Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận Tài chính công Xem xét lại những tác động của chính sách tài khóa lên tổng thể kinh tế vĩ mô một phân tích tách biệt sử dụng kỹ thuật SVAR

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.93 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC

BỘ MÔN TÀI CHÍNH CÔNG
TIỂU LUẬN
Xem xét lại những tác động của
chính sách tài khóa lên tổng thể kinh tế vĩ mô:
một phân tích tách biệt sử dụng kỹ thuật SVAR

GVHD: PGS.TS SỬ ĐÌNH THÀNH
DANH SÁCH NHÓM 3:
(Lớp Ngân Hàng Đêm 5)
1. TRẦN THỊ THU VÂN
2. TRẦN ĐỨC
3. NGUYỄN NGỌC TRÍ
TPHCM, tháng 07 năm 2012
Tóm tắt
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 1
Bài viết này mô tả những tác động của thuế ròng và các cú sốc chi tiêu của chính phủ lên
giá, lãi suất, GDP và các thành phần của GDP ở bốn quốc gia OECD bằng cách sử dụng
một cách tiếp cận VAR cấu trúc (structural VAR). Đầu tiên trong bài viết này, tôi đề nghị
phân tách tổng thuế ròng thành bốn thành phần: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập, thuế gián thu và thuế bảo hiểm xã hội (social insurance taxes). Bài viết đưa ra ước
tính về những phản ứng của tổng thể kinh tế vĩ mô khi có những cải cách trong các thành
phần thuế ròng. Các kết luận chính của phân tích có thể được tóm tắt như sau: 1) phân
tách những cải cách của từng thành phần riêng trong thuế ròng, cho thấy các thành phần
này có tác động khác nhau lên các biến số kinh tế; 2) quy mô và tính lâu dài của những
hiệu ứng khác nhau giữa các quốc gia. Sự khác nhau này phụ thuộc vào sức mạnh của
nền kinh tế, các hiệu ứng thay thế, hiệu ứng thu nhập. Qua đó phản ánh cấu trúc của các
nền kinh tế; 3) các số nhân thuế dương trong các nghiên cứu trước đây chỉ được tìm thấy
đối với thuế thu nhập doanh nghiệp ở Mỹ, Canada, và Pháp và thuế an sinh xã hội ở Mỹ;


4) trong khi chúng tôi thấy rằng đầu tư tư nhân bị hất ra bởi thuế và chi tiêu chính phủ ở
Anh và Mỹ. Điều này phù hợp với mô hình tân cổ điển. Kết quả của chúng tôi đối với
nước Pháp và một phần nước Canada, chỉ ra có những tác động ngược lại của sự gia tăng
thuế và chi tiêu lên đầu tư tư nhân phù hợp với lý thuyết của Keynes; và 5) tiêu dùng cá
nhân bị đẩy vào bởi chi tiêu chính phủ đối với tất cả các nước ngoại trừ Anh và bị hất ra
do thuế ở tất cả các nước ngoại trừ Pháp. Trong khi các kết quả trước đây là phù hợp với
mô hình Keynes, sau này là phù hợp với lý thuyết tân cổ điển.
1. Giới thiệu
Một cách tiếp cận phổ biến trong các nghiên cứu thực nghiệm lẫn lý thuyết về những cú
sốc chính sách tài khóa là đánh giá phản ứng của nền kinh tế vĩ mô khi có những thay đổi
ngoại sinh trong các biến chính sách tài khóa. Từ một quan điểm lý thuyết, các tác động
của chính giá tài khóa tùy nghi lên nền kinh tế cơ bản dựa trên một số giả định chính. Ví
dụ, sự hiện diện hay vắng mặt của hành vi hướng tới tương lai (forward-looking
behavior) đóng một vai trò rất quan trọng trong cơ chế truyền tải chính sách tài khóa. Nếu
các tác nhân không mong đợi, thì những thay đổi dự kiến trong tương lai sẽ không có bất
kỳ ảnh hưởng nào đến các quyết định giai đoạn hiện tại. Ngược lại, các tác nhân với kỳ
vọng hợp lý, các thay đổi dự kiến trong tương lai sẽ tác động lên các biến kinh tế vĩ mô
chủ yếu.
Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm không cung cấp một bức tranh chung. Cụ thể, mặc
dù chuỗi nghiên cứu mới và chuẩn mực nhất, bắt đầu với Blanchard và Perotti (2002),
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 2
cho thấy số nhân sản lượng trong ngắn hạn dương là kết quả của sự gia tăng chi tiêu
chính phủ và cắt giảm thuế, quy mô ước tính và khoản thời gian của những hiệu ứng khác
nhau giữa các nghiên cứu. Trong thực tế, tầm quan trọng của số nhân có thể phụ thuộc
vào các đặc điểm kỹ thuật và / hoặc mẫu thời gian được sử dụng. Thật thú vị, thậm chí
còn có bằng chứng về số nhân chi tiêu âm của chính phủ Úc, Canada và Vương quốc Anh
cho một số giai đoạn với số lượng mẫu nhỏ (sun-sample periods) (Perotti, 2004).
Nhiều những nghiên cứu quan trọng sau đó nghiên cứu các tác động của chính sách tài
khóa lên các chỉ số chính kinh tế vĩ mô chủ yếu bằng cách sử dụng các mô hình
Structural Vector Auto Regression (SVAR). Ví dụ, Alesina, Ardagna, Perotti và

Schiantarelli (2002) điều tra những ảnh hưởng của một sự thay đổi trong chính sách tài
khóa lên đầu tư tư nhân bằng cách sử dụng nhóm các nước OECD. Phát hiện của họ bao
gồm sự gia tăng thuế có tác động làm giảm sản lượng giống với những phát hiện của
Blanchard và Perotti (2002). Ngoài ra, kết luận sau này cho rằng sự gia tăng tiêu dùng tư
nhân gia tăng theo sự gia tăng trong mức thuế suất.
Cả hai nghiên cứu chứng minh rằng bất cứ sự gia tăng thuế nào cũng sẽ làm giảm đầu tư
tư nhân. Hơn nữa, Perotti (2004) chỉ ra rằng của tác động của chính sách thuế trên GDP
và các thành phần của nó giảm dần theo thời gian. Mountford và Uhlig (2008) cố gắng
phân biệt các tác động của những cú sốc chính sách tài khoá đến nền kinh tế Mỹ giữa
năm 1955 và 2000. Họ đặt ra ba kịch bản khác nhau: một sự gia tăng chi tiêu với thâm
hụt tài chính, sự gia tăng chi tiêu với ngân sách cân bằng, và cắt giảm thuế với thâm hụt
tài chính. Họ kết luận rằng trong số ba kịch bản này, việc cắt giảm thuế với thâm hụt tài
chính là cách thức hiệu quả nhất để giúp gia tăng GDP. Gần đây hơn, bằng cách sử dụng
một cơ sở dữ liệu mới, Burriel et al (2010) phân tích tác động của chính sách tài khoá đến
nền kinh tế Mỹ và tổng thể khu vực châu Âu. Họ nhận thấy rằng phản ứng với những cú
sốc chi tiêu của chính phủ, GDP và lạm phát ở cả hai khu vực đều gia tăng mặc dù số
nhân sản lượng rất tương đồng và tăng đều đặn sau năm 2000. Nguyên nhân có thể là do
"dư thừa tiết kiệm toàn cầu" ở cả hai khu vực.
Ngoài ra, Burnside et al. (2004), Pappa (2009) và Ramey (2007) báo cáo thất nghiệp
giảm khi cú sốc chi tiêu gia tăng. Mặt khác, một vài nghiên cứu xem xét phản ứng của
tiền lương thực tế sau sự gia tăng chi tiêu chính phủ. Trong số đó, Pappa (2009) dẫn
chứng một sự gia tăng, còn Burnside et al. (2004) thì báo cáo tiền lương thực tế giảm.
Một số các thực tế được nêu ở trên có mâu thuẫn hoặc với lý thuyết tân cổ điển, mô hình
chu kỳ kinh doanh thực sự (RBC) hoặc với cách tiếp cận Keynes. Nói cách khác, dấu
hiệu và cường độ của tác động của chính sách tài khoá tùy nghi lên nền kinh tế vĩ mô
thường đưa ra các kết luận ngược nhau. Ví dụ, sau một cú sốc chi tiêu chính phủ dương,
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 3
lý thuyết Keynes mới có xu hướng dự đoán sản lượng, lương thực tế và lãi suất sẽ gia
tăng, trong khi đó tiêu dùng và đầu tư tư nhân sẽ giảm sút. Tuy nhiên, trong các mô hình
RBC (chu kỳ kinh doanh thực tế), các chính sách tài chính mở rộng sẽ dẫn đến tiền lương

thực tế giảm và đầu tư tư nhân gia tăng.
Ngoài ra, lý thuyết kinh tế đề xuất các hình thức thuế khác nhau có tác động khác nhau
lên hoạt động kinh tế vĩ mô. Ví dụ, Barro (1990) chỉ ra rằng trong khi chi phí phi sản
xuất, không tài trợ bởi thuế bị bóp méo, có tác động làm giảm tỷ lệ tăng trưởng rõ rệt, sự
gia tăng tài trợ chi phí sản xuất bằng thuế không bị bóp méo được dự đoán sẽ có một tác
động làm tăng tỷ lệ tăng trưởng. Baxter và King (1993) chỉ ra rằng tài trợ chi tiêu chính
phủ với các loại thuế một lần (lump-sum taxes: số thuế là cố định và không phụ thuộc
vào thu nhập, không có ảnh hưởng đến quyết định làm việc nhiều hay ít của người lao
động) và thuế bị bóp méo có hiệu ứng khác nhau lên nền kinh tế. Gordon et al. (2004 và
2004a) phân tích tác động lên doanh thu và chi phí của một sự thay đổi đáng kể trong
chính sách tài khóa, chẳng hạn như các tác động của việc chuyển đổi từ thuế thu nhập
trên vốn sang hệ thống thuế dựa trên tiêu dùng. Cả hai đều thấy rằng thuế tiêu dùng và
thuế thu nhập có tác động khác nhau lên tiết kiệm và quyết định đầu tư.
Theo quan điểm của những khác biệt, thông điệp trung tâm của bài viết này là những
nhóm thuế khác nhau có những tác động khác nhau lên nền kinh tế vĩ mô , tùy thuộc vào
nguyên nhân đằng sau của sự gia tăng thuế. Kết của chúng tôi cho thấy rằng phân chính
sách tài khóa bằng cách phân chia tổng thuế ròng và kiểm tra ảnh hưởng của chúng đến
tổng thể nền kinh tế cung cấp một bức tranh chính xác hơn xem xét tổng thuế ròng như là
một biến chính sách tài khóa. Để đạt được mục tiêu này, theo chương trình xác định của
Blanchard và Perotti (2002), mô hình VAR năm biến, trong đó bao gồm tổng chi tiêu
chính phủ, tổng thuế ròng, GDP, lạm phát và lãi suất được sử dụng như một điểm chuẩn
cho Canada, Pháp, Anh và Mỹ. Sau đó, tôi đề xuất một phân tách cấu trúc tổng số thuế
ròng thành bốn thành phần: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập, thuế gián thu và
thuế bảo hiểm xã hội. Bài viết cung cấp các ước tính của các phản ứng nền kinh tế vĩ mô
khi có sự đổi mới trong những nhóm thuế khác nhau bằng cách thay thế tổng thuế ròng
bằng mỗi thành phần thuế riêng biệt. Trong bước kế tiếp, phản ứng của các thành phần
GDP, đầu tư tư nhân và tiêu dùng, tương ứng từng cú sốc đối trong mỗi thành phần thuế
sẽ được kiểm tra.
Sự phân tách của từng đổi mới trong tổng số thuế ròng sẽ giúp chúng tôi đánh giá những
tác động kinh tế vĩ mô của những cú sốc chính sách tài khóa cho bốn nền kinh tế lớn với

các cấu trúc kinh tế khác nhau. Trong bối cảnh này, những cú sốc thuế thu nhập doanh
nghiệp, ví dụ, sẽ có một tác động rất khác nhau mô lên các chỉ số kinh tế vĩ mô hơn mô
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 4
một sự đổi thuế gián thu. Do đó, quan trọng là chúng ta hiểu được mức độ tác động của
việc gia tăng thuế ròng do một cú sốc này hay một cú sốc khác gây ra, trước khi quan tâm
đến phản ứng thuộc về chính sách có thể có của chính chúng ta.
Các kết luận chính của phân tích có thể được tóm tắt như sau: 1) sự phân tách của những
đổi mới tổng thuế ròng cho thấy các thành phần thuế ròng có tác động khác nhau lên các
biến số kinh tế; 2) Quy mô và sự bền bỉ của các tác động khác nhau giữa các quốc gia
phụ thuộc vào những tác động khác nhau (tức là, hiệu ứng sản lượng và sự giàu có âm,
hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập) kết quả từ cấu trúc của nền kinh tế; 3) số nhân
thuế tích dương báo cáo trong các nghiên cứu trước đây chỉ được phát hiện cho thuế thu
nhập doanh nghiệp ở Mỹ, Canada và Pháp và thuế an sinh xã hội ở Mỹ; 4) Về những lý
thuyết vĩ mô liên quan, chúng đây thấy rằng đầu tư tư nhân bị hất ra bởi thuế và chi tiêu
chính phủ ở Anh và Mỹ, điều này là phù hợp với một mô hình tân cổ điển. Ngược lại, kết
quả của chúng tôi đối với Pháp, và một phần của Canada cho thấy có những tác động
ngược lại của tăng thuế và chi tiêu đầu tư tư nhân, phù hợp với lý thuyết của Keynes; và
5) tiêu dùng tư nhân bị đẩy vào bởi chi tiêu chính phủ ở tất cả các nước ngoại trừ Anh và
bị hất ra do thuế trong tất cả các nước ngoại trừ Pháp. Trong khi kết quả trước đây là phù
hợp với một mô hình Keynes, thì sau này là phù hợp với lý thuyết tân cổ điển.
Phần còn lại của bài viết được tổ chức như sau. Phần II tập trung vào việc xác định các cú
sốc liên quan cấu trúc. Phần III mô tả dữ liệu. Phần IV nghiên cứu những tác động của
các cú sốc được xác định tại Mục II lên nền kinh tế vĩ mô của bốn quốc gia. Phần V phân
tích sự vững chắc của các kết quả và mục VI kết luận.
2. Mô hình
Chiến lược xác định của chúng tôi theo Blanchard và Perotti (2002). Biểu thị các vector
của các biến nội sinh bởi Xt và vector phần dư hình thức giảm bởi Ut, hình thức VAR
giảm có thể được biểu diễn như là
X
t

= A(L)X
(t-1)
+ U
t
(1)
X
t
là một vector N x 1 của các biến nội sinh, A(L) là một đa thức độ trễ dạng ma trận N x
N, và U
t
là một vector N x 1 của cải tiến hình thức giảm được giả định là phân phối độc
lập và giống nhau với ma trận hiệp phương sai bằng ma trận danh tính. Trong đặc điểm
kỹ thuật tiêu chuẩn của chúng tôi Xt and Ut bao gồm các biến sau đây:
Xt = [g
t
, T
t
,y
t
,p
t
,r
t
]' và U
t
= [u
g
t
, u
T

t
,u
y
t
,u
p
t
,u
r
t
]'
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 5
Tôi bắt đầu bằng cách thể hiện sự đổi mới hình thức giảm trong phương trình những thuế
ròng và chi tiêu chính phủ dưới dạng sự kết hợp tuyến tính của những cú sốc tài khoá về
cấu trúc e
g
t
and e
T
t
đến các biến này và cải tiến mới của các phương trình hình thức giảm
khác của các VAR, cụ thể là: u
y
t
, u
p
t
và u
i
t

. Điều này dẫn đến các phương trình chính thức
sau đây của các số dư hình thức giảm
Như đã đề cập Perotti (2004), trong khuôn khổ này, các hệ số α
i
j
đo lường cả hai phản
ứng tự động của biến tài khoá i đến biến kinh tế vĩ mô j và các phản ứng có hệ thống tùy
nghi của biến tài khoá i đến biến kinh tế vĩ mô j. Hệ số β
i
j
thể hiện các cú sốc chính sách
tài chính ngẫu nhiên tùy nghi đến các chính sách tài khóa, đây là những cú sốc tài khoá
"về cấu trúc". Nó cũng cần được lưu ý rằng chúng tôi tránh sử dụng phương thức phân
tách Cholesky. Bất kể thứ tự của các biến số tài khoá, Cholesky orthogonalization sẽ
không cung cấp các ước tính phù hợp của cú sốc thuộc về cấu trúc nếu, các α
i
j
khác zero
2
,
như trường hợp ở đây.
Bằng chứng trực tiếp về việc tiến hành chính sách tài khóa cho thấy sự tồn tại của độ trễ
trong quyết định theo nghĩa là nó không thể học hỏi về một cú sốc GDP, quyết định
những biện pháp tài khóa gì được dùng để phản ứng lại, vượt qua những biện pháp thông
qua cơ quan lập pháp và thực hiện chúng trong vòng ba tháng như chỉ ra bởi Blanchard
và Perotti (2002). Do đó, sự thay đổi tùy nghi trong biến i để đáp ứng với thay đổi biến j
là số không. Kết quả là, trong dữ liệu quý thành phần hệ thống tùy nghi của u
T
t
và u

g
t
sẽ
là zero: những hệ số sẽ chỉ thể hiện những phản ứng tự động đến hoạt động kinh tế.
Bởi vì các phần dư hình thức giảm có tương quan với e
t
, nó không thể ước tính bởi
bình phương tối thiểu thông thường.
Vì vậy, chúng tôi cần phải xây dựng các độ co giãn của biến tài khoá i đối với biến kinh
tế vĩ mô j nhằm tính toán những cú sốc chính sách tài khoá hình thức giảm điều chỉnh
theo chu kỳ:
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 6
Bước tiếp theo, để quyết định trật tự tương đối của các biến số tài khoá được dùng nhằm
xác định các cú sốc thuộc về cấu trúc đối với các biến này. Trong khi áp đặt = 0 mặc
nhiên công nhận các ưu tiên của các quyết định thuế, có thể được thiết lập bằng 0 nếu
quyết định chi tiêu chính phủ được coi là đầu tiên. Khó để tìm lý lẽ xác đáng đầy đủ biện
minh cho bất kỳ trật tự nào. Trong các đặc điểm kỹ thuật cơ bản giả định sau được sử
dụng. Trật tự đảo ngược không ảnh hưởng đến kết quả tương quan thấp cho trước giữa
hai cú sốc tài khoá hình thức giảm.
Kết quả là có thể tính bằng OLS từ công thức những sau:
Cuối cùng những hệ số của các biến kinh tế vĩ mô trong công thức sẽ được tính bằng
trung bình của những hồi quy biến công cụ. Công thức sau sẽ được sử dụng tính GDP
thực.
Sử dụng e
T
t và e
g
t như là công cụ tương ứng với u
T
t và u

g
t. Tương tự như vậy, công thức
giá có thể tính bằng cách sử dụng e
T
t, e
g
t, và e
y
t như là công cụ.
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 7
Cuối cùng phương trình lãi suất có thể tính phù hợp với e
p
t. Sau đó là hình thức giảm của
VAR và tất cả các hệ số được tính toán, chúng ta có thể tiến hành tính toán phản ứng sử
dụng hình thức trung bình chuyển động cấu trúc của VAR (the structural moving average
representation of the VAR).
3. Đặc điểm kỹ thuật, mẫu, và dữ liệu.
3.1. Dữ liệu
Mẫu của chúng tôi bao gồm bốn nước: Canada, Pháp, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Các
đặc điểm kỹ thuật chuẩn của VAR bao gồm các tất cả các dữ liệu thực tế hàng quý về chi
tiêu chính phủ (gt), thuế thuần (Tt), and tổng sản phẩm quốc nội GDP (yt), số giảm phát
GDP (Pt) và các giá trị hối phiếu Kho bạc (rt). Tt (thuế thuần) được định nghĩa là doanh
thu công ròng của các sự chuyển nhượng, trong khi gt (chi tiêu chính phủ) bao gồm cả
chi tiêu công và đầu tư công cộng. Tất cả các biến, ngoại trừ lãi suất, được chuyển đổi
sang dạng log. Bởi vì sự sẵn có của các biến số tài chính hàng quý, đặc biệt là cho các
thành phần thuế ròng, là một hạn chế ràng buộc, mẫu chạy từ 1960:1 đến 2000:4 cho Mỹ,
1961:1 đến 2000:4 cho Vương quốc Anh và 1970:1 đến 2000:4 cho Canada và Pháp. Tất
cả các biến đã được điều chỉnh yếu tố thời vụ bằng các nguồn tài liệu. Đối với tất cả các
quốc gia, giá trị Hối phiếu kho bạc và số giảm phát GDP dữ liệu thu được từ
cơ sở dữ liệu Thống kê tài chính quốc tế IMF. Phần còn lại của các dữ liệu đã được lấy từ

Cục Phân tích kinh tế cho Mỹ và từ OECD World Economic Outlook đối với các nước
còn lại.
3.2 Đặc điểm kỹ thuật:
Phương trình (1) được ước tính bởi (OLS) và số lượng của độ trễ được thiết lập theo
thông tin được cung cấp bởi sự kiểm định hệ số khả năng (LR), tiêu chuẩn thông tin
Akaike, Schwarz và Hannan-Quinn và các lỗi dự báo cuối cùng nói chung.
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 8
Để có được các phản ứng của tổng hợp kinh tế vĩ mô tới sự đổi mới chính sách thuế, thì
các đặc điểm kỹ thuật VAR được mô tả trong phần trước đó được ước tính. Mỗi mô hình
bao gồm các biến sau: chi tiêu chính phủ (gt), thuế doanh thu (Tt) (đo bằng doanh thu
thuế của nhóm thuế thứ i), tổng sản phẩm quốc nội GDP (yt), số giảm phát GDP (pt), và
giá trị Hối phiếu kho bạc (rt). Sau khi ước tính mô hình chuẩn (với tổng số thuế ròng và
chi tiêu chính phủ), chúng tôi ước tính các phản ứng của sự đổi mới tổng hợp kinh tế vĩ
mô trong các nhóm thuế khác nhau bằng cách thay thế tổng số thuế ròng với mỗi thành
phần thuế riêng biệt. Thêm nữa, chúng tôi ước tính một số chi tiết kỹ thuật khác, mà GDP
thay thế lần lượt bởi các thành phần cá nhân (tiêu dùng và đầu tư).
Sau khi nghiên cứu, độ co giãn của thuế đối với GDP xây dựng từ các dữ liệu được cung
cấp bởi OECD World Economic Outlook, chúng tôi giả định rằng, trong dữ liệu hàng
quý, độ co giãn hiện tại của chi tiêu chính phủ đối với lượng hàng sản xuất là bằng
không. Giả định rằng, việc chi trả lãi đối với các khoản nợ của chính phủ được loại trừ ra
khỏi định nghĩa chi tiêu và thuế ròng của chính phủ, độ co giãn của hai biến đối với lãi
suất và bằng 0. Hơn nữa, độ co giãn của các biến tài chính đối với tiêu dùng và
đầu tư tư nhân thực tế bằng độ co giãn đối với thành phần GDP thực tế trong tổng số của
cả hai. Cuối cùng, theo Tenhofen et al (2006), độ co giãn GDP giảm phát chỉ đơn giản là
độ co giãn GDP thực của biến tài chính trừ đi 1.
Bảng 1 cung cấp một cái nhìn tổng quan về độ co giãn hàng quý đang được sử dụng.
4.Kết quả thực nghiệm.
Chúng tôi tính toán ảnh hưởng của các cú sốc khác nhau của chính sách tài chính trên
cơ sở mô hình ước tính SVAR. Các số liệu phản ánh các kết quả hiển thị một sự gia tăng
1% ngoại sinh trong biến tài chính. Trong mọi trường hợp, phản ứng được báo cáo trong

năm năm và độ tin cậy là 90%, tương ứng với tỷ 5 % và 95 % của các phản ứng, đã thu
được bởi bootstrapping (là một phương pháp thống kê được dùng để kiểm tra giả thuyết)
với 200 lần lập lại. Về khía cạnh này, lưu ý rằng, sự lựa chọn của chiều rộng khoảng tin
cậy là rộng hơn tiêu chuẩn nghiên cứu chỉ có là 68%.
Hình (1) - (4) hiển thị các phản ứng của các chỉ số kinh tế vĩ mô khác nhau
đối với cú sốc tổng số thuế ròng. Cụ thể, trong khi phản ứng của sản lượng ở Pháp là ý
nghĩa thống kê, thì GDP ít bị tác động do sự đổi mới thuế thuần ở Mỹ, Canada và Anh.
Trong khi phản ứng của GDP tại các nước châu Âu và Canada vẫn còn đáng kể trong
khoảng gần một năm, thì sự suy giảm đáng kể của GDP ở Mỹ lại xuất hiện được nhiều
liên tục, phù hợp với kết quả của Burriel et al. (2010). Hơn nữa, lưu ý rằng, ở Anh,
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 9
Canada và Pháp, GDP có xu hướng tăng sau 10 quý, là phù hợp với những phát hiện của
Perotti (2004).
Ở Pháp, sự gia tăng đáng kể tiêu dùng cá nhân sau 2 năm là phù hợp với mô hình Keynes.
Hơn nữa, chúng tôi thấy rằng tiêu dùng tư nhân được bị hất ra bởi thuế ở Mỹ, Canada và
Anh là phù hợp với lý thuyết tân cổ điển. Ở đây, cũng cần lưu ý rằng, do sự tăng thuế,
người tiêu dùng giảm chi tiêu của họ, các khoản tiết kiệm quốc gia sẽ tăng thấp hơn lãi
suất thực tế ở các nước này trong thời gian trung hạn.
Liên quan đến đầu tư, hình (1) - (4) và hình (5) - (8) dẫn đến kết quả sau đây: phương
pháp tiếp cận Keynes, tăng chi tiêu có thể mang lại hoặc tăng hoặc giảm đầu tư tùy thuộc
vào độ lớn tương đối của các tác động do sự gia tăng sản lượng và sự gia tăng lãi suất,
nhưng trong cả hai trường hợp, tăng chi tiêu và thuế có tác dụng ngược lại về đầu tư như
đã đề cập trong Blanchard và Perotti (2002). Áp dụng phương pháp này cho kết quả của
chúng tôi ở Pháp và một phần ở Canada, chúng tôi đã không đạt được cùng một kết luận
ở Hoa Kỳ và Anh.
Hình (5) - (8) cho thấy các phản ứng của kinh tế vĩ mô tổng hợp lại thành sự gia tăng chi
tiêu chính phủ. Ảnh hưởng của GDP là tích cực và đáng kể trong tất cả các quốc gia,
ngoại trừ Anh. Trong khi quy mô của phản ứng tương tự như ở Mỹ, Canada và Pháp, cấu
trúc phản ứng của sản lượng là hơi khác nhau, trong ý nghĩa đó, sau khi một sự gia tăng
ban đầu, GDP bắt đầu suy giảm và sau khoảng 10 quý, thì tăng nhẹ trở lại ở Pháp. Tại

Canada, sản lượng sau khi tăng ban đầu, thì giảm sút, trong khi ở Mỹ sản lượng gia tăng
liên tục. Tại Anh, phản ứng tiêu cực của GDP là không đáng kể, phù hợp với kết quả của
Perotti (2004).
Ngoài ra, các hành vi tiêu dùng cá nhân khá giống với GDP: về cơ bản làm tăng tác động
ở Mỹ, Canada và Pháp, nhưng giảm ở Anh. Trong khi kết quả trước đây là phù hợp với
một mô hình Keynes, sau này là phù hợp với lý thuyết tân cổ điển.
Những chi tiêu đột biến của Chính phủ có tác động tăng lãi suất ở ba
nước (Canada, Pháp và Anh) và về cơ bản không có hiệu lực tác động ở Mỹ. Đáng lưu ý
ở đây là: kết quả trước đây có thể hòa hợp với cả hai mô hình tân cổ điển và mô hình
Keynes.
Hình (9) - (12) thể hiện các tác động của sự đột biến kinh tế vĩ mô đến sự đóng góp an
sinh xã hội. Như được biết đến một cách rộng rãi, thuế an sinh xã hội đối với lao động là
một biên chế thuế. Do đó, sự thay đổi sản lượng phụ thuộc vào hai hiệu ứng: thay thế và
thu nhập.
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 10
Đổi mới thuế an sinh xã hội bằng tính thuế thêm cho mỗi giờ làm việc, làm giảm chi phí
cho việc vui chơi giải trí, sẽ dẫn đến giảm đối tượng nộp thuế. Vì vậy, các cá nhân sẽ
làm việc ít hơn để nộp thuế thấp hơn. Đây là hiệu ứng thay thế (SE). Mặt khác, giảm tiền
lương thực tế sẽ làm giảm thu nhập của hộ gia đình. Vì vậy, họ sẽ không đủ khả năng chi
tiêu cho vui chơi giải trí và kết quả là, sẽ cung cấp nhiều lao động hơn. Đây là hiệu ứng
thu nhập (IE). Cường độ tương đối của hai hiệu ứng phụ thuộc vào các tình huống như độ
co giãn của cung cầu lao động. Do đó, giờ làm việc có thể tăng, giảm hoặc vẫn giữ
nguyên sau khi đổi mới thuế. Ở Mỹ, IE chiếm ưu thế hơn SE. Đáng chú ý là biến diễn
của đầu tư tư nhân và tiêu dùng tư nhân: nó thường gia tăng tác động ở đất nước này. Đối
với Canada, Pháp và Anh, mức thuế an sinh xã hội cao hơn làm giảm sản lượng đáng kể,
đặc biệt giảm nghiêm trọng và kéo dài trong năm năm tại Pháp.
Nói chung, theo như các thành phần GDP có liên quan, đầu tư và tiêu dùng tư nhân,
tương tự như GDP. Tuy vậy, một vài khác biệt nhỏ có thể thấy được, đặc biệt là biến diễn
trong ngắn hạn. Mức giá tại Canada sẽ giảm đáng kể sau 4 quý và vẫn duy trì đáng kể
trong 5 năm do cầu giảm để đáp ứng với một sự đổi mới thuế an sinh xã hội ở đất nước

này. Tuy nhiên, biến diễn ngược lại ở Pháp cho thấy, sau một sự suy giảm đáng kể trong
ngắn hạn, thì mức giá tăng không đáng kể trong trung hạn, sản lượng giảm 0.4% để đáp
ứng với sự đột biến của các khoản đóng góp an sinh xã hội
Ở Mỹ, hiệu quả tác động của thuế an sinh xã hội đối với lãi suất là tích cực, do sự gia
tăng nhu cầu tiền bạc và đầu tư tư nhân, trong khi hiệu quả tác động ước tính vào mức
trần lãi suất là không đáng kể cho những nước còn lại.
Hình (13) - (16) trình bày những tác động đột biến các loại thuế gián thu đối với chỉ số
kinh tế vĩ mô. Phản ứng của mỗi thành phần thường là tương tự giữa các quốc gia, do đó
tổng kết cấu trúc của chúng không phải là khó khăn. Trong tất cả các mẫu, tác động tới
GDP là tiêu cực tại tất cả các quốc gia. Bởi vì chúng làm giảm sức mua thực sự sau thuế
thu nhập, các loại thuế gián tiếp dẫn đến một động lực mạnh mẽ để cắt giảm đầu tư. Mặt
khác, bởi vì khi các loại thuế gián thu có thể được định nghĩa là các loại thuế bán hàng,
thuế hàng hoá và dịch vụ, thì có một sự sụt giảm trong chi tiêu để đáp ứng với sự gia tăng
mức thuế. Đổi mới thuế gián thu cũng dẫn đến sự sụt giảm trong mức giá do nhu cầu thấp
hơn. Lưu ý rằng, ngoại trừ một phần Canada và Pháp (nơi mà chúng ta đã thấy lãi suất
tăng không đáng kể trong 3 quý), có một sự suy giảm lãi suất để đáp ứng với sự đổi mới
thuế gián thu. Điều này có thể được giải thích bởi sự sụt giảm thu nhập và quy mô đầu tư.
Hình (17) - (20) mô tả phản ứng của các biến nội sinh đến sự đổi mới thuế thu nhập. Ở
đây, hai hiệu ứng đối lập cần phải được đưa vào tính toán. Đầu tiên, sự gia tăng thuế thu
nhập làm giảm tài sản nhiều hộ gia đình bởi sự tăng giá trị của thuế hộ gia đình. Do đó,
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 11
tiêu thụ giảm trong khi tiết kiệm, lãi suất và lao động tăng. Tuy nhiên, sự gia tăng giờ làm
việc sẽ dẫn đến một sự suy giảm tiền lương thực tế, do đó, đầu tư và sản lượng tăng. Đây
là hiệu ứng của cải. Thứ hai, cùng một chính sách sẽ làm chậm hoạt động kinh tế bằng
cách giảm sản lượng. Bởi vì nhu cầu tiền tệ phụ thuộc vào thu nhập, suy giảm trong sản
lượng giảm lãi suất sẽ chèn đầu tư tư nhân. Mức độ tràn ngập trong sẽ xoay quanh sự
nhạy cảm của đầu tư tư nhân với thu nhập và lãi suất. Tuy nhiên, hiệu quả cuối cùng sẽ là
một sự suy giảm trong tiêu thụ, đầu tư và sản lượng. Đây là hiệu ứng đầu ra. Do đó,
những chỉ số hiệu quả chỉ số về kinh tế vĩ mô sẽ phụ thuộc vào hai hiệu ứng này.
Đối với Hoa Kỳ, Canada và Vương quốc Anh, hiệu ứng đầu ra chi phối hiệu ứng tài sản

và do đó tác động đến tiêu dùng, đầu tư và sản lượng là âm. Đối với Pháp, mặc dù tác
động đến sản lượng và đầu tư là âm, sản lượng gia tăng đều đặn, và có một sự gia tăng
không đáng kể trong đầu tư từ quý thứ ba. Mặt khác, cần lưu ý rằng tiêu dùng tăng đáng
kể ở Canada và Pháp. Có một số cách để giải thích điều này. Ví dụ, Linnemann (2006) áp
dụng một hàm hữu dụng riêng biệt trong tiêu dùng và giải trí trong một thiết lập RBC,
trong đó tiêu dùng và giải trí thay thế nhau. Tác động thu nhập giảm khiến người lao
động tăng giờ làm và giảm giải trí. Hữu dụng biên của tiêu dùng, do đó, gia tăng. Để làm
giảm bớt tác động tiêu cực của giảm thu nhập, cá nhân sẵn sàng làm việc nhiều hơn và
tiêu dùng nhiều hơn, điều này sẽ dẫn đến sự gia tăng trong tiêu dùng.
Hình (21) - (24) hiển thị những phản ứng của các chỉ số kinh tế vĩ mô khi có sự đổi mới
về thuế thu nhập doanh nghiệp. Các phản ứng cho thấy một sự thay đổi đồng biến đáng
kể của ở tất cả các nước, ngoại trừ Anh. Điều này có thể, một lần nữa, được giải thích bởi
hiệu ứng tài sản và hiệu ứng đầu ra âm. Ở đây, các hiệu ứng tài sản chiếm ưu thế hơn
hiệu ứng thu nhập ở Canada, Pháp và Mỹ. Hơn nữa, cần tiếp tục lưu ý rằng sự gia tăng
thuế thu nhập từ vốn sẽ được phản ánh vào giá. Nó sẽ làm giảm sức mua của tiền lương
thực sau thuế và do đó tác động tích cực đến sản lượng. Kết quả là, sự gia tăng thuế thu
nhập doanh nghiệp sẽ dẫn đến một hiệu ứng tác động tăng lên GDP và tất cả các thành
phần tư nhân của GDP. Như vậy, sau khi tăng tác động, tiêu dùng tư nhân và đầu tư tư
nhân sẽ giảm trong trung và dài hạn ở Mỹ. Tuy nhiên, tác động tích cực đáng kể về đầu
tư kéo dài gần ba năm ở Canada trong khi tiêu dùng gia tăng không đáng kể. Ở đây, lưu ý
rằng kết quả của chúng tôi là phù hợp với Arin và Koray (2006) và Heppke-Falk et al.
(2006). Điều cũng đáng nói đến là đổi mới thuế thu nhập doanh nghiệp có tác động tích
cực đến lãi suất danh nghĩa trong ba quốc gia (Canada, Pháp và Mỹ) do sự gia tăng trong
thu nhập và đầu tư; và hiệu ứng tác động không đáng kể ở Vương quốc Anh.
5. Kiểm tra thô
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 12
Tôi thực hiện một loạt các kiểm tra thô với 5 đặc điểm kỹ thuật VAR. Đầu tiên, sử dụng
một trật tự khác nhau của các biến chi phí khi xác định các đột biến. Cho đến nay, chi
tiêu chính phủ được xếp vị trí đầu tiên. Tuy nhiên, không có cơ sở cho việc lựa chọn quá
trình tìm kiếm các vector trực giao đối với những cái còn lại như đã đề cập trong Perotti

(2004). Tuy nhiên, tất cả các kết quả được ước tính lại theo giả định rằng chi tiêu của
chính phủ được sắp xếp thứ tự sau thuế. Các kết quả thu được với đặc điểm kỹ thuật thay
thế này đã rất gần với mô hình chuẩn.
Như đã đề cập trong Perotti (2004), việc thực hiện các độ trễ của chính sách tài khóa có
thểlàm suy yếu khả năng dự đoán của các cú sốc chính sách tài khóa ước tính. Nó có thể
cần một khoảng thời gian cho các thay đối trong chính sách tài khóa được thực hiện, và
theo tác giả, khu vực tư nhân có thể dự đoán những thay đổi này trước các nhà toán kinh
tế. Tuy nhiên, Blanchard và Perotti (2002) , những dự đoán của chính sách tài khóa
khônglàm thay đổi đáng kể kết quả. Dù sao, để kiểm tra sự chắc chắn của kết quả ban
đầu, tôi đã thử nhiều mức độ trễ khác nhau. Mặc dù có một số khác biệt nhỏ trong tính
toán, các kết quả ảnh hưởng đến 68% ước tính ban đầu.
Ngoài ra, mặc dù chúng tôi tin tưởng rằng độ co giãn chúng tôi sử dụng khá chính xác
khi chúng tôi đánh giá lại độ nhạy của các kết quả ước tính bởi những giá trị khác nhau.
Đầu tiên, theo Perotti (2004), tôi giả định độ co giãn của chi tiêu chính phủ theo giá là
-0.5. Kết quả, một lần nữa, rất gần với mô hình chuẩn. Sự khác biệt có ý nghĩa tối thiểu là
có một thay đổi rất nhỏ ở điểm ước tính của các phản ứng.
Cuối cùng, tôi đánh giá độ nhạy của các kết quả giá trị đối với khác nhau cho độ co giãn
cùa sản lượng trong trường hợp các công cụ thuế khác nhau. Nó được trình bày trong
Cohen và Folette (1999) chỉ là một biến động nhỏ trong độ co giãn thuế theo thời gian ở
Mỹ. Vì vậy, để nhận biết liệu có một sự thay đổi đáng kể trong phản ứng xung, độ co
giãn mô hình chuẩn được thay thế bằng +/-10% giá trị của chúng. Các kết quả thu được,
một lần nữa, rất gần với những mô hình chuẩn. Chỉ có một vài điểm phần trăm thay đổi
trong dự toán của các phản ứng xung.
6. Kết luận
Bài viết này đặc trưng cho hiệu ứng động của những cú sốc tổng số thuế ròng và chi tiêu
chính phủ lên GDP, giá cả và lãi suất trong bốn nước OECD bằng cách sử dụng một
phương pháp cấu trúc Vector Autoregression với cách thức xác định của Blanchard và
Perotti (2002). Hơn nữa, chúng tôi đề xuất phân tách cấu trúc thuế ròng thành bốn thành
phần: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập, thuế gián thu và thuế bảo hiểm xã hội.
Kết quả của chúng tôi thể hiện rằng phân tích chính sách tài khóa bằng cách phân tách

Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 13
thuế ròng và kiểm tra tác động của chúng đối với tổng thể nền kinh tế, cung cấp một hình
ảnh chính xác hơn so với việc xem thuế ròng như một chính sách tài khóa.
Các kết luận chính của phân tích có thể được tóm tắt như sau:
1) Phân tách sự đổi mới tổng số thuế ròng cho thấy các thành phần thuế ròng có tác động
khác nhau về các biến số kinh tế;
2) Quy mô và độ bền của những tác động khác nhau giữa các quốc gia tùy thuộc vào tác
động khác nhau (ví dụ sự giàu có tiêu cực và tác động sản lượng, tác động thay thế và tác
động thu nhập) tùy thuộc cấu trúc của các nền kinh tế;
3) Số nhân thuế dương báo cáo trong các nghiên cứu trước đây chỉ được tìm thấy cho
thuế thu nhập doanh nghiệp ở Mỹ, Canada và Pháp và thuế an sinh xã hội ở Mỹ;
4) Khi xem xét các lý thuyết vĩ mô liên quan, một mặt, chúng tôi thấy rằng ở Anh và Mỹ,
đầu tư tư nhân bị hất ra bởi do tăng thuế và chi tiêu của chính phủ ở Anh và Mỹ là phù
hợp với mô hình tân cổ điển. Mặt khác, kết quả của chúng tôi ở nước Pháp và một phần
Canada chỉ ra rằng có những tác động ngược lại thuế và chi tiêu làm gia tăng đầu tư tư
nhân là phù hợp với lý thuyết Keynes.
5) Tiêu dùng tư nhân được tăng do giảm chi tiêu chính phủ cho tất cả các quốc gia ngoại
trừ Anh, và giảm do tăng thuế tại tất cả các quốc gia, ngoại trừ Pháp. Trong khi kết quả
trước đây là phù hợp với một mô hình Keynes, kết quả sau này là phù hợp với thuyết tân
cổ điển.
Các phân tích làm sáng tỏ việc giải thích của số nhân thuế ròng dương tìm thấy trong các
tài liệu hiện có. Phân tách của sự đổi mới thuế ròng sẽ giúp chúng tôi đánh giá tốt hơn tác
động của những cú sốc chính sách tài khóa lên nền kinh tế vĩ mô, và, do đó, quan trọng là
chúng ta hiểu được mức độ mà tăng thuế ròng được quyết định bởi một cú sốc này hay
một cú sốc khác.
Những phát hiện trong bài viết này cũng cho thấy phương pháp tiếp cận mô hình tài
chính hiện thời phải được xem xét lại. Đầu tiên, kết quả cho thấy việc áp dụng các lý
thuyết kinh tế vĩ mô hiện tại dựa trên giả định những thay đổi của "tổng" thuế có thể
không rõ ràng. Khi kiểm tra cơ chế truyền tải của những cú sốc chính sách tài khóa, kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy xem xét những cú sốc thuế ròng như truyền thống

có thể gây hiểu nhầm. Thay vào đó, cần phải quan tâm đến các công cụ thuế khác nhau.
Nhóm 3 – Ngân hàng Đêm 5 – K20 14

×