Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Cách mạng thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.7 KB, 20 trang )

Mục Lục

1


I)
Cơ sở khoa học về quan điểm
1) Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lenin về vai trò của cá nhân và quần chúng

a) Quan niện quần chúng nhân dân
* “Nhân dân” là một phạm trù thường được dùng với những nội dung thay đổi tùy
theo tiến trình phát triển của lịch sử cụ thể của mỗi thời kỳ.
- Theo nghiên cứu thông thường: nhân dân là dân cư một quốc gia, một dân tộc,
một nước.
- Theo nghĩa khoa học: nhân dân là cộng đồng người thay đổi trong lịch sử, bao
gồn những bộ phận, những tầng lớp, giai cấp của dân cư mà theo địa vị khách quan của
họ có khả năng cùng nhau tham gia giải quyết những nhiệm vụ lịch sử phù hợp với sự
phát triển, tiến bộ của một nước nhất định trong một thời kỳ nhất định.
* Quần chúng nhân dân: quần chúng nhân dâ bao gồm tất cả nhân dân lao động
và các lực lượng tiến bộ trong xã hội mà qua hoạt động của họ thúc đẩy sự phát triển
của xã hội.
Phân tích:
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi ba nội dung sau:
- Thứ nhất: quần chúng nhân dân là những người lao động sản xuất ra của cải vật
chất và của cải tinh thần chủ yếu duy trì cho sự tồn tại và phát triển của xã hội (chỉ gồm
những người lao động tự giác, sáng tạo).
- Thứ hai: quần chúng nhân dân là những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống
trị áp bức bóc lột, đối kháng với nhân dân và chống lại các kẻ thù xâm lược.
- Thứ ba: quần chúng nhân dân là những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy
sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội.


Như vậy, từ sự phân tích trên cho thấy, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch
sử, có sự vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội. Tuy thuộc chế độ xã hội
khác nhau mà kết cấu của quần chúng nhân dân cũng khác nhau, nó được biến đổi theo
sự phát triển của phương thức sản xuất vật chất.
Ví dụ:
- Xã hội chiếm hữu nô lệ (PTSX CHNL) – Quần chúng nhân dân là giai cấp nô lệ.
2


- Xã hội phong kiến (PTSX PK) – Quần chúng nhân dân là giai cấp nông dân, giai
cấp tư sản.
- Xã hội tư bản chủ nghĩa (PTSX TBCN) – Quần chúng nhân dân là giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa (PTSX XHCN) – Quần chúng nhân dân là giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức…
b) Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
- Chủ nghĩa suy vật lịch sử của triết học Mác khẳng định, quần chúng nhân dân là
chủ thế chân chính sáng tạo ra lịch sử - hay quần chúng nhân dân là người quyết định lịch
sử. Và vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân thể hiện ở ba nội dung cơ bản
sau:
- Một là: quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử - xã hội, là lực lượng
sản xuất cơ bản của xã hội, tạo ra mọi của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Cụ thê là:
+ Con người muốn sống, xã hội muốn tồn tại thì trước hết phải có thức ăn, uống,
vật dùng, nhà ở… để đáp những nhu cầu đó thì con người phải tiến hành sản xuất vật
chất.
+ Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, là nền cơ sở, nền tảng quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội.
+ Quá trình hoạt động sản xuất vật chất con người đồng thời tạo ra lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất. Ở 2 mặt đó, con người một mặt

là lực lượng sản xuát chủ yếu, một mặt là người mang quan hệ sản xuất.
+ Hoạt động sản xuất vật chất, chế tạo và cải tiến công cụ lao động là hoạt động
của toàn xã hội chứ không phải của một số cá nhân.
+ Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động, bao gồm
cả lao động chân tay và lao động trí óc. Vì vậy, thực tiễn lịch sử loài người đã chứng
minh, quần chúng nhân dân là cơ sở và động lực của sự phát triển khoa học kỹ thuật.
Khoa học kỹ thuật không có lý do tồn tại nếu không có hoạt động sản xuất vật chất, đến
lượt nó khoa học kỹ thuật lại làm cho năng suất lao động tăng lên không ngừng, qua đó
đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người cũng được biến đổi và phát triển,
thúc đẩy xã hội không ngừng tiến lên. Do đó, lịch sử xã hội là lịch sử phát triển của sản
xuất hay là lịch sử của những người phát triển sản xuất, những người đã, đang và sẽ mãi
3


tạo ra vô tận của cải vật chất đảm bảo những điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
- Hai là: quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi
cuộc cách mạng xã hội. Cụ thể là:
+ Do lực lượng sản xuất phát triển tạo ra những tiền đề vật chất -> của cải vật chất
tăng -> tạo ra những tiền đề vật chất chuyển sang chế độ xã hội mới.
+ Lực lượng sản xuất phát triển -> >< quan hệ sản xuất cũ lỗi thời -> đấu tranh
giai cấp -> cách mạng xã hội -> xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ -> thiết lập quan hệ sản xuất
mới -> thay đổi phương thức sản xuất vật chất -> thay đổi hình thái kinh tế xã hội. Trong
đó, lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân, là lực lượng quyết định
chủ yếu vận mệnh các cuộc cách mạng xã hội, các phong trào chính trị giải phóng dân
tộc.
VD: Từ xã hội chiếm hữu nô lệ -> xã hội phong kiến -> tư bản chủ nghĩa -> xã hội
xã hội chủ nghĩa.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, lịch sử đã chứng minh không
có sự tham gia, hoạt động tích cực của quần chúng nhân dân thì sẽ không có sự chuyển

biến cách mạng trong lịch sử. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết
định cho thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Lênin: “Cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức bóc lột. Không lúc nào
mà quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực sáng taoh ra những trật tự xã hội
mới như trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế…thì nhân dân có thể làm
được những kỳ công”1 – Rời non lấp biển, do đó cách mạng là ngày hội của quần chúng
nhân dân, là sự nghiệp cả quần chúng nhân dân… do đó,…
+ Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì động lực trực tiếp phát triển xã hội là đấu
tranh giai cấp, đó là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức, bóc lột – đại đa số quần
chúng nhân dân lao động – lực lượng sản xuất chủ yếu, chống lại những kẻ áp bức, bóc
lột bằng nhiều hình thức và đỉnh cao của cuộc đấu tranh đó là cách mạng xã hội.
Và như vậy, suy đến cùng nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự
phát triển của lực lượng sản xuất – bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng
nhân dân. Cho nên, quần chúng nhân dân là chủ thể của quá trình kinh tế, chính trị, xã

1

4


hội, đóng vai trò là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội.
- Ba là: quần chúng nhân dân là nguồn duy nhất và vô tận sáng tạo ra mọi giá trị
văn hóa tinh thần (mọi của cải tinh thần). Cụ thể:
+ Quần chúng nhân dân đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự phát triển của khoa
học, nghệ thuật văn học và áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn – hay là
hiện thực hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất.
+ Chính hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân đã đặt cơ sở, nền
tảng cho văn hóa tinh thần và tạo điều kiện cho nền văn hóa đó phát triển và tiến bộ
không ngừng.

Ví dụ: Bằng hoạt động sản xuất vật chất – nó là nguồn cảm hứng để cho các nhà
văn, nhà thơ, nhà điêu khắc viết lên những tác phẩm, tạo nên cảm hứng sáng tác.
- Bằng hoạt động sản xuất vật chất, quần chúng nhân dân đã sáng tác ra những câu
ca dao, tục ngữ: “chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…”
+ Chính hoạt động sản xuất vật chất và những sáng tác của quần chúng nhân dân
là nguồn vô tận cho văn học, nghệ thuật, khoa học phát triển.
+ Những sáng tạo về văn học nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính
trị, đạo đức… của quần chúng nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa tinh thần của dân tộc trong mọi thời đại.
+ Quần chúng nhân dân vừa là nguồn duy nhất và vô tận của mọi giá trị tinh thần
mà còn là nơi sinh ra biết bao những nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học vĩ đại, những nhà
hoạt động văn hóa phong phú, đa dạng làm sống động mãi mãi cho đời sống tinh thần của
nhân loại.
+ Các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần
chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Ví dụ: Ở Việt Nam – truyện Kiều của Nguyễn Du đã, đang và sẽ sống mãi với
nhân dân ta và nhân dân thế giới, chính vì thế tác phẩm đó đã phản ánh sinh động cuộc
sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhất là ca dao, tục ngữ.
Do đó, những tác phẩm có giá trị chính là những tác phẩm phản ánh sinh động
hoạt động thực tiễm của hàng triệu người, theo kịp tiến trình phát triển của thời đại, tiếp
thu và phát huy được những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc và thế giới.
5


* Kết luận: xét từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng thì quần
chúng nhân dân đều đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Vai trò quyết định của lịch sử
của quần chúng nhân dân có thể khái quát lại ở ba nội dung lớn như sau:
- Một là: quần chúng nhân dân là những người trực tiếp lao động sản xuất ra của
cải vật chất – điều kiện, nền tảng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Hai là: quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi

cuộc cách mạng xã hội, thúc đẩy lịch sử phát triển tiến lên theo hướng văn minh tiến bộ.
- Ba là, quần chúng nhân dân vừa là nguồn duy nhất và vô tận tạo ra mọi giá trị
tinh thần cho xã hội, vừa là cơ sở, động lực cho sự phát triển khoa học, kỹ thuật, vừa là
lực lượng duy nhất hiện thực hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận rút ra:
+ Phải có quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân đúng đắn.
+ Phải chăm lo sâu sát đến lợi ích, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân
dân.
+ Tích cực phát huy vai trò của quần chúng nhân dân bằng cách phát huy dân chủ,
bổ sung, xây dựng hoàn thiện và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
+ Phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, mọi công việc phải biết dựa vào dân,
bàn bạc với dân thật thấu đáo trước khi quyết sách.
+ Phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm trái với quan điểm của
triết học Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân.
2) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
a) Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng.
Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời không quý bằng nhân dân. trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Vì vậy, 'Vô luận việc gì, đều do người làm
ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Người cho rằng "việc dễ mấy không có
nhân dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng xong". Nhân dân là người sáng tạo ra
mọi giá trị vật chất và tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tổt lắm. Người
phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào
Đảng, không sợ gian khố, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm
bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.
6


Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản

đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không
ra"'. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ
Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của
dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những
chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. "Lòng yêu nước và sự đoàn
kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi"[1].
b) Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: phải coi trọng, chăm
sóc, phát huy nhân tố con người
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí
Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã
hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911, giữa lúc đất
nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Người ra đi với ý chí "quyết
giải phóng gông ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách
nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là "làm sao cho nước học hành".
Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng
khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu tôn giáo; ngược lại, người
có niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của
chính bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết
tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con
người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn
nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết trên hết là giải phóng dân tộc. giành độc lập dân
tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành,
chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy chúng ta phải thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học
hành. Đến Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người".
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích

trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với
hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại
cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần
chúng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: "Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", "có dân thì có tất cả"...

7


Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ
lực lượng: nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo
nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân
hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo
nên sức mạnh vô địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo
của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là nguời cộng sản
thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản.
Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân
dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân: không hiểu biết nhân dân; không yêu thương
nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy
hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng việc".
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh lấy công - nông - trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng

Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại
mới,đó là giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và
riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy giai cấp công
nhân chỉ có liên minh với giai cấp nông dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực
lượng hùng mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những. con người được
giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng
trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàne ngàn năm của dân tộc Việt Nam... Chính
trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo.
Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người
-động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực
thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó
là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền
thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói. không dám làm,
không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.

8


3) Thực tiễn sử dụng nguồn lực con người và quá trình Công nghiệp hóa – Hiện

đại hóa ở các nước phát triển.
Phát triển nguồn nhân lực đã và đang là một vấn đề ưu tiên của nhiều quốc gia châu Á
bởi trong thời đại hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết định khả năng cạnh tranh
của quốc gia. Nguồn nhân lực được trang bị đầy đủ kỹ năng, kiến thức được cho rằng sẽ
đóng góp cho sự phát triển của các cá nhân, tổ chức và quốc gia (Osman-Gani và WeeLiang -Tan, 1998). Tuy nhiên, ở những quốc gia khác nhau thì vấn đề về phát triển nguồn

nhân lực được triển khai theo nhiều hướng khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế,
văn hóa, xã hội của từng quốc gia. Nhiên cứu của các học giả trên thế giới về phát triển
nguồn nhân lực giúp cho chúng ta thấy được những kinh nghiệm thành công cũng như
điểm hạn chế và thách thức đối với phát triển nguồn nhân lực ở một số quốc gia ở châu
Á.
Đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển ở châu Á, ví dụ như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Sinh-ga-po, Đài Loan, có thể thấy các quốc gia này đã xây dựng được những chiến
lược phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện của quốc gia mình.
a) Singapore
Sinh-ga-po tuy có dân số rất ít nhưng lại nổi lên như một quốc gia điển hình về phát
triển kinh tế và công nghiệp hóa dựa trên sự phát triển về nguồn nhân lực . Sự thành công
được minh chứng qua việc nhiều năm liền Sinh-ga-po được xếp vào danh sách năm quốc
qua có khả năng cạnh tranh cao. Ở Sinh-ga-po, nguồn lực con người là nguồn lực then
chốt bởi đây là nguồn lực quan trọng nhất và duy nhất của đất nước này. Trong giai đoạn
đầu của sự phát triển nền kinh tế, nỗ lực để phát triển nguồn nhân lực ở Sinh-ga-po
thường đi liền với việc chú trọng đến phát triển giáo duc, đào tạo chuyên môn. Kể từ sau
khi giành độc lập vào năm 1959, vì thiếu nguồn nhân lực có chất lượng, Sinh-ga-po đã
hướng tới một nền công nghiệp hóa dựa vào xuất khẩu được đầu tư vốn bởi các nhà đầu
tư nước ngoài. Chính sách thúc đẩy nền công nghiệp mới đã thúc đẩy sự đầu tư vốn vào
các ngành kỹ thuật, khoa học công nghệ và đội ngũ lao động chất lượng cao. Điều này
dẫn tới sự cải cách về hệ thống giáo dục của quốc gia này vào năm 1981. Vào cuối thập
niên 80, với đội ngũ lao động có kỹ thuật và thu nhập cao, Sinh-ga-po đã bắt đầu chuyển
hướng sang ngành dịch vụ do những sức ép và sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của
những quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á Sự phát triển về thương mại, ngoại
thương đã tạo ra sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong khu vực này ví dụ như
giao thông vận tải, bảo hiểm, siêu thị, thúc đẩy sự mua sắm, tiêu dùng. Rõ ràng, với
những lợi thế cạnh tranh này cùng với sự ổn định của hệ thống, Sinh-ga-po đã củng cố và
thu hút được nhiều hơn nữa những nguồn vốn đầu tư nước ngoài và gia tăng xuất khẩu.
Có thể thấy chính sách về phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
9



của Sinh-ga-po dựa trên hai hướng chủ đạo. Một là tập trung vào phát triển kỹ năng và
tính linh hoạt trong công việc/ở nơi làm việc. Hai là, các chính sách liên ngành ở tầm vĩ
mô đã được phối hợp một cách hiệu quả và ăn ý với nhau (ví dụ như chính sách giáo dục,
khoa học công nghệ và kinh tế).
Khi chuyển từ sự tăng trưởng kinh tế dựa trên đầu tư sang sự tăng trưởng kinh tế dựa
trên sáng tạo cùng với việc chú trọng khu vực hóa kinh doanh, chính phủ Sinh-ga-po đã
bắt tay vào xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực rất công phu. Sinh-ga-po
coi trọng việc tuyển dụng các tài năng chuyên môn và nguồn nhân lực có chất lượng từ
nước ngoài và phát triển kiến thức, kỹ năng cho người lao động trong nước. Các chiến
lược phát triển nguồn nhân lực được xem xét và điều chỉnh cùng với các chính sách kinh
tế mang tính chiến lược của quốc gia. Do đó, Sinh-ga-po là một ví dụ rất tiêu biểu điển
hình cho việc tạo ra những lợi ích từ các chính sách và chiến lược phát triển nguồn nhân
lực. Một trong những chính sách vĩ mô tiêu biểu ở Sinh-ga-po là đưa phát triển nguồn
nhân lực vào các chiến lược kinh tế. Sinh-ga-po sớm nhận thấy tầm quan trọng của phát
triển nguồn nhân lực cho nên ngay từ thời kỳ đầu, phát triển nguồn nhân lực là chiến lược
chủ đạo cho sự tăng trưởng kinh tế. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực được thể hiện
qua việc chú trọng đến giáo dục và đào tạo kỹ thuật. Sinh-ga-po đề cao việc giáo dục
chung cho toàn bộ dân số, đồng thời thành lập nên các viện kỹ thuật và trung tâm đào tạo
có quy mô lớn. Cho tới nay, các chính sách giáo dục của Sinh-ga-po luôn gắn chặt với
nhu cầu kinh tế của quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực của Sinh-ga-po không được thực
hiện một cách tách biệt mà thường gắn kết với các mục tiêu quốc gia trong các chiến lược
chung và các chiến lược kinh tế cụ thể.
b) Nhật Bản
Ở Nhật Bản sau Thế chiến II, số người không có việc làm chiếm tới 17,5% dân số.
Nhờ một loạt chính sách, trong đó có chính sách phát triển con người, nên chỉ sau một
thời gian ngắn, Nhật bản đã trở thành cường quốc có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, và
về phương diện phát triển con người, Nhật bản cũng trở thành nước có chỉ số phát triển
HDI cao. Còn trong các chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực tại Nhật Bản, họ

tập trung chủ yếu vào nhu cầu của các doanh nghiệp, tập trung đầu tư vào đào tạo chuyên
môn hóa và giáo dục đại học (Marquardt, Berger, và Loan, 2004; Warner, 1992: 56). Dân
số già và tỷ lệ thất nghiệp cao đang là vấn nạn mà các quốc gia phát triển như Nhật Bản
đang phải đối mặt (Zhu, 2004). Một vấn đề khác về phát triển nguồn lực tại Nhật Bản đó
là sự phân bố không đồng đều của các cơ hội đào tạo nghề giữa các doanh nghiệp thuộc
các ngành công nghiệp khác nhau và giữa các nhóm tuổi khác nhau. Những người dưới
34 và trên 45 có ít cơ hội được đào tạo hơn so với những người ở độ tuổi từ 35 đến 44
(Jil, 2003). Các ngành công nghiệp dịch vụ như tài chính, bảo hiểm và bất động sản có tỷ
10


lệ phần trăm cao nhất của việc thực hiện đào tạo nghề chiếm 94%, các ngành khác như
giao thông vận tải và thông tin liên lạc chiếm 51% tỷ lệ được đào tạo nghề (Jil, 2003;
Zhu, 2004).
c) Hàn Quốc
Còn đối với Hàn Quốc, trong ba thập kỷ (1961-1991), từ một nước nghèo, bị chiến
tranh tàn phá, họ trở thành một trong những con hổ châu Á (NICs), có nền kinh tế mạnh
nhất thế giới thứ ba. Bài học chung về sự phát triển của Hàn Quốc là sự kết hợp hữu cơ
các nhân tố kinh tế với các nhân tố xã hội. Về nhân tố con người, bài học của Hàn Quốc
là đánh thức được “tâm thế phát triển” của cả một dân tộc. Tinh thần tự nguyện làm thêm
giờ với đồng lương thấp, thái độ sẵn sàng hy sinh vì đất nước trong những lúc khó khăn
đã bù đắp đáng kể cho sự thiếu hụt về vốn và nguồn lực tự nhiên.
d) Đài Loan
Một ví dụ về quốc gia khác là Đài Loan - một trong những nước nằm trong nhóm các
nước công nghiệp mới có sự trỗi dậy thần kỳ về kinh tế trong khu vực. Từ năm 1964, Đài
Loan đã thành lập Cơ quan quốc gia về Phát triển nguồn nhân lực với nhiệm vụ giúp
chính phủ quy hoạch nguồn nhân lực quốc gia. Từ năm 1966, căn cứ vào nhu cầu phát
triển định kỳ, cơ quan này đề xuất “Kế hoạch phát triển nhân lực” mỗi năm, căn cứ theo
đó mà kiểm tra, điều phối quy hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Bài học được
rút ra từ Đài Loan là cơ chế chỉnh thể điều chỉnh nguồn nhân lực quốc gia với một sách

lược “liền mạch lâu dài”. Nguồn nhân lực là nhân tố đặc biệt cần có sự bồi dưỡng và đào
tạo không ngừng.
II)

Phân tích quan điểm

1) Định nghĩa nguồn lực

a) Khái niệm
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia,
nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường…ở cả trong nước và ngoài nước
có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhất
định.
b) Phân loại
Có 2 nhóm nguồn lực:
– Nguồn lực trong nước (nội lực): bao gồm tất cả các nguồn lực bên trong của một quốc
gia. Cụ thể bao gồm 3 nguồn lực chủ yếu sau:
11


+ Vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên
+ Dân cư và nguồn lao động
+ Đường lối phát triển KT-XH và cơ sở vật chất kỹ thuật
– Nguồn lực bên ngoài (ngoại lực): bao gồm tất cả các nguồn lực bên ngoài của một quốc
gia, có ảnh hưởng đến sự phát triển KT – XH của quốc gia đó. Đó là vốn , thị trường,
khoa học kĩ thuật, xu thế phát triển…
c) Vai trò của nguồn lực
Nguồn lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT – XH của mỗi quốc gia:
– Vị trí địa lí tạo thuận lợi hay gây khó khăn trong việc trao đổi, tiếp cận hay cùng phát
triển giữa các vùng trong một nước.

– Nguồn lực tự nhiên là cơ sở tự nhiên của quá trình sản xuất. Đó là những nguồn lực vừa
phục vụ trực tiếp cho cuộc sống, vừa phục vụ cho phát triển kinh tế.
– Nguồn lực KT – XH, nhất là dân cư và lao động, nguồn vốn, KH – KT và công nghệ,
chính sách và đường lối phát triển có vai trò quan trọng để lựa chọn chiến lược phát triển
phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn.
Phân tích quan điểm
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng
là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn
minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây
dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã
hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một
trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi
ngoài mới trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con
người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ
chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng
mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá không giống nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất
lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân
lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu
cầu đó.
2)

12


Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ, mà là chủ thể
được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Nói cách khác công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể với những phẩm chất nhất định
tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng

hợp những chủ thể này không phải là tập hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức
mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết
là những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi
trong hoạt động thực tiễn. Động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy
quá trình vận động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích
cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong quá trinfh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt tích cực, đồng thời
hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình.
- Nguồn lực con người:Là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức,
phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng
đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước và trong những hoạt động xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là ta
nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên,
làm biến đổi xã hội.
- Phát triển nhanh và bền vững: Là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh
hưởng tổn hại đến nhu cầu tương lai”. Phát triển bền vững là một sự phát triển triển cân
đối giữa ba cực tăng trưởng kinh tế, xã hội, môi trường, không được xem nhẹ cực nào.
 Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững.
Sự tồn tại bền vững và phát triển theo con đường tiến bộ xã hội của một quốc gia dân
tộc nào cũng phụ thuộc vào 5 nguồn lực chủ yếu: vốn; khoa học và công nghệ; con
người; cơ cấu kinh tế; thể chế chính trị và quản lý nhà nước trong đó, nguồn lực con
người được coi là yếu tố cơ bản, quyết định nhất, vì:
• Các nguồn lực khác không có khả năng tự thân mà phải thông qua nguồn lực con
người mới phát huy được tác dụng.
• Nguồn lực con người là một nguồn lực dồi dào, càng dùng càng phát triển. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong
đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lí, và đội ngũ công nhân
lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Đòi hỏi nguồn nhân lực cho công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng
nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới.
 Về kinh tế: Bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định.
Để có tăng trưởng kinh tế phải có các nhân tố tất yếu : nhân tố tự nhiên, nhân tố con
13


người, các yếu tố vật chất do con người tạo ra (công nghệ, vốn). Bởi vì về mặt kinh
tế, nguồn lực con người xem xét chủ yếu dưới góc độ là lực lượng lao động cơ bản
của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai. Vai trò của người lao động được V.I.Lênin
nhấn mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. Con người là một đầu vào
trực tiếp của quá trình sản xuất. Nếu người lao động có kỹ năng lao động, trình độ
khoa học - kĩ thuật năng suất lao động sẽ cao hơn.
 Con người vừa là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực vừa là khách thể khai thác
các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Đầu tư cho phát triển
nguồn lực con người mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc khai thác sử
dụng các nguồn lực khác.
 Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy đầu tư cho phát triển nguồn lực
con người mang lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định hơn. Mặt khác hiệu quả
đầu tư cho phát triển con người có độ lan toả đồng đều, nó mang lại sự công bằng
hơn về cơ hội phát triển cũng như việc hưởng thụ các lợi ích của sự phát triển. Kinh
tế tăng trưởng mang lại sự giàu có về vật chất, suy cho cùng, không ngoài mục đích
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sống của bản thân con người.
 Vậy con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cuối cùng của phát triển
kinh tế.
 Về xã hội: Bền vững về mặt xã hội là phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xoá
đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm mục tiêu cao nhất của sự phát
triển xã hội. Ở đây, vị trí trung tâm của con người nổi lên với tư cách là mục tiêu cao
nhất của sự phát triển xã hội. Mục tiêu của phát triển bền vững chủ yếu không phải là
tạo ra nhiều hàng hóa, của cải mà nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người,

không phân biệt tầng lớp, chủng tộc, giới tính, vùng miền.
 Vậy, để phát triển xã hội bền vững, trước hết cần phát triển con người một cách bền
vững, hay làm tăng năng lực và phạm vi lựa chọn của con người để họ có một cuộc
sống đầy đủ và hạnh phúc.
 Từ thực tiễn phát triển đất nước trong thời gian qua Đảng ta đã rút ra bài học kinh
nghiệm và cũng là tư tưởng chỉ đạo trong thời gian tới : Phát triển nhanh phải đi đôi
với nâng cao tính bền vững. Quan điểm của Đảng đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt
tới con người trước hết và trên hết phải nêu cao vai trò của con người với tư cách là
chủ thể tích cực của quá trình tác động cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên; là phương
tiện, là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế đồng thời là mục tiêu cao nhất của sự
phát triển kinh tế-xã hội. Có thể thấy, quan điểm của Đảng ta hoàn toàn phù hợp với
những tuyên bố quốc tế về phát triển bền vững, trong đó nổi lên tư tưởng hàng đầu
lấy con người là trung tâm của sự phát triển.
3) Con người làm được trong quá trình phát triển
Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của quá trình phát triển nhanh và bền
vững
Giữa CNH, HĐH và phát triển NLCN có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ nhau, trong đó
NLCN luôn giữ vị trí, vai trò quyết định trình độ, tốc độ phát triển của tiến trình CNH,
14


HĐH. Bởi vì con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, của xã hội vừa là chủ thể cải biến
tự nhiên và xã hội, đồng thời, là chủ thể của các quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Thông
qua hoạt động thực tiễn, con người đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển và
sáng tạo ra lịch sử của mình.
a) Xét dưới gốc độ kinh tế, xã hội hay kỹ thuật, công nghệ, yếu tố con người vẫn
luôn là chủ thể của quá trình CNH, HĐH.
• Con người sử dụng sức lao động của mình ( cả cơ bắp lẫn trí tuệ ) kết hợp với các công
cụ dụng cụ, phương tiện sản xuất khác để tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong quá trình đó, con người còn không

ngừng sáng tạo nên những công cụ lao động mới, thay đổi cách thức sản xuất, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi phải thay đổi quan hệ
sản xuất lỗi thời và lúc đó, chính con người với tư cách là chủ thể các quan hệ sản xuất bằng hoặt động thực tiễn cách mạng của mình tạo lập nên quan hệ sản xuất mới, phù hợp
với trình độ các lực lượng sản xuất; theo đó, tạo nên bước phát triển mới của phương thức
sản xuất và của xã hội. Trong các cuộc cách mạng xã hội, con người luôn đứng ở vị trí
trung tâm, là lực lượng tiến hành cuộc đấu tranh đưa xã hội sang một giai đoạn phát triển
mới, tiến bộ hơn. Đó chính là vai trò tích cực của nhân tố con người trong phát triển lịch
sử thông qua quá trình thay thế hợp quy luật hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái
kinh tế - cao hơn.
• Con người vận dụng những hiểu biết, tri thức về thế giới vào hoặt động thực tiễn nhằm
cải biến thế giới, phục vụ lợi ích của mình. Chính con người từng bước nhận thức, khám
phá những thuộc tính, bản chất, quy luật, sức mạnh của tự nhiên và đã vân dụng, sử dụng
chúng để cải biến tự nhiên theo mục đích của mình. Nhờ con người mà tự nhiên hoang sơ
đã tự nhiên nhân tạo, thành thế giới tự nhiên mang tính người với những đặc tính hoàn
toàn mới; đến lượt nó, giới tự nhiên đã hòa nhập với đời sống xã hội của con người như
một thành tố không thể thiếu. Đồng thời, trong quá trình tác động vào tự nhiên, con người
có thể hoàn thiện mọi tố chất: thể chất, trí tuệ, tình cảm, tâm lý của mình để ngày cảng
thể hiện đầy đủ tư cách một thực thể thống nhất giữa tự nhiên - sinh học với cái xã hội văn hóa.
• Trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác của sự phát triển xã hội, con người đóng
vai trò nguồn lực trọng yếu nhất; hơn thế, còn là nguồn nhân lực vô tận, có thể khai thác
không bao giờ cạn. Như chúng ta đã biết, sự phát triển của xã hội luôn cần đến một hệ
thống các nguồn lực khác nhau, như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao đông... Trong đó,
con người thể hiện như một tài nguyên quý giá nhất. Đặc biệt, trong điều kiện cách mạng
khoa học và công nghệ phát triển mạnh như ngày nay, trí tuệ được coi là nguồn tài
nguyên vô hạn; đồng thời, lao động trí tuệ của con người có ảnh hưởng quyết định đối
với năng suất, chất lượng lao động và do vậy, con người trở thành nguồn lực nội sinh
quan trọng nhất đối với sự phát triển bền vững.

15





Từ thực tế cho thấy, quá trình CNH, HĐH sẽ không thể thành công nếu thiếu NLCN với
số lượng và chất lượng ngày càng cao, cơ cấu hợp lý. Bởi vì, chính con người là lực
lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung, hình thức, bước đi và
những giải pháp thích hợp để tiến hành CNH, HĐH. Từ thực tiễn của các nước đi trước
cũng như ở nước ta đã cho thấy, quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm,
đạt hiệu quả cao hay thấp là do sự quy định của nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ
yếu tuỳ thuộc vào năng lực của con người, vào chất lượng của NLCN.
 Như vậy, có thể thấy nhân tố con người đóng vai trò cực kỳ to lớn trong lịch sử
phát triển của nhân loại. Một mặt, trong toàn bộ các nhân tố hợp thành cơ chế xã
hội, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm; mặt khác, trong hệ thống động lực
thúc đẩy lịch sử phát triển, con người là động lực cơ bản, quan trọng đóng vai trò
quyết định.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố quyết định
việc chúng ta có tranh thủ, tận dụng thành công những thuận lợi, cơ hội và vượt qua
những thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ thuộc đáng kể vào con
người - nguồn lực nội sinh đóng vai trò quan trọng và quyết định nhất. Đương nhiên
nguồn lực nội sinh này cần được bồi dưỡng, phát triển về mặt chất lượng và sử dụng một
cách hợp lý mới phát huy được tiềm năng, hiệu quả to lớn của nó. Song, để làm được như
vậy, cần có sự đánh giá một cách đúng đắn, toàn diện và khách quan thực trạng nguồn
nhân lực này.
b) Thực trạng
Nhìn vào thực trạng nguồn lao động của nước ta, có ghể thấy còn nhiều điều đáng bàn.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là quốc gia có dân số đông trong khu vực. Xét về mặt lực
lượng có thể khẳng định nguồn nhân lực nói chung, lực lượng lao động nói riêng của
chúng ta rất dồi dào, con người VN cần cù, thông minh, chịu khó, sáng tạo, nhanh chóng
tiếp thu những thành tựu mới; song đó cũng là một khó khăn, một sức ép lớn có thể kìm
hãm quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đát nước. Xét về mặt chất lượng, nguồn nhân

lực của nước ta còn khá nhiều hạn chế, bất cập. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh cơ
bản như trí lực, trình độ chuyên môn... Cụ thể, trong số hơn 65 triệu lao động ở Việt Nam
thì số lao động được đào tạo bài bản chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Số còn lại hầu như không được
đào tạo bài bản, chủ yếu là lao động thủ công. Vấn đề phân bố lực lượng lo động còn rất
nhiều vấn đề. ở thành phố là nơi tập trung đông lao động, rất nhiều lao động có tay nghề
nhưng lại không có việc làm trong khi vùng quê, vùng núi thiếu lao động trầm trọng. Một
điều đáng nói nữa là theo tác phong của người Việt Nam nhiều người có thói tác phong
làm việc không cao, không năng suất. ngoài việc hạn chế về thể lực, tri thức, nhiều lao
động lại thiếu những kỹ năng cần thiết về văn hóa, giao tiếp …
16


Điều bất hợp lý ở nước ta còn bộc lộ khá rõ khi tình trạng thừa thầy thiếu thợ vẫn còn
phổ biến. Những lao động được qua đào tạo thì lại thiếu rất nhiều kinh nghiệm về sản
xuất thực tiễn. Mặt khác, trong số lao động đã qua đào tạo không phải ai cũng làm việc
đúng nghành nghề chuyên môn; tình trạng làm việc trái ngành, trái nghề không phải là cá
biệt. Có thể nói, việc sử dụng không hợp lý lao động nói chung đã là một sự lãng phí. Đã
đặt ra một vấn đề lớn trong giáo dục và đào tạo ở nước ta.
 Như vậy, có thể khẳng định rằng, đối với nước ta, để phát huy nguồn lực con

người một cách hợp lý, hiệu quả cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng bộ
III)

Nhận thức của bản thân
a) Đánh gia quan điểm

Từ các quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về CNH-HDH thì quan
điểm phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triền nhanh và bền vững
là một tất yếu và đúng nhất trong Bối Cảnh Việt Nam hiện nay



Con người là nhân tố chủ chốt sử dụng các nguồn lực khác phục vụ cho quá trình
CNH-HDH

Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên,.. nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm
năng và chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi kết hợp với nguồn lực
con người thông qua sự hoạt động ý thức của con người . Bởi lẽ con người là nguồn lực
duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng các nguồn lực khác gắn kết chúng lại
với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Các nguồn lực khác chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì
chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nếu con người biết cách tác động và
chi phối. Vì thế trong các yếu tố thì yếu tố con người quan trọng nhất. Chẳng hạn như
vốn, tài nguyên là những nguồn lực để tiến hành CNH-HĐH nhưng chúng chỉ trở thành
nguồn lực quan trọng và cấp thiết cho sự phát triển khi nằm trong tay của người biết khai
thác và sử dụng chúng.


Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt còn nguồn lực con
người là vô tận

Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới
không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết chăm lo, bồi dưỡng hợp
lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như
một quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám
phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều công cụ sản xuất mới, đưa xã hội chuyển qua
các nền văn minh từ thấp đến cao


Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn
17



Một khi nó được vật thể hoá để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển vũ
bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế
của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là trithức).
Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao.
Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc
gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng
người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ
của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay
khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ trong lịch
sử phát triển của mình
Từ sự nghiệp đổi mới của chính nước ta trong những năm qua cho thấy, sự thành
công của công nghiệp hoá - hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối
chính sách, cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người. Không có những nhà chính khách, các nhà hoạch định
chính sách, các nhà khoa học công nghệ... thì khó có thể có được những chính sách và
chiến lược phát triển đúng đắn. Không có những nhà kinh doanh tài ba thì cũng sẽ không
có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ. Qua
những phân tích trên chúng ta có thể thấy được rằng, nguồn lực con người (nguồn
nhânlực) là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá
-hiện đại hoá đất nước. Do vậy muốn công nghiệp hoá - hiện đại hoá được thành công thì
phải đổi mới, quan tâm đến các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hoá, giáo
dục nhằm phát triển nguồn lực con người.
Một đất nước phát triển nhanh và bền vững thì nguồn lực con người chính là yếu tố
cơ bản và là quan trọng nhất để quyết định, đó là quyết định đường lối đúng đắn và xuyên
suốt trong quá trình phát triển đất nước
Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng nhu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước cần đặc biệt đến phát triển giáo dục ,đào tạo. Trong tình hình Việt Nam hiện
nay đang trong quá trình thực hiện đổi mới, chính chúng ta, những người đang ngồi trên

giảng đường Đại Học chính là những mầm hoa tươi sáng dần tô điểm cho đất nước,
những thế hệ trẻ tiếp nỗi những người đi trước và thực hiện đúng đắn chính sách đường
lối của đảng và nhà nước đưa ra, theo kịp các cường quốc trên thế giới
+) Trách nhiệm bản thân
-

Hiện đang là sinh viên đang học tập tại trường đại học Kinh tế quốc dân, đồng thời cũng
là thế hệ thanh niên mới, tiêu biểu của dân tộc.
Bản thân em cũng như thế hệ thanh niên ngày nay được sống, lao động, học tập trong môi
trường hòa bình; được thừa hưởng những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và công cuộc đổi mới đất nước; được cống hiến và trưởng thành trong sự ổn định
về chính trị, sự phát triển vững chắc của kinh tế – xã hội và đời sống vật chất, tinh thần
của người dân không ngừng được cải thiện; được gia đình và xã hội dành cho nhiều cơ
18


-

hội học tập để có trình độ học vấn, chuyên môn cao hơn các lớp thanh niên đi trước.
Những lợi thế đó là hành trang giúp các sinh viên thanh niên như em vững bước tham gia
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thanh niên đã và đang cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu cho lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Thanh niên Việt Nam ngày nay mang trên vai trọng trách lịch sử, đó là phải trở
thành lực lượng lao động có trí tuệ và có tay nghề cao, có đạo đức và lối sống trong sáng,
có sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường tráng để đưa Việt Nam “sánh vai với
các cường quốc năm châu” như mong muốn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Thanh niên đang
tự khẳng định mình là thế hệ vượt lên hơn so với các thế hệ thanh niên đi trước và đang
dần xóa bỏ ranh giới tụt hậu để sánh vai ngang bằng với thanh niên các nước trên thế giới
+) Biểu hiện để hiện thực hóa quan điểm


-

-

Để phát huy và thực hiên hóa một cách tốt nhất quan niệm của Đảng , Thanh niên Việt
Nam cần có 3 nhóm phẩm chất là: Trình độ chuyên môn và tay nghề cao; đạo đức và lối
sống trong sáng; sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường tráng mới đáp ứng được
yêu cầu cảu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ kinh tế tri thức, thời kỳ hội
nhập quốc tế.
Để đạt được những tiêu chí và các phẩm chất trên đòi hỏi bản thân thanh niên tự học, tự
rèn luyện, tự tu dưỡng, tụ tin, tự chịu trách nhiệm để trở thành nguồn lao động chất lượng
cao, trở thành người thừa kế trung thành sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
• Thứ nhất, bản thân là sinh viên – là thế hệ, nguồn lực trẻ đầy triển vọng của đất
nước, cần phải có những nhận thức và tư tưởng đúng đắn.Thanh niên phải rèn
luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng
và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà
nước và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
• Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn
hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề, khả năng thực tế, kỹ năng lao động
để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế.
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển và có những bước phát triển cao, nếu
không học hỏi thì chúng ta sẽ sớm bị tụt hậu so với thanh niên các quốc gia khác,
năng suất lao động vì thế cũng sụt giảm, hiệu quả kinh tế xã hội vì thế mà cũng đi
xuống theo. Muốn có nhiệt huyết học tập và làm việc, mỗi người cần phải tự tạo
động lực để kích thích và giải phóng sức sáng tạo của bản thân. Do đó, thanh niên
19











phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương châm: người thanh
niên nào cũng phải học, ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học; người thanh
niên nào cũng phải xác định tham gia học tập thường xuyên, suốt đời là quyền và
nghĩa vụ của bản thân.
Thứ ba, thanh niên phải tích cực xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân.Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc. Các đối tượng thanh niên tự nguyện, tụ giác
tham gia vào các Hội của thanh niên, phấn đấu trở thành Đoàn viên, đảng viên của
Đảng và hội viên của các tổ chức quần chúng nhân dân.
Thứ tư, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp.Tích cực tham gia phòng chống ô
nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu.
Thứ năm, thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của
địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia các thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia
các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham
gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để
nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có
hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ

chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm
nghèo,…

20



×