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra các khoản chi trong cân đối ngân sách nhà nước, các
khoản chi được quản lý qua ngân sách nhà nước.
- Thực hiện minh bạch hóa chi tiêu của ngân sách nhà nước và đầu tư công.
2.3 Đảm bảo an toàn nợ công

- Về nợ công và nợ quốc gia, cần quản lý chặt chẽ, bảo đảm an toàn về nợ và an ninh tài chính
quốc gia.
- Tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro và chủ động bố trí nguồn trả nợ các khoản vay đến
hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn.
- Cần đẩy mạnh phát triển đa dạng thị trường trái phiếu theo hướng tăng cường các công cụ nợ có
kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên
- Rà soát các quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp để tạo thêm điều kiện cho các doanh
nghiệp huy động vốn đầu tư phát triển ngoài nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
- Hoàn thiện chính sách thuế để hạn chế tình trạng đầu cơ bất động sản và khuyến khích sử dụng
tiết kiệm, hiệu quả đất đai.
3. Giải pháp kiểm soát ngân sách nhà nước
3.1 Thiết lập cơ chế thu ngân sách nhà nước ổn định



Tăng cường chỉ đạo công tác thu, quản lý NSNN, chống thất thu, gian lận thuế, giảm các khoản
nợ đọng thuế; Thực hiện thu đầy đủ, kịp thời các khoản thu năm 2010, 2011, 2012 được gia hạn
sang năm 2013; Tổ chức triển khai thực hiện tốt các chính sách thuế và thu ngân sách mới như
Luật Quản lý thuế, Luật Sửa đổi và bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân…
3.2 Quản lý chi Ngân sách Nhà Nước hiệu quả
Tăng cường quản lý chi NSNN theo hướng tiết kiệm, hiệu quả trên cơ sở thực hiện rà soát lại các
khoản chi NSNN và trong từng khoản chi cần rà soát lại các nội dung chi để xác định đúng thứ
tự ưu tiên chi NSNN. Ưu tiên chi an sinh xã hội; bố trí chi đầu tư phát triển gắn với tái cơ cấu
đầu tư công, bố trí kinh phí cho các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn
hoá, môi trường; kiên quyết cắt, giảm, hoãn, lùi thời gian chi đối với các khoản chi chưa thực sự
cần thiết.
3.3 Cần có cơ chế giám sát đầu tư công
Chi tiêu cho đầu tư công sẽ tiếp tục được cắt giảm mạnh và có chọn lọc. Cắt giảm đầu tư công sẽ
giúp giảm nợ công và tiến tới giảm bội chi ngân sách. Cần cụ thể hóa tiêu chí, các dự án đầu tư
công cần cắt giảm và có bước cải cách mạnh mẽ trong khâu thẩm định, ra quyết định đầu tư.
3.4 Tiếp tục rà soát lại hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách sửa đổi
Cần bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế theo hướng tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ cho thị trường. Định hướng chính sách thuế và thu NSNN nên theo hướng giảm
thuế suất, mở rộng đối tượng chịu thuế; tăng thuế suất thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng
không khuyến khích nhập khẩu và các mặt hàng có khả năng sản xuất trong nước, tăng thuế suất
thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm từ khai thác tài nguyên.
3.5 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế nhằm giảm thời gian, chi phí cho người nộp thuế, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho DN sản xuất kinh doanh phát triển; đẩy mạnh hạ tầng kỹ thuật, hệ
thống thông tin quản lý tích hợp, có sự liên kết trao đổi giữa các cơ quan thu, các đại lý thuế với
cơ quan kiểm soát chi và ngân hàng thương mại… để phát triển và mở rộng thêm nhiều hình
thức nộp thuế đơn giản, thuận tiện cho người nộp thuế.
3.6 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các tiêu chí phân bổ ngân sách nhà nước
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các tiêu chí phân bổ ngân sách theo từng ngành, lĩnh vực, mục tiêu

cụ thể; Thúc đẩy nhanh việc đổi mới cơ chế tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công theo
hướng tăng cường trách nhiệm tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập để
đa dạng hoá, nâng cao chất lượng dịch vụ và quản lý công, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn
lực NSNN.


×