Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN sự vận DỤNG NGUYÊN lý về mối LIÊN hệ PHỔ BIẾN của ĐẢNG về XEM xét GIỮA PHÁT TRIỂN bền VỮNG với bảo vệ môi TRƯỜNG ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.79 KB, 22 trang )

0
MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
I.
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – KHOA HỌC VỀ MỐI LIÊN

4
4
6
8

HỆ PHỔ BIẾN

1.1
1.2
1.3
II

g
2

Khái niệm về mối liên hệ
Tính chất của mối liên hệ
Ý nghĩa phương pháp luận
GẮN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
LÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN
HỆ PHỔ BIẾN CỦA ĐẢNG TA

2.1
2.2


2.3

Một số vấn đề chung về môi trường, phát triển bền vững
Mối liên hệ giữa phát triển bền vững với bảo vệ môi trường
Gắn phát triển bền vững với bảo vệ môi trường là yêu cầu xuyên

suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11
11
13
17
21
22

MỞ ĐẦU
Trên lập trường nhất nguyên duy vật, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định thế giới vật chất tồn tại khách qua, độc lập với ý thức con người, với muôn


1
vàn sự vật hiện tượng phong phú, muôn vẻ, tác động qua lại ràng buộc, chuyển
hóa cho nhau, không ngừng vận động phát triển. Bằng phương pháp luận biện
chứng, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho chúng ta bức tranh sinh động về thế
giới, về tính muôn vẻ, tình không ngừng vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Tất cả những quan niệm đó được thể hiện qua hai nguyên lý cơ
bản của phép biện chứng duy vật.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của

phép biện chứng duy vật. Hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình khi phủ
nhận mối liên hệ, sự tác động qua lại, ràng buộc, chuyển hóa lẫn nhau của thế
giới, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho chúng ta một bức tranh chằng chịt
về thế giới, các sự vật, hiện tượng, các quá trình của thế giới có mối liên hệ qua
lại, tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn,
là cơ sở cho con người xem xét đánh giá khách quan các mối liên hệ, quan hệ
của sự vật hiện tượng, các quá trình của hiện thực khách quan. Trên cơ sở đó
đánh giá chính xác những mối liên hệ bản chất, chủ yếu, bên trong của chúng để
xây dựng phương hướng, đề ra giải pháp, biện pháp phù hợp góp phần nâng cao
chất lượng hoạt động thực tiễn.
Hiện nay, phát triển kinh tế bền vững gắn với bảo vệ môi trường là một trong
những vấn đề quan trọng và ưu tiên bậc nhất đối với bất cứ quốc gia nào trên thế
giới và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Vấn đề về mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường cũng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm, thể hiện qua những chiến lược, quy hoạch, chương trình, chính sách hướng tới
phát triển nền kinh tế xanh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Có thể nói, bảo
vệ môi trường và phát triển kinh tế bền vững là hai mặt, hai yếu tố không thể tách
rời trong các chiến lược, các hoạch định chính sách phát triển của quốc gia. Chính
vì vậy, vận dụng phương pháp luận duy vật của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
vào phân tích mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế bền vững có ý
nghĩa rất quan trọng. Đây là cơ sở để chúng ta đánh giá khách quan, chính xác sự


2
tác động qua lại giữa hai yếu tố phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường.
Từ đó xây dựng những biện pháp tác động phù hợp để vừa thúc đẩy phát triển kinh
tế bền vững tạo tiền đề vật chất cho quá trình bảo vệ môi trường vừa bảo đảm vấn
đề môi trường tạo tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế bền vững.
Trong phạm vi bài tiểu luận, tác giả xin tập trung luận giải một số nội dung cơ

bản của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (khái niệm, tính chất) từ đó rút ra một số
ý nghĩa phương pháp luận cơ bản trong nhận thức và cải tạo thực tiễn. Trên cơ sở
đó, vận dụng vào xem xét mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế
bền vững, đánh giá khách quan sự tác động giữa bảo vệ môi trường và phát triển
kinh tế bền vững, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả
mối quan hệ này, từ đó đánh giá một cách khách quan, khoa học về các chính sách
phát triển kinh tế của Đảng ta hiện nay.

I. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – KHOA HỌC VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ
BIẾN

1.1. Khái niệm mối liên hệ


3
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối
liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời
nhau? Nếu chúng có mối liêm hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, trả lời những câu hỏi đó ta thấy có nhiều quan điểm
khác nhau. Quan niệm chù nghĩa duy tâm hiểu cơ sở của sự liên hệ, tác động
qua lại và sự vận động, chuyển hóa của các mối liên hệ là do các lực lượng siêu
nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người. Xuất phát từ quan điểm duy tâm
chủ quan, Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa sự vật và hiện tượng là cảm giác.
Hêghen với quan điểm duy tâm khách quan lại tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại
giữa các sự vật và hiện tượng ở ý niệm tuyệt đối.
Ngược lại, Quan niệm siêu hình phủ nhận sự liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng, có chăng thì cũng chỉ là những mối liên hệ bề ngoài, ngẫu nhiên. Tuy cũng
có người thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó, nhưng lại phủ nhận khả
năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau. Galilê cho rằng
các mối quan hệ giữa các sự vật là những mối quan hệ về toán học. NewTơn cho

rằng các mối quan hệ giữa các sự vật là những mối quan hệ về cơ học.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng cho rằng các sự vật, hiện
tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại,
chuyển hóa lẫn nhau, cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là tính
thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật hiện tượng trên thế giới dù có đa
dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì cũng chỉ là những dạng tồn tại khác
nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó,
chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết
học duy vật biện chứng khẳng định rằng Liên hệ là sự quy định tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, các quá trình và các yếu tố trong một sự vật.


4
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua
lại, sự chuyển hóa lẫn nhau các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự
vật, một hiện tượng trong thế giới.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông
qua vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật,
hiện tượng cũng chỉ bộc lộ qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân
chúng hay sự tác động của chúng với các sự vật hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có
thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối
liên hệ, sự tác động của con người đó với người khác, đối với xã hội, đối với tự
nhiên, thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người cũng
chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự nhiên,
cải biến xã hội và cải biến chính con người.
Liên hệ là một đặc trưng của thế giới khách quan. Bản chất của thế giới là
vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và mọi bộ phận của thế giới vật
chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau. Liên hệ là cơ sở tồn tại của mọi
sự vật hiện tượng. Chúng ta đều biết vận động là “thuộc tính cố hữu của vật

chất”, là “phương tức tồn tại của vật chất”. Mà vận động là thuộc tính bên
trong, vốn có của sự vật, là sự tự thân vận động do sự liên hệ giữa các yếu tố
nội tại cấu thành sự vật.
Liên hệ và quan hệ vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Quan hệ là
sự ràng buộc phụ thuộc, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng. Liên hệ trước hết là mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng, song không
phải là mọi mối quan hệ đều là liên hệ. Chỉ những mối quan hệ nào mà sự thay
đổi của một bên nhất định kéo theo sự thay đổi của bên kia mới là liên hệ.
Mối liên hệ phổ biến là những mối liên hệ chung nhất có ở mọi sự vật hiện
tượng. Mối liên hệ cụ thể là những mối liên hệ chỉ xuất hiện ở một số lĩnh vực
hoặc chỉ tồn tại trong một thời điểm nhất định


5
1.2. Tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng, nó tồn tại không phụ thuộc vào lực lượng siêu nhiên, ý
thức hay cảm giác của con người. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang
hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác.
Xuất phát từ kết cấu vật chất (thế giới vật chất là vô cùng vô tận, không có
vật nhỏ nhất, không có vật lớn nhất, chỉ có vật vô cùng nhỏ và vật vô cùng lớn.
Giữa các bộ phận cấu thành nên sự vật hiện tượng có mối liên hệ với nhau. Sự tồn
tại hay mất đi của mối liên hệ này làm cơ sở cho sự ra đời của mối liên hệ khác đều
do quy luật khách quan quy định. Do vậy, trong nhận thức sự vật hiện tượng con
người phải tìm ra, nhận thức mối liên hệ, từ đó tác động vào mối liên hệ trong hoạt
động thực tiễn chứ không được áp đặt chủ quan các mối liên hệ.
Tính phổ biến của mối liên hệ
Mỗi sự vật hiện tượng vừa có kết cấu riêng, lại vừa nằm trong kết cấu chung
của thế giới vật chất, nên giữa chúng có mối liên hệ về mặt không gian tạo thành

một chỉnh thể thế giới, do đó mối liên hệ có ở mọi sự vật, hiện tượng. Dựa vào lịch
sử tồn tại của các sự vật hiện tượng, không có sự vật hiện tượng nào ra đời từ hư vô
mà bao giờ nó cũng có nguyên nhân từ những có sự vật hiện tượng trước nó, nên
giữa chúng có mối liên hệ về mặt thời gian. Chính những mối liên hệ này làm cho
các có sự vật hiện tượng có thể chuyển hóa (thay thế) được cho nhau, do đó mối
liên hệ có ở mọi sự vật, hiện tượng.
Trên thực tế, mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi có sự vật, hiện tượng, mọi
quá trình, ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy; ngay trong các mặt, các yếu
tố, các bộ phận của một có sự vật hiện tượng hay giữa các giai đoạn của nó cũng có
liên hệ với nhau.
Trong tự nhiên, mối liên hệ thể hiện ở sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng trong quá trình tiến hoá từ vô cơ đến hữu cơ, trong quá trình xuất hiện


6
sự sống, mối liên hệ giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường,
giữa các loài, giống thực vật, động vật với nhau.
Trong xã hội, mối liên hệ phổ biến thể hiện ở sự tác động qua lại giữa các mặt
của đời sống xã hội như: kinh tế - chính trị, quan hệ con người - con người trong
lịch sử xã hội, trong lao động sản xuất, trong đấu tranh giai cấp, lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng…
Trong tư duy, biểu hiện sự liên hệ giữa các hình thức, các trình độ, các giai
đoạn của tư duy (khái niệm - phán đoán - suy luận).
Tính đa dạng muôn vẻ của mối liên hệ
Sự vật có nhiều mối liên hệ, mỗi thời điểm khác nhau mối liên hệ khác nhau,
vai trò của các mối liên hệ.
Về phạm vi: Có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, có mối liên
hệ bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một lĩnh vực hoặc một số
lĩnh vực của thế giới. Phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những mối
liên hệ phổ biến tức là những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của toàn bộ

thế giới. Còn các hình thức và các kiểu liên hệ cụ thể trong các lĩnh vực khác
nhau của thế giới là đối tượng nghiên cứu của các khoa học cụ thể.
Về hình thức và vai trò của mối liên hệ: Có mối liên hệ bản chất và mối liên
hệ không bản chất, có mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ
tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián
tiếp... Mối liên hệ cơ bản quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất
cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mối
liên hệ không cơ bản là mối liên hệ về một phương diện nào đó của sự vật, nó
quyết định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật. Mối liên hệ
bản chất là mối liên hệ quyết định sự tồn tại và phát triển của các sự vật. Trong
khi đó, mối liên hệ không bản chất là mối liên hệ tác động hoặc quy định một mặt
nào đó của sự vật.
Về vai trò: Có mối liên hệ đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển
của sự vật, có mối liên hệ chỉ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của sự vật.


7
Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa
nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối quan hệ, phạm vi và vai trò các
mối liên hệ trong hiện thực không ngang bằng nhau. Các loại liên hệ khác nhau
có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra hoặc do thay
đổi phạm vi bao quát trong khi xem xét hoặc do kết quả sự vận động khác nhau
của chính sự vật và hiện tượng.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở cho chúng ta quan
điểm phương pháp luận khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể mà trực tiếp là
nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức các sự
vật, hiện tượng, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét sự vật nh ư một
chỉnh thể của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các

mối liên hệ của chúng trong bản thân sự vật; mối liên hệ giữa sự vật với các
sự vật khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt, các mối liên hệ
trung gian, gián tiếp.
Trong nhận thức, tính toàn diện là yêu cầu tất yếu của cách tiếp cận khoa
học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động có thể có của đối tượng nghiên
cứu trong tính toàn vẹn của nó. V. I. Lênin viết: “muốn thực sự hiểu được sự vật,
cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và
“quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”; phải tính đến “tổng hoà những quan hệ muôn
vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Nghĩa là phải xem xét khách thể trong
tất cả những mối liên hệ và quan hệ của nó với khách thể khác.
Theo V. I. Lênin, “chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn
đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phòng cho chúng ta
không phạm sai lầm và sự cứng nhắc”. Tuy nhiên, về mặt nguyên tắc, trong những
điều kiện cho phép, cần phải nắm được thông tin đầy đủ nhất về sự vật để có nhận
thức toàn diện nhất và đúng đắn nhất về sự vật.


8
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi xem xét sự vật trong mối liên hệ với nhu cầu
thực tiễn của con người. Cùng một sự vật, xuất phát từ nhu cầu khác nhau chủ thể phản
ánh những mặt khác nhau của sự vật và do vậy, nó biểu hiện ra những cái khác nhau.
Xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật đòi hỏi
phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta
mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá
trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật.
V. I. Lênin viết: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các
mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó,
chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”1.
Như vậy, xem xét toàn diện nhưng không bình quân, dàn đều mà có trọng
tâm, trọng điểm; phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong

tổng thể của chúng; phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến
chỗ khái quát để rút ra cái chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự
tồn tại và phát triển của sự vật.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến
diện chỉ thấy một mặt mà không thấy mặt khác, hoặc giả chú ý đến nhiều mặt
nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được bản chất của sự vật. Quan
điểm này cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung. Chủ nghĩa
chiết trung cũng tỏ ra chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng
lại không biết cách rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản của sự vật, xem xét
một cách bình quân, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau,
tạo thành một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương
hướng và bất lực trước chúng. Thuật nguỵ biện cũng để ý đến nhiều mặt nhiều
mối liên hệ khác nhau của sự vật nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ
bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật
nguỵ biện đều là những biểu hiện của phương pháp luận sai lầm trong xem xét
các sự vật, hiện tượng.
1

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 42, tr. 364


9
Vạch rõ đặc điểm của chủ nghĩa chiết trung và phép nguỵ biện khác với phép
biện chứng, V.I.Lênin viết: “Tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái niệm,...
áp dụng một cách chủ quan = chủ nghĩa chiết trung và nguỵ biện. Tính linh hoạt áp
dụng một cách khách quan nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá trình vật chất
và sự thống nhất của quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính
xác sự phát triển vĩnh viễn của thế giới”2
Rõ ràng, nguyên tắc toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn đều,
liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật, hiện tượng; nó đòi hỏi phải

làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng đó.
Từ những phân tích trên cho thấy, lôgíc của quá trình hình thành nguyên tắc
toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn cơ bản
là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ
cụ thể của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó,
và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về
bản chất của sự vật.
Từ nguyên tắc toàn diện trong nhận thức, chúng ta đi đến nguyên tắc đồng
bộ trong hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi muốn cải tạo sự vật, hiện
tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật.
Song, trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then
chốt ; nghĩa là phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách
có trọng điểm” trong cải tạo sự vật.
Trong xem xét sự vật phải chú ý đúng mức sự gắn bó chặt chẽ với hoàn cảnh
đã nảy sinh, duy trì và phát triển nó. Theo V.I.Lênin, muốn thực hiểu được sự vật
phải nắm vững quan điểm “không có chân lý trừu tượng”, rằng “chân lý luôn luôn
là cụ thể”3. Bởi vì, chân lý bao giờ cũng được hình thành dựa trên sự phân tích,
khái quát những điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định trong những điều kiện không
gian, thời gian nhất định. Tách khỏi những điều kiện cụ thể, mọi chân lý sẽ trở
2
3

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t. 29, tr. 372
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 42, tr. 364.


10
thành trừu tượng và trống rỗng, chỉ là lời nói suông.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải gắn với không

gian và thời gian, với hoàn cảnh tồn tại lịch sử - cụ thể của nó. Phải biết phân tích
cụ thể một tình hình cụ thể, do đó phải sáng tạo trong nhận thức và hành động.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi vận dụng lý luận vào thực tiễn không dừng lại ở công
thức, sơ đồ chung mà phải tính đến những điều kiện lịch sử - cụ thể của sự vận
dụng. Khi xem xét một luận điểm, một chân lý nào đó phải gắn với những điều
kiện hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, bất cứ chân lý nào cũng ra đời trong trong điều kiện
hoàn cảnh cụ thể, trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định. Nguyên
tắc này cũng đòi hỏi phải chống lại bệnh rập khuôn, giáo điều, máy móc, chủ nghĩa
hư vô lịch sử, bệnh “chung chung, trừu tượng”, quan điểm chân lý vĩnh cửu. Khi
triển khai, tổ chức áp dụng các nguyên lý, lý luận chung phải phân tích cụ thể một
tình hình cụ thể để xác định mục tiêu, giải pháp phù hợp.
II. GẮN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀ SỰ
VẬN DỤNG SÁNG TẠO NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN CỦA
ĐẢNG TA

2.1. Một số vấn đề chung về môi trường, phát triển bền vững
a. Môi trường
Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam quy định: "Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và thiên nhiên."
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết
cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí,
đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ bao gồm
các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:


11

Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực
vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà
cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản
cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho
ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như:
Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ
tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi trường xã
hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên
sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người
khác với các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất
cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống,
như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo...
Trong phạm vi bài tiểu luận, tôi chỉ tập trung khai thác mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế bền vững gắn với bảo vể môi trường theo nghĩa là môi trường tự nhiên
không khai thác theo các góc độ của khái niệm môi trường.
b. Phát triển bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống
xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả quá
trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi
trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội.
Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của
Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn
cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự phát
triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng



12
đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền
vững được xác định là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế
bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã
hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI)
là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người;
trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn
minh; Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được
sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục
tiêu thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong giới
nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan niệm về
phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh: Một là, phát triển bền
vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị môi trường sống, coi giá
trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố cấu thành những giá trị cao nhất
cần đạt tới của sự phát triển. Hai là, phát triển bền vững là sự phát triển dài hạn,
cho hôm nay và cho mai sau; phát triển hôm nay không làm ảnh hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được định
nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã
hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật những yêu
cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện và
tình hình ở Việt Nam
2.2. Mối liên hệ giữa phát triển bền vững với bảo vệ môi trường
Có thể nói,môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt
chẽ, tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên (bao gồm

cả tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội.


13
Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên: Rất nhiều
quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ,
thiết bị công nghệ hiện đại,... Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự
nhiên nói chung (trong đó có cả tài nguyên) có vai trò quyết định đối với sự phát
triển bền vững về kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương. Vai
trò của mối liên hệ này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa
đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.
Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên
liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động
của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên không phải
gì khác, mà chính là các yếu tố môi trường.
Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có không khí để thở, cần
có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí, học tập nâng
cao hiểu biết,... Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi trường.
Như vậy chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên - kể cả sức lao
động) là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống của con người.
Hay nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống. Tuy nhiên,
cũng phải nói rằng môi trường tự nhiên cũng có thể là nơi gây ra nhiều thảm họa
cho con người (thiên tai), và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu con người gia tăng
các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân bằng tự nhiên.
Ngược lại môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu ra”
các chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản xuất
thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải, chất thải rắn). Trong
các chất thải này có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái, hoặc gây
ra các sự cố về môi trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội loài người

cũng thải ra môi trường rất nhiều chất thải. Những chất thải này nếu không được xử
lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.


14
Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất thải,
đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đối với môi trường.
Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và
tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã
hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân cũng
như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có
mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn
phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Trong hệ thống kinh tế - xã hội, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu
thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng
lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với các thành
phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó.
Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo
môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó, nhưng
có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.
Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh
tế - xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên - đối tượng của sự phát
triển kinh tế - xã hội hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động kinh
tế - xã hội trong khu vực.
Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng gây ô
nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát
triển và bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững không được khai thác quá mức
dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp sản xuất sạch, phát

triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường; bảo tồn các nguồn gen
động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng nâng cao nhận thức của
nhân dân về bảo vệ môi trường,...
Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.


15
Bảo vệ môi trường chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội
được bền vững. Kinh tế - xã hội phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để đảm
bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Điều đó lại tạo
điều kiện ổn định chính trị xã hội để kinh tế - xã hội phát triển. Bảo vệ môi trường
là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý
nghĩa cho tương lai.
Trên thực tế, mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế cũng biểu hiện
ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau. Ở những thời kỳ đầu của sự phát triển nền văn
minh loài người, các lực lượng tự nhiên gần như thống trị hoàn toàn cuộc sống của
con người, quyết định tính chất và nội dung mối quan hệ qua lại giữa con người với
giới tự nhiên.
Dần dần, do sự phát triển của lao động và hoạt động nhận thức, con người học
được cách chế ngự tự nhiên, thiết lập sự thống trị của mình với giới tự nhiên nhằm
phục vụ cho mục đích mà yêu cầu cuộc sống của con người đòi hỏi. Tự nhiên, ở bất
kỳ giai đoạn nào trong sự phát triển của xã hội loài người, cũng đều cung cấp cho
con người những sản phẩm vật chất để con người sinh sống, như nguồn nước tinh
khiết, không khí trong lành.
Cũng chính vì sự “tự nhiên” ấy, trong quá trình thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
con người đã phải lấy đi của tự nhiên rất nhiều những bộ phận thân thể của nó như
động, thực vật, đất đai, khoáng chất... chính trong quá trình đó con người đã làm
thay đổi giới tự nhiên. Có thể nói rằng, những biến đổi dù to hay nhỏ trong môi
trường tự nhiên đều do quá trình tăng trưởng kinh tế đem lại. Vì mục đích phát
triển kinh tế ấy, con người đã tác động đến môi trường tự nhiên theo hai hướng có

lợi hoặc có hại.
Nếu hành động đúng quy luật, con người sẽ tạo ra hướng có lợi cho môi
trường tự nhiên. Trong quá trình thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, con người đã tác
động vào tự nhiên, ít nhiều cũng đã cải tạo môi trường tự nhiên, nâng cao sự hiểu
biết sâu hơn về giới tự nhiên và đặc biệt là có thể tạo ra điều kiện vật chất để cải
tạo, tái tạo môi trường tự nhiên.


16
Sự tăng trưởng kinh tế trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất đã phần nào đó loại trừ được những
hậu quả không mong muốn do sự tác động không kiểm soát được của con người
gây ra cho tự nhiên. Chẳng hạn, việc dùng lưới chuyên biệt để khai thác thủy hải
sản đã loại trừ ra được những loại nhỏ để bảo đảm cân bằng môi trường biển và tạo
vốn cho lần đánh bắt sau. Hơn nữa, chính sự tăng trưởng kinh tế sẽ tạo tiền đề vật
chất để xử lý các sự cố môi trường, đảm bảo cho môi trường trong sạch.
Ở chiều ngược lại, con người tác động vào tự nhiên không theo quy luật như
khai thác tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản quá mức sẽ làm cho môi trường tự
nhiên mất cân bằng, ngày càng nghèo nàn, kiệt quệ, sự cân bằng sinh thái sẽ bị phá
vỡ và tự nhiên sẽ “trả thù” con người.
Như vậy, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên vừa có sự
thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn. Sự thống nhất và mâu thuẫn đó đều thể hiện ở
nền sản xuất xã hội. Con người không ngừng sản xuất ra của cải vật chất. Mọi của
cải vật chất mà con người sản xuất ra xét đến cùng bằng cách này hay cách khác
đều lấy vật liệu từ tự nhiên.
Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, một mặt chúng ta phải đảm bảo cho sự
phát triển, gia tăng đầu tư cho tăng trưởng kinh tế nhưng, đồng thời, cũng phải chi
phí cho vấn đề bảo vệ môi trường. Nếu không bảo vệ môi trường thì không thể
đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế vì một phần đầu vào cho tăng trưởng kinh tế
được lấy từ môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình này, người ta nhận thấy rằng,

việc chi phí quá mức cho việc bảo vệ môi trường có thể cản trở tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Nhiều hình thức phát triển kinh tế của các nước đang phát triển đã dựa trên
cơ sở khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, dẫn đến sự xuống cấp về môi
trường và sự xuống cấp này sẽ phá hoại chính sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2.3. Gắn phát triển bền vững với bảo vệ môi trường là yêu cầu xuyên suốt
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020


17
Sớm nhận thức được tầm quan trọng của phát triển bền vững, ngày 25-61998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong các văn kiện
Đại hội IX, X, và đặc biệt là văn kiện Đại hội XI của Đảng, quan điểm phát triển
bền vững càng được chú trọng hơn và nhấn mạnh nhiều lần trên nhiều góc độ tiếp
cận. Để chỉ đạo thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điểm phát triển, trong đó, quan điểm đầu tiên là:
“Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong Chiến lược”.
Thấm nhuần quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động thế kỷ
XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”
(còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực kinh
tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải đối phó. Chiến
lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường;
đã xác định khung thời gian để thực hiện và gắn trách nhiệm của các ngành, các địa
phương, các tổ chức và các nhóm xã hội; đã tính tới việc sử dụng các nguồn lực
tổng hợp để thực hiện chiến lược. Chính phủ cũng đã thành lập Hội đồng phát triển
bền vững quốc gia để chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Có thể thấy rõ rằng, trong những năm qua, chúng ta đã triển khai và thực hiện
khá thành công một số nhiệm vụ để hướng tới phát triển bền vững và bảo vệ môi
trường. Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa tương xứng với

tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các nước trên
thế giới và ngay cả một số nước trong khu vực. Xem xét ở ba khía cạnh để tăng
trưởng bền vững là: kinh tế, xã hội và môi trường để thấy rõ còn nhiều vấn đề đặt
ra cần được giải quyết.
Do vậy, trong thời gian tới, để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển bền
vững và bảo vệ môi trường chúng ta cần tập trung giải quyết một số yêu cầu sau:


18
Một là, trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường
trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với
thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân.
Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng
các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện
với thiên nhiên, môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý
quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường. Cần tạo bước chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành
động cụ thể. Lấy chỉ số đầu tư cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết
quả bảo vệ môi trường cụ thể để đánh giá.
Thứ hai: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi
trường với phát triển kinh tế-xã hội.
Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Khắc phục suy
thoái, khôi phục và nâng cao chất lượng môi trường; Thực hiện tốt chương trình
trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng, tăng diện tích các
khu bảo tồn thiên nhiên; Khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm
môi trường và cân bằng sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện
với môi trường; Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển
“năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng sạch”; Tăng cường hợp tác quốc
tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho công
tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; Đẩy mạnh xã

hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
Ba là, tiếp cận “kinh tế xanh” để bảo vệ tài nguyên và môi trường
Ý tưởng phát triển “kinh tế xanh” được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ 20
nhưng phải đến tháng 10/2008, Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP)
mới phối hợp với các nền kinh tế hàng đầu thế giới mới triển khai sáng kiến “kinh
tế xanh” (Green Economy). Đây là một hướng tiếp cận mới, được nhiều quốc gia
đồng tình hưởng ứng.
Theo UNEP, “kinh tế xanh” là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con
người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và


19
khủng hoảng sinh thái. Hiểu một cách đơn giản, “kinh tế xanh” là nền kinh tế ít
phát thải carbon, tiết kiệm tài nguyên và tạo ra công bằng xã hội. Đồng thời, nó là
chiến lược kinh tế để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Theo quan điểm của Liên Hợp quốc, bảo vệ môi trường là những hành động
thực hiện nhằm bảo vệ môi trường tự nhiên, phòng ngừa hay giảm thiểu những tác
động tiêu cực do các hoạt động kinh tế và xã hội của con người gây ra cho môi
trường. Ở Việt Nam, nguyên tắc bảo vệ môi trường được nêu rõ tại Điều 4, dự thảo
sửa đổi Luật Bảo vệ Môi trường 2005 “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa
vụ của mọi tổ chức và cá nhân, đảm bảo quyền được sống và quyền yêu cầu được
sống trong môi trường trong lành; Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển
kinh tế và an sinh xã hội; bảo vệ môi trường quốc gia gắn liền với bảo vệ môi
trường khu vực và toàn cầu; Bảo vệ môi trường phải phù hợp với điều kiện địa lý,
kinh tế và xã hội; Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên; ưu tiên phòng
ngừa ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường; bảo tồn đa dạng sinh học và khai thác
hợp lý tài nguyên thiên nhiên; Tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường,
được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi
trường; tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải có trách
nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và các trách nhiệm khác theo quy định của

pháp luật; Nhà nước quản lý thống nhất về bảo vệ môi trường”.
Nghiên cứu về sự kết hợp giữa phát triển bền vững và bảo vệ môi trường tự
nhiên cho ta thấy việc đánh giá tác động của phát triển kinh tế đến vấn đề bảo vệ
môi trường tự nhiên và ngược lại. Từ đó giúp cho các nhà quản lý ra quyết định
chủ động lựa chọn những phương án khả thi và tối ưu về kinh tế cũng như kỹ thuật
trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mình. Đồng thời sẽ giúp chúng ta kết
hợp một cách thông minh giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên
để có sự phát triển thực sự bền vững.


20
KẾT LUẬN
Phát triển bền vững là đòi hỏi tất yếu của xu thế phát triển hiện nay,
Việt Nam không thể nằm ngoài xu hướng đó. Chính vì vậy, cùng với phát
triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường trở thành những
mặt cấu thành của quá trình hoạch định các chính sách phát triển hiện nay. Sự
tác động qua lại giữa các yếu tố đòi hỏi các chủ thể phải nhìn nhận đánh giá
một cách toàn diện những tác động, những biến đổi và cả những hệ lụy kéo
theo trong mối quan hệ này để xây dựng những chiến lược hợp lý đảm bảo sự
phát triển bền vững cho đất nước.
Trên cơ sở ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, vận dụng vào xem xét, đánh giá toàn diện tất cả những tác động của hai
quá trình song song: phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Thấy được vai trò
vô cùng quan trọng, mang tính chất quyết định của môi trường đến mọi quá trình
kinh tế, sản xuất nói chung, đồng thời thấy được những tác động cả tích cực, tiêu
cực của quá trình phát triển kinh tế đến môi trường. Từ đó xây dựng chiến lược
phát triển phù hợp đảm bảo sự phát triển bền vững trong kinh tế và sự bền vững
trong bảo vệ môi trường.
Một thực tế hiện nay, dù đã chú ý, quan tâm và hướng nền kinh tế đến
sự phát triển bền vững, mặc dù vậy, trước mắt sẽ còn không ít khó khăn thử

thách, những áp lực nhất định trong quá trình thực hiện. Vì vậy, cần sự tập
trung của tất cả các ngành, các cấp, các cá nhân và tổ chức xã hội chung tay
hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, với nhiều chính sách thiết thực hiệu
quả và có tầm nhìn chúng ta mới có thể giải quyết mối quan hệ giữa phát triển
vền vững và bảo vệ môi trường, đồng thời tham gia có hiệu quả vào giải
quyết các vấn đề chung đang đặt ra cho nhân loại.
Có thể nói, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển bền vững và
bảo vệ môi trường không chỉ đảm bảo hiệu quả kinh tế, an sinh xã hội, khắc
phục có hiệu quả các tác động tiêu cực đến môi trường mà còn là cơ sở đảm
bảo sự trường tồn của đất nước cho các thế hệ mai sau.


21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dùng cho
học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học) ,
Nxb Chính trị - Hành chính, H.2010
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG, H.2006
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG, H.2011
4. Lê Văn Khoa, Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục, H.2009
5. Luật bảo vệ môi trường, Nxb Lao động – xã hội, H.2014
6. Nguyễn Đình Hòe, Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục,
H.2012
7. Nguyễn Thị Lan Hương, Trách nhiệm môi trường – một phương diện của
trách nhiệm xã hội, Tạp chí Triết học, số 8, tháng 8 – 2009
8. Nguyễn Đức Bách, Kinh tế và môi trường – lợi ích của tất cả chúng ta, tạp
chí Lý luận chính trị, số 6, 6/2009
9. V. I. Lênin, toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, M. 1981

10. V. I. Lênin, toàn tập, t. 42, Nxb Tiến bộ, M. 1978
11. Trần Đắc Hiến, Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay – thực trạng và
một số giải pháp khắc phục, Tạp chí Triết học, số 11, tháng 11/2009



×