Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết miền tây của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.61 KB, 58 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thiện khóa luận này, chúng tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, tổ bộ môn Văn
học Việt Nam và ThS. Nguyễn Phƣơng Hà – giáo viên trực tiếp hướng dẫn
tôi hoàn thành khóa luận này.
Do khả năng còn hạn chế và thời gian có hạn, chắc chắn khóa luận
không tránh khỏi những thiếu xót, chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự đóng
góp của các thầy, cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Dƣơng Thị Hạnh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Phƣơng Hà và không
hề có sao chép, trùng lặp với bất kỳ công trình, tài liệu nào khác. Nếu sai tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Dƣơng Thị Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 5
7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................... 5
NỘI DUNG ................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................. 6
1.1. Thế giới nghệ thuật ................................................................................ 6
1.2. Tô Hoài – Hành trình sáng tác và phong cách nghệ thuật ....................... 7
1.2.1. Cuộc đời ...................................................................................... 7
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác ...................................................................... 9
1.2.3. Phong cách nghệ thuật .............................................................. 11
1.3. Vị trí của tiểu thuyết Miền Tây trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài .. 14
CHƢƠNG 2: HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
MIỀN TÂY CỦA TÔ HOÀI ................................................................. 16
2.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................ 16
2.2. Các loại hình nhân vật ........................................................................... 17
2.2.1. Những con người nghèo khổ, bất hạnh ...................................... 17
2.2.2. Những con buôn vụ lợi .............................................................. 20
2.2.3. Những người đại diện cho Cách mạng, Chính phủ .................... 23


CHƢƠNG 3: CÁC BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT MIỀN TÂY ................................................................................. 26
3.1. Cốt truyện và kết cấu ............................................................................. 26
3.1.1. Cốt truyện ................................................................................. 26
3.1.2. Kết cấu ..................................................................................... 28
3.2. Ngôn ngữ............................................................................................... 30
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại mang đậm khẩu ngữ sinh hoạt.................... 30
3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại ................................................................... 35
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 37

3.3.1. Miêu tả ngoại hình .................................................................... 37
3.3.2. Miêu tả tâm lí ............................................................................ 41
3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật ....................................................... 44
3.4.1. Không gian nghệ thuật.............................................................. 44
3.4.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................. 47
KẾT LUẬN ................................................................................................. 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tô Hoài là nhà văn có vị trí đặc biệt trong nền văn học Việt Nam hiện
đại. Ông cầm bút từ khoảng những năm 40 của thế kỉ XX, nhanh chóng
trưởng thành và trở thành cây bút gạo cội của văn xuôi hiện đại. Trải qua
những mốc lịch sử quan trọng của đất nước, hành trình lao động nghệ thuật
của Tô Hoài vẫn tiếp tục cho đến bây giờ. Với sức sáng tạo không ngừng, Tô
Hoài đã tạo ra một khối lượng tác phẩm đồ sộ mà ít nhà văn nào sánh kịp.
Sáng tác của Tô Hoài phong phú đa dạng về thể loại: truyện ngắn, truyện dài,
tiểu thuyết, hồi kí, kịch bản phim… Ở thể loại nào ông cũng đạt được thành
tựu rực rỡ và tạo được phong cách riêng.
Tác phẩm của Tô Hoài tập trung ở một số đề tài lớn: vùng quê ngoại
thành Hà Nội, miền núi Tây Bắc – Việt Bắc trong kháng chiến và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, sáng tác cho thiếu nhi, chân dung và hồi ức. Trong đó, miền
núi là đề tài mà nhà văn rất tâm huyết. Có thể kể đến hàng loạt tác phẩm như:
Truyện Tây Bắc, Họ Giàng ở Phìn Sa, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ… tiêu biểu
là tiểu thuyết Miền Tây. Bằng vốn sống, vốn hiểu biết cùng với khả năng
quan sát và cảm nhận tinh tế của mình, Tô Hoài đã tái hiện hết sức sinh động
bức tranh thiên nhiên và đời sống con người miền núi. Qua ngòi bút của nhà
văn, các phong tục tập quán cũng như những nét văn hóa đẹp đẽ của người
miền núi Việt Bắc nói riêng và Tây Bắc nói chung như hiện lên trước mắt và

để lại ấn tượng trong lòng độc giả.
Tô Hoài là tác giả văn học được giảng dạy, học tập trong nhiều cấp ở
nhà trường của chúng ta hiện nay: Đại học, Cao đẳng, THPT, THCS. Vì thế,
nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài giúp
chúng ta hiểu đúng và cảm thụ tốt tác phẩm của ông là việc làm khoa học cần
thiết và ý nghĩa.

1


2. Lịch sử vấn đề
Tô Hoài là một trong số các tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Với
phong cách nghệ thuật đặc sắc, ông đã khẳng định được vị trí của mình trên
văn đàn. Hơn bảy mươi năm lao động nghệ thuật, ông cho ra đời hơn 160 đầu
sách ở nhiều thể loại khác nhau như: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện, kí,
truyện thiếu nhi, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Nhiều tác phẩm của ông
được giới nghiên cứu phê bình văn học quan tâm chú ý như: Truyện Tây Bắc,
Cát bụi chân ai, Quê người, Quê nhà… Đặc biệt phải kể đến tiểu thuyết
Miền Tây.
Tiểu thuyết Miền Tây ra đời năm 1967, là tác phẩm thuộc hệ thống các
sáng tác về đề tài miền núi của Tô Hoài. Mặc dù là đứa con sinh sau nhưng
Miền Tây vẫn gặt hái những thành công nhất định. Tiểu thuyết đã đoạt được
giải thưởng Hoa sen của Hội nhà văn Á Phi năm 1970 và được giới chuyên
môn đánh giá cao.
Trong Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài, GS. Hà Minh Đức khẳng
định: “Miền Tây là một tác phẩm có giá trị đánh dấu một thành tựu quan
trọng của Tô Hoài về đề tài miền núi… Ông chú ý nhiều đến đặc điểm dân tộc
của người H’mông từ phong tục tập quán sở thích đến diễn biến tâm lý của
các nhân vật”.
Điểm lại lịch sử nghiên cứu về tác giả và tác phẩm của Tô Hoài, tác giả

Khái Vinh trong bài Đọc Miền Tây đăng trên báo Nhân dân ngày 25/5/1969
cũng cho rằng: “Miền Tây là cuốn tiểu thuyết viết sinh động có nhiều chương
tả cảnh hấp dẫn đặc biệt là những chương miêu tả về các phiên chợ Phìn Sa
trước Cách mạng, về phong tục tập quán của đồng bào của các dân tộc vùng
cao… Đọc Miền Tây người ta bị thu hút bởi thiên nhiên và phong tục, tập
quán của đồng bào miền núi”.

2


Tác giả Nguyễn Văn Long trong bài Tô Hoài và một phong cách tiểu
thuyết đăng trên trang đã viết: “Cùng với vốn hiểu
biết kỹ càng và nhiều mặt về các dân tộc ở Tây Bắc, tác giả đã khai thác
nhiều tư liệu lịch sử, chính trị, quân sự, với ý đồ dựng lại sự vận động của
lịch sử qua những biến đổi của cuộc sống, con người ở vùng Phìn Sa. Cuốn
tiểu thuyết trình bày những bức tranh đối lập của hai thời kì xưa và nay trong
cuộc sống và số phận những con người miền núi ở một vùng xa xôi (…) Đọc
Tô Hoài người đọc tiếp xúc với vô số phong tục, tập tục từ sinh hoạt trong gia
đình, trong nhà, đến những sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ma chay, cưới hỏi…
ở rất nhiều vùng, từ làng quê ven thành, vùng đồng bằng Bắc Bộ đến vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi, cả ở những xứ sở xa xôi ngoài biên
giới. Bất cứ nhà dân tộc học, xã hội học nào cũng mong có được một vốn hiểu
biết cực kỳ phong phú sinh động như của nhà văn Tô Hoài”.
Với GS. Phan Cự Đệ trong bài Tô Hoài với Miền Tây đăng trên báo
Văn nghệ (số 268) cho rằng: “Miền Tây phần nào thể hiện được đặc điểm
phong cách Tô Hoài, bao giờ cũng cố gắng gắn liền chất liệu thực với màu
sắc lãng mạn, trữ tình thơ mộng trong tác phẩm của mình… Tô Hoài đã cố
gắng tạo cho các nhân vật của mình có một thứ riêng, ngôn ngữ phản ánh tính
cách… Trong tiểu thuyết Miền Tây, ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ trong sáng,
giàu hình tượng của quần chúng được nâng lên ở một trình độ nghệ thuật mới”.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan trong bài Trau dồi tiếng Việt chú ý đến
việc sử dụng ngôn ngữ trong tiểu thuyết Miền Tây: “Theo dư luận mà tôi
lượm lặt được ở phần lớn độc giả cuốn Miền Tây của Tô Hoài thì trong
ngành truyện nhỏ và truyện dài của ta mấy chục năm nay chưa có một tác
phẩm nào viết bằng văn xuôi mà gọt dũa tỉ mỉ từng chữ, từng câu làm cho
những trang phảng phất một chất thơ mà nhiều bài thơ còn thua xa” [10, 520].

3


Gần đây trong một số khóa luận, luận văn đã đề cập tới tiểu thuyết
Miền Tây của Tô Hoài:
Vũ Thị Thanh trong Khóa luận tốt nghiệp với đề tài Bản sắc văn hoá
miền núi trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài đã khai thác vấn đề bản sắc
văn hóa miền núi, đồng thời cũng đề cập khái quát về một số nhân vật chính
và nhân vật phụ trong tác phẩm.
Như vậy, nhìn lại lịch sử nghiên cứu tác phẩm của Tô Hoài đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về tiểu thuyết Miền Tây ở các phương
diện ngôn ngữ nghệ thuật, thế giới nhân vật… Tuy nhiên, những bài viết này
chủ yếu là những đề cập riêng biệt, lẻ tẻ, có tính chất khai phá, gợi mở. Kế
thừa những người đi trước, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài Thế giới nghệ
thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài với mục đích chứng minh, làm
rõ hơn vấn đề trên, góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo cũng
như những thành công về thể loại tiểu thuyết của Tô Hoài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, tác giả khóa luận hướng đến các mục đích sau:
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài
trên các phương diện: nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, không gian, thời gian.

Thấy được vị trí và những đóng góp quan trọng của Tô Hoài đối với
quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài.
Chỉ ra một số phương diện nghệ thuật thể hiện thế giới nghệ thuật trong
tiểu thuyết Miền Tây.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tƣợng nghiên cứu

Như tên gọi của đề tài, chúng tôi đi sâu tìm hiểu: Thế giới nghệ thuật
trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài. Trong đó, người viết tập trung vào
hai phương diện cơ bản: Thế giới nhân vật và một số phương diện về hình
thức nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, phạm vi mà chúng tôi
khảo sát là tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài (Tuyển tập Tô Hoài (Tập 2),
Nhà xuất bản Văn học, 1987).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khóa luận này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp:
Phương pháp thống kê

Phương pháp phân tích, bình giảng
Phương pháp tổng hợp, khái quát
6. Đóng góp của khóa luận
Góp phần khẳng định tài năng và sự sáng tạo trong tư duy nghệ thuật
của Tô Hoài.
Đóng góp thiết thực vào việc giảng dạy, học tập các tác phẩm của Tô
Hoài trong nhà trường.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung khóa luận được triển khai thành
ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài
Chương 3: Các biểu hiện nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thế giới nghệ thuật
Nhà văn Seđrin quan niệm: “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ,
mỗi sản phẩm nghệ thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó”. Nói
cách khác, một tác phẩm toàn vẹn phải xuất hiện như một thế giới nghệ thuật.
Belinxki cũng từng nhận xét: “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới
riêng mà khi đi vào đó thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở
không khí của nó”.
Theo giáo trình Lí luận văn học, tác giả Trần Đình Sử cho rằng:
“Thế giới nghệ thuật là văn bản hình tượng – văn bản nội tại của văn
bản ngôn từ. Gọi thế giới nghệ thuật là văn bản bởi các hình tượng có tính
chất kí hiệu, có khả năng biểu hiện một phức hợp ý nghĩa – tư tưởng nhất

định mà người ta cần đọc từng bộ phận, chi tiết để nhận ra. Gọi bằng thế giới
nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống nhất không tách rời, vừa
có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo của tác giả, có sự
khúc xạ thế giới bên trong nhà văn.
Thế giới nghệ thuật là một thế giới kép: thế giới được miêu tả và thế
giới miêu tả. Thế giới được miêu tả gồm nhân vật, sự kiện, cảnh vật…Thế giới
miêu tả là thế giới của người kể chuyện, người trữ tình. Hai thế giới này gắn
kết không tách rời như hai mặt của một tờ giấy. Tuy nhiên chúng không thể
liên thông” [9, 81].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi cho rằng:
“Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ
thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào

6


lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới
riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực
tại vật chất hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó phản ánh các thế
giới ấy” [4, 302].
Có thể thấy, thế giới nghệ thuật trong văn học phản ánh vũ trụ và con
người theo cách riêng của nó. Nhà văn – người nghệ sĩ muốn khẳng định tài
năng, cá tính riêng của mình thì phải tạo ra được thế giới nghệ thuật riêng. Nó
bao gồm không gian, thời gian riêng, quy luật tâm lí và quan hệ xã hội riêng,
quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng… và xuất hiện một cách ước lệ
trong sáng tác nghệ thuật. Như vậy, mỗi thế giới nghệ thuật ứng với quan
niệm riêng về thế giới, cắt nghĩa về thế giới, giúp ta hình dung tính độc đáo về
tư duy nghệ thuật và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Mặt khác, văn học lấy chất liệu là hiện thực khách quan song mỗi nhà

văn lại có cái nhìn và cảm nhận khác nhau. Vì thế, mỗi tác phẩm sẽ là một thế
giới nghệ thuật riêng, nó đặt ra nhiệm vụ cho người tiếp nhận là phải tìm hiểu
để có thể bước vào thế giới của tác phẩm. Có thể kể đến các yếu tố biểu hiện
của thế giới nghệ thuật như: không gian, thời gian nghệ thuật, nhân vật, ngôn
ngữ, giọng điệu…
Khi nghiên cứu bất kì một tác phẩm văn học nào, việc tìm hiểu thế giới
nghệ thuật là điều cần thiết. Nó sẽ giúp người đọc phần nào hiểu được quan
niệm nghệ thuật, ý đồ, mục đích sáng tạo của tác giả. Vì thế, tìm hiểu thế giới
nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài cũng không nằm ngoài
mục đích đó.
1.2. Tô Hoài – Hành trình sáng tác và phong cách nghệ thuật
1.2.1. Cuộc đời
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại quê ngoại – làng
Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

7


Ông sinh trưởng trong một gia đình thợ thủ công nghèo. Bút danh Tô Hoài
cũng xuất phát từ hai địa danh sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức (quê ngoại nhà
văn).
Thuở nhỏ, Tô Hoài chỉ được học hết tiểu học rồi sớm trở thành anh thợ
cửi như bao thanh niên khác. Sau đó, ông phải kiếm sống bằng nhiều nghề
khác nhau: bán hàng, dạy học tư, coi kho, kế toán hiệu buôn… trải qua những
ngày tháng thất nghiệp tủi nhục không một đồng xu dính túi. Cuộc sống khổ
cực được Tô Hoài tái hiện qua cuốn Tự truyện bằng nỗi xót xa và cay đắng:
“Ngày ngày tôi cuốc bộ vào thành phố tha thẩn ở các vườn hoa. Tôi xem kiến
bò đến tận hôm tôi có thể phân biệt rạch ròi ra từng loại kiến xây tổ khác
nhau”. Chính hoàn cảnh xuất thân, cuộc sống khó khăn của gia đình… đã tác
động sâu sắc đến Tô Hoài khiến ông có sự đồng cảm với những số phận bé

nhỏ, kiếp người lao động vất vả trong xã hội. Đồng thời, đây cũng là những
kiến thức thực tế trong những trang viết đầy tính chân thực của nhà văn sau
này.
Tô Hoài đến với nghề văn hết sức tự nhiên. Ông viết văn bằng vốn
sống trực tiếp với sự thôi thúc từ bên trong của tâm hồn chứa chan cảm xúc.
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong bài Tô Hoài và những nghiêm chỉnh
của kiếp phù du khẳng định: “Cảm tưởng như bao nhiêu kinh nghiệm hàng
ngày, trước sau đều được nhà văn đưa hết vào trang giấy. Ông sống để viết
và phải viết, như phải ăn phải uống”. Tô Hoài viết rất nhiều, dường như
những câu chuyện của ông không bao giờ vơi cạn. Càng viết, nhà văn càng
chứng tỏ năng lực của mình, sự hăng say và sáng tạo...
Tô Hoài sớm tham gia hoạt động chính trị. Trước cách mạng tháng
Tám, ông tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, hoạt động tuyên truyền Việt Minh,
viết báo bí mật. Sau năm 1945, Tô Hoài làm báo Cứu quốc – cơ quan của
Tổng bộ Việt Minh. Tháng 10 năm 1946, ông được vinh dự đứng trong hàng

8


ngũ của Đảng Cộng Sản. Từ đây ông càng tham gia tích cực hơn vào các hoạt
động cách mạng. Năm 1957, Tô Hoài được bầu làm Tổng thư kí của Hội, rồi
giữ chức chủ tịch Hội Văn nghệ Việt Nam. Không chỉ có vậy, ông còn tham
gia các hoạt động xã hội khác như: đại biểu Quốc hội khóa VII, Phó chủ tịch
ủy ban đoàn kết Á – Phi, Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Ấn, Ủy viên Ban
Chấp Hành Hội hữu nghị Việt – Xô. Chính quá trình tham gia hoạt động cách
mạng và giữ nhiều trọng trách khác nhau đã giúp Tô Hoài gắn bó khăng khít
hơn với quần chúng nhân dân đặc biệt là người lao động. Vốn hiểu biết cùng
với sự từng trải đó đã trở thành nguồn tư liệu quý giá cho cuộc đời viết văn
của ông sau này.
Tô Hoài vinh dự được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về

văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
 Trƣớc Cách mạng tháng Tám
Tô Hoài là cây bút tiêu biểu cho văn xuôi hiện thực, thành công ở nhiều
thể loại:
+ Truyện ngắn: Dế mèn phiêu lưu ký (1941), O Chuột (1942), Giăng
thề (1943), Nhà nghèo (1944), Xóm Giếng ngày xưa (1944)
+ Hồi kí: Cỏ dại (1944)
+ Tiểu thuyết: Quê người (1941)
Sáng tác của Tô Hoài thời kì này tập trung vào hai mảng đề tài: truyện đồng
thoại về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Truyện viết về loài vật của Tô Hoài có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm đầu tay Dế mèn phiêu lưu ký
là một thành công xuất sắc của Tô Hoài, khẳng định vị trí của ông trên văn
đàn. Viết về loài vật, Tô Hoài tìm đến hình thức sáng tác đồng thoại. Ông đã

9


viết về thế giới loài vật trong cảm quan sinh hoạt, phong tục như đời sống của
con người.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, đề tài miêu tả cảnh đói nghèo của
người dân ở vùng ven Hà Nội, sống bằng nghề dệt thủ công, cũng được nhà
văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc của những
những người nông dân, thợ thủ công quanh năm lam lũ, điêu đứng vì miếng
cơm manh áo, phiêu bạt nơi đất khách quê người. Có thể kể đến những tác
phẩm như: Nhà nghèo, Ông Cúm bà Co, Xóm Giếng ngày xưa…
Với cái nhìn khách quan, chân thực, mỗi tác phẩm của Tô Hoài đều là
minh chứng phản ánh cuộc sống nghèo đói, lạc hậu bấp bênh của người dân
nghèo trước Cách mạng. Qua đó, Tô Hoài đã khẳng định được vị trí của một

nhà văn hiện thực. Ở đề tài nào và đối tượng phản ánh nào, thế giới nghệ thuật
của ông đều thấm đượm tính nhân văn.
 Sau cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển biến trong tư tưởng
và sáng tác của Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng nắm bắt kịp thời các vấn đề
mới của đời sống và sáng tác thành công ở nhiều thể loại khác nhau:
+ Truyện ngắn: Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây
Bắc (1953), Khác trước (1957), Vỡ tỉnh (1962), Người ven thành (1972),
Người một mình (1998)…
+ Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)
+ Tiểu thuyết: Mười năm (1957), Miền Tây (1967), Tuổi trẻ Hoàng
Văn Thụ (1971), Đảo hoang (1976), Những ngõ phố, người đường phố
(1980), Quê nhà (1981), Họ Giàng ở Phìn Sa (1984), Nhớ Mai Châu
(1988).
+ Kí: Đại đội Thắng Bình (1950), Nhật kí vùng cao (1969), Lăng Bác
Hồ (1977), Tự truyện (1978), Hoa hồng vàng song cửa (1981), Cát bụi chân

10


ai (1992), Chuyện cũ Hà Nội (1998), Chiều chiều (1999), Ba người khác
(2006)…
+ Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác: Một số kinh nghiệm viết văn
của tôi (1959), Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật
và phương pháp viết văn (1997).
Giai đoạn này, Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ánh
trong phạm vi của một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội mà ông còn
hướng đến một không gian rộng lớn hơn. Đó là cuộc sống của nhiều lớp
người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tô Hoài
viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài năng nghệ thuật, vốn sống phong phú, mà

còn bằng cả tình yêu đằm thắm thiết tha như chính quê hương mình. Tiêu biểu
cho mảng sáng tác về đề tài miền núi có thể kể đến: Núi cứu quốc, Truyện
Tây Bắc và đặc biệt là tiểu thuyết Miền Tây.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài
còn đạt được thành tựu đặc sắc ở thể kí và hồi kí: Cát bụi chân ai, Nhật kí
vùng cao, Lên Sùng Đô, Tự truyện… Qua các tác phẩm, người đọc nhận ra
nhà văn đã đặt đời sống vào điểm nhìn cá nhân, cái nhìn về đời sống về con
người được dân chủ hóa.
Tóm lại, toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài đã khẳng định được vị
trí và tài năng nghệ thuật của ông trước hiện thực của cuộc đời mới. Ông
xứng đáng là một tấm gương trong sáng trong lao động nghệ thuật, góp phần
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.3. Phong cách nghệ thuật
Hoàn cảnh gia đình, xã hội, bản thân đã đưa Tô Hoài đến với nghề văn.
Ông cho rằng văn học có khả năng nói được những điều giản dị của đời sống
xung quanh, những trải nghiệm cơm áo hàng ngày. Mọi chuyện vui buồn
trong đời sống sinh hoạt đều được nhà văn chuyển tải lên trang giấy. Bạn bè,

11


hàng xóm… đều có thể bắt gặp câu chuyện, lời nói của họ trong sáng tác của
ông. Bởi “người ta nói thế nào tôi cứ theo thế mà xào xáo thành văn… tôi biết
rất rõ tiếng này chính ngày trước ai hay nói, bà tôi, mẹ tôi, ông hàng xóm…”
[8, 152]. Ông luôn có ý thức sâu sắc học tập lời ăn, tiếng nói của quần chúng
nhân dân lao động.
Trong khi các nhà văn hiện thực quan niệm tiểu thuyết phải là sự thực ở
đời, phản ánh đời sống qua xung đột giai cấp, quan hệ giàu nghèo thì sáng tác
của Tô Hoài chủ yếu vẫn nhìn con người ở góc độ đời tư. Họ là những người
lao động nhỏ bé, giản dị gắn với cuộc sống đời thường. Theo Tô Hoài, con

người trước khi là một ai đó thì trước hết phải là chính mình với tất cả những
gì mà tạo hoá đã ban tặng; cũng vui buồn, đau khổ, hạnh phúc, cũng có mặt
tốt và mặt xấu. Ông không chỉ nêu ra những thói hư tật xấu của con người mà
còn gián tiếp khẳng định ẩn sâu trong mỗi con người luôn có mặt tốt đẹp làm
nền tảng đạo đức. Điều đó được phản ánh qua tác phẩm Quê người. Nhân vật
Thoại đánh liều ra đồng bắt trộm chó không thành nên vợ chồng con cái đùm
dúm dắt nhau đi lang bạt nơi đất khách quê người. Lão lái Khế (Khách nợ)
hạch sách, dọa nạt, moi tiền con nợ bằng nhiều mẹo vặt, nhưng lão vẫn còn
nhận ra cảnh cùng kiệt của nhà Hương Cay. Rõ ràng, con người tha hóa trong
văn Tô Hoài không hoàn toàn biến chất.
Con người trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên như những số kiếp tự
nhiên, dường như muôn thuở họ phải đối mặt với những chuyện mưu sinh,
cơm áo gạo tiền… Viết về những kiếp người lao động nhỏ bé, bình dị xung
quanh cuộc sống của mình, nhà văn dường như am hiểu tâm lý, tư tưởng tình
cảm của họ. Những câu chuyện, con người đó hiện lên sinh động, sắc nét
trong trang văn của Tô Hoài. Đó là thân phận của bà lão Vối (Mẹ già) buộc
lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào con. Đó là số phận khổ cực của anh
Duyện (Nhà nghèo) quanh năm điêu đứng vì miếng cơm manh áo.

12


Khi viết về những người chiến sĩ hoạt động cách mạng, Tô Hoài cũng ít
khi lí tưởng hóa vẻ đẹp ngoại hình hoặc phẩm chất tính cách mà dưới ngòi bút
của ông họ vừa có phẩm chất, vừa có thói tật, vừa có cái xấu, cái tốt như một
con người bình thường. Họ cũng chỉ là những con người giữa đời thường,
cũng vất vả, cũng nhút nhát… Vì thế, nhân vật trong văn Tô Hoài rất bình dị,
thân thuộc với độc giả. Có thể kể đến nhân vật Nghĩa (Miền Tây), A Châu
(Vợ chồng A Phủ), Đức Xuân (Núi cứu quốc)…
Viết về thế giới loài vật, những trang văn được Tô Hoài miêu tả cũng

rất gần gũi, đời thường. Ông viết về chuồn chuồn kim, gi đá, dế mèn, chim
chóc… Đó những con vật bé nhỏ, “xoàng xĩnh” nhất nhưng nó rất gần gũi với
cuộc sống sinh hoạt của con người, mang tính cách, số phận như con người.
Đó là mụ Ngan trong tác phẩm cùng tên, tính nết vô tâm đần độn quá, tranh
ăn với cả lũ con thơ; là Gà mái (Một cuộc bể dâu) vừa là “một người đàn bà
giỏi giang (…) Một bậc mẹ hiền gương mẫu”. Vợ chồng Gi đá (Đôi Gi đá)
chăm chỉ không quản gió mưa, cần mẫn “làm nhà” trên cây hồng bì.
Bên cạnh đó, Tô Hoài cũng chú ý miêu tả cuộc sống sinh hoạt, những
phong tục quen thuộc của từng vùng quê, từng gia đình, từng con người. Ông
ít tập trung vào những mâu thuẫn xã hội mang tính đối kháng quyết liệt, mà đi
sâu phản ánh cuộc sống sinh hoạt với những phong tục, tập tục nơi chôn rau
cắt rốn. Đó cũng là nơi những người nông dân, thợ thủ công cùng ở một làng
cùng làm một nghề, cùng quan tâm đến những buồn vui, tốt xấu trong cuộc
sống theo quy luật tự nhiên của nó. Trong văn Tô Hoài luôn lưu giữ một kho
kiến thức về phong tục tập quán của người Việt, nếu tước bỏ đi ý nghĩa phong
tục thì tác phẩm sẽ không còn vẻ hấp dẫn vốn có nữa. Đó là nạn tảo hôn (Vợ
chồng trẻ con), ma chay, cưới xin (Quê người), tục cướp vợ, cho vay lãi,
trình ma (Vợ chồng A Phủ), phạt vạ (Cứu đất cứu Mường), tục đấu vật, bắn
nỏ (Nỏ thần)…

13


Không chỉ có vậy, thiên nhiên trong văn Tô Hoài cũng được miêu tả
như trong cuộc sống thực. Đó không chỉ là hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ với
những màu sắc rực rỡ của cỏ cây hoa lá (Miền Tây, Nỏ thần, Đảo hoang…),
mà còn là hình ảnh thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt, đem đến không ít những
hiểm nguy cho con người (Miền Tây, Nhớ Mai Châu…).
Bằng sự cảm thông, lòng yêu mến đối với những con người sống xung
quanh mình, Tô Hoài đã khá tinh tế và sâu sắc khi phản ánh cuộc sống và con

người đời thường trong mỗi trang viết. Qua các tác phẩm của mình, nhà văn
đã thể hiện cách nhìn về đời sống, cách nhìn nhận về con người tạo nên quan
niệm nghệ thuật về hiện thực đời thường; quan niệm nghệ thuật về sinh hoạt,
phong tục. Điều đó đã tạo nên phong cách nghệ thuật Tô Hoài.
1.3. Vị trí của tiểu thuyết Miền Tây trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài
Tiểu thuyết Miền Tây ra đời năm 1967. Lúc bấy giờ, miền Bắc bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa
làm hậu phương vững chắc cho miền Nam đấu tranh giành độc lập. Tác phẩm
kể về gia đình bà Giàng Súa và những người dân ở Phìn Sa thuộc miền núi
Tây Bắc. Nhân vật chính là bà Giàng Súa. Chồng chết khi đi phu cho quan,
bốn mẹ con bị hàng xóm cho là có ma nên hắt hủi, xua đuổi phải dắt díu nhau
chạy trốn vào rừng sống chui lủi. Cách mạng thành công, bà Giàng Súa trở về
được sống trong tình thương và sự đùm bọc của làng xóm, Đảng, Chính phủ.
Bà tự hào vì sự trưởng thành của các con. Thào Khay trở thành y sĩ, là một
cán bộ gương mẫu của Đảng, giữ trọng trách trong châu ủy Châu Yên. Thào
Mỵ được cử xuống Hà Nội học y, cống hiến và phục vụ nhân dân, Tổ quốc.
Trước cách mạng, cuộc sống của người dân ở miền núi thường được
các nhà văn thi vị hóa. Dưới ngòi bút của họ, cuộc sống trên những vùng cao
là một thế giới riêng biệt, khác hẳn với chốn phồn hoa đô thị. Đó là một thế
giới đầy mơ mộng vớ những cô gái dân tộc xinh đẹp, thuần hậu, những phiên

14


chợ tình đầy sức hấp dẫn. Với tiểu thuyết Miền Tây, Tô Hoài đã cho người
đọc thấy thế giới mơ mộng ấy chính là nơi chứa đầy những hủ tục, tục lệ lạc
hậu. Trong đó bọn cường hào, thống lý ra sức bóc lột áp bức nông dân. Bằng
vốn sống phong phú cùng sự hiểu biết sâu sắc về đồng bào miền núi, nhà văn
dùng ngòi bút kịch liệt lên án các hủ tục, tục lệ lạc hậu, thối nát ở miền núi,
đồng thời phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp ở các vùng cao

trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời qua tiểu thuyết
Miền Tây, Tô Hoài cũng khẳng định vai trò, sức mạnh của Cách mạng đã làm
thay đổi cuộc sống tăm tối, tù túng của người đồng bào miền núi, giúp họ
thoát khỏi những quan niệm, hủ tục lạc hậu để xây dựng cho quê hương, đất
nước.

15


CHƢƠNG 2
HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN TÂY CỦA TÔ HOÀI
2.1. Khái niệm nhân vật
Có thể thấy, nhân vật là yếu tố trung tâm thuộc cấu trúc của tác phẩm
văn học. Nó có vai trò quan trọng trong việc tái hiện hiện thực xã hội và thể
hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật còn là nơi nhà văn thể hiện quan niệm
nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ của chính bản thân mình về con người.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi cho rằng:
Nhân vật văn học là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm
văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng cũng có thể không có tên
riêng… thể hiện quan niệm nghệ thuật và liên tưởng thẩm mĩ của nhà văn về
con người. Vì thế nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề của tác phẩm. Nhân vật
văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết
các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này
với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật khác. Cho nên
nhân vật luôn luôn gắn liền với cốt truyện” [4, 235].
Khái niệm nhân vật còn được định nghĩa trong giáo trình Lí luận văn
học (Hà Minh Đức chủ biên)
“Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó

không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ
là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề
nghiệp, tính cách… và cần chú ý thêm rằng: thực ra khái niệm nhân vật
thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con
người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm, hoặc
chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là những sự vật, loài

16


vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con người, được dùng như
những phương thức khác nhau để thể hiện con người” [3, 159].
Như vậy, nhân vật văn học là sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Do đó,
khi tìm hiểu về tác phẩm thì yếu tố cần xem xét trước tiên đó chính là nhân
vật.
2.2. Các loại hình nhân vật
2.2.1. Những con người nghèo khổ, bất hạnh
Hiện thực đời sống được phản ánh dưới cái nhìn chủ quan của người
nghệ sĩ bộc lộ cảm xúc, tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả trước các vấn
đề đó. Viết về người nông dân, mỗi nhà văn lại phản ánh những vấn đề khác
nhau: cái đói, cái nghèo, sự phân biệt giai cấp… Nam Cao chú ý tới sự tha
hóa của con người, Ngô Tất Tố phản ánh nạn sưu thuế, hủ tục ở làng quê Việt
Nam. Nguyễn Công Hoan miêu tả đời sống hiện thực, những mặt trái của xã
hội bằng tiếng cười châm biếm, đả kích. Kim Lân phản ánh việc phu phen
đồn điền, vấn đề cái đói… Còn với Tô Hoài, ông phản ánh cuộc sống cơ cực
vất vả của người nông dân, đặc biệt là người dân miền núi với những hủ tục
lạc hậu ở vùng cao Tây Bắc.
Có thể thấy, hình ảnh người nông dân miền núi trong sáng tác của Tô
Hoài là những con người chịu nhiều bất hạnh, khổ cực, là nạn nhân của những
hủ tục lạc hậu… Tất cả những điều đó khiến họ không thể ngóc đầu lên được,

cuộc sống quẩn quanh nghèo đói, bế tắc tuyệt vọng. Viết về những nhân vật
của mình, Tô Hoài đặc biệt quan tâm đến số phận những người phụ nữ. Nếu
trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được cuộc đời số phận
của Thúy Kiều – một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng phải chịu mười
lăm năm lưu lạc; thì ở văn học hiện đại, ta bắt gặp hình ảnh chị Dậu – một
người phụ nữ đảm đang, hiền lành chịu thương chịu khó, yêu chồng thương
con, nhưng vì không đủ tiền đóng sưu thuế khiến gia đình chị phải tan đàn xẻ

17


nghé, hạnh phúc chia lìa… Nỗi khổ đau của người phụ nữ dường như trải dài
vô tận. Còn trong mảng sáng tác về đề tài miền núi, Tô Hoài cũng nói lên nỗi
đau thương, khổ cực của người phụ nữ. Nhân vật bà Ảng trong truyện Cứu
đất cứu Mường là một người con gái đẹp nức tiếng của núi rừng. Lợi dụng
quyền thế quan châu, quan lang đã chiếm đoạt và khiến bà có thai, chúng còn
bắt nộp phạt mười hai đồng bạc trắng. Không có tiền, bà Ảng đành phải dứt
ruột bán đi đứa con trai lớn để lấy tiền nộp phạt. Nỗi đau của một người mẹ,
nỗi khổ của một người phụ nữ một mình nuôi con khiến cuộc đời bà luôn bị
nhấn chìm trong tăm tối và cơ cực. Nói đến người phụ nữ trong sáng tác của
Tô Hoài không thể không kể đến nhân vật Mỵ trong truyện Vợ chồng A Phủ.
Mỵ là một cô gái đẹp, có tài thổi sáo: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách
buồng Mỵ (…) Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo My”.
Cuộc đời bất công bởi vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ đã biến cô thành con
dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Từ một người con gái vui tươi, hồn nhiên,
tràn đầy sức sống, Mỵ trở nên “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, “Ở lâu
trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi”.
Miêu tả số phận cùng cực của những người phụ nữ trong xã hội, Tô
Hoài xây dựng thành công hình ảnh nhân vật bà Giàng Súa. Đó là một người
phụ nữ nghèo khổ bất hạnh. Gia đình bà đang sống yên ổn, hạnh phúc thì tai

họa ập xuống. Người chồng phải bỏ dở công việc ruộng nương để đi tải thuốc
phiện cho quan, bị ngã xuống núi và vĩnh viễn không bao giờ trở về. Những
khó khăn vất vả chưa qua thì xảy ra tin đồn cho rằng nhà Giàng Súa có ma.
Nỗi đau mất chồng chưa nguôi ngoai, sự nghi ngờ của người làng khiến bà
khiếp sợ đến nỗi “tưởng mình có ma thật”. Bà từng nghe người ta mách muốn
giải ma thì ngậm hòn đá ba mươi đêm. Bằng sự cả tin của một người phụ nữ
bà Giàng Súa đã làm theo. Vì sợ hãi khi bị quan đồn và người làng dọa giết,
mẹ con bà phải bỏ nhà vào rừng sâu trốn thoát. Ở trong rừng không dám gặp

18


mặt ai, bà khao khát được nói chuyện được nghe âm thanh của cuộc sống:
“Những tiếng xa xôi ngoài núi tranh chen chúc những làng xóm xa kia đã làm
cho người tù trong rừng càng khát nghe”. Ước mơ nhỏ nhoi là: “Thèm nghe
tiếng gà lợn kêu điếc tai, con bò rung chuông, con ngựa lọc cọc trên đá.
Tiếng ai đương gọi vọng ra nương” mà không thể thực hiện được. Tô Hoài đã
diễn tả sự xót thương của mình đối với thân phận, cuộc sống những người phụ
nữ bất hạnh.
Cuộc sống của người dân ở miền núi thường gặp nhiều khó khăn, vất
vả. Thêm vào đó, trình độ hiểu biết của người dân còn thấp và lạc hậu. Vì thế,
họ vừa là nạn nhân của cường quyền, thần quyền, vừa là nạn nhân của chính
mình. Qua tiểu thuyết Miền Tây, Tô Hoài thể hiện sự xót thương của mình
cho người dân nghèo khổ, cả đời bị những hủ tục, sự mê tín đè lên vai. Những
thủ đoạn bóc lột của bọn thống lý, quan đồn khiến cuộc sống của những người
nông dân hiền lành trở nên cùng cực bế tắc. Chủ tịch Tỏa kể câu chuyện về
cuộc đời của ông khi chưa được Cách mạng soi rọi: “Cả nhà, cả xóm đều là
người hầu quan (…) Còn sót ai không bị đi tù thì phải đời này sang đời khác,
chia nhau đi hầu nhà thống lý như người ở nợ (…) Nhà Tỏa từ đời ông, đã bị
quan bắt xóa họ Vừ nhà mình, đổi sang họ Mùa làm người nhà quan rồi đem

về bắt làm nghề đúc cày” [2, 310]. Tỏa là người có tài. Hơn ba mươi tuổi, ông
đã thạo tay nặn khuôn bằng người thợ cả nhất lò. Những sản phẩm ông làm ra
“ai nhìn cũng phải sướng mắt”. Vậy mà, vì phận đi ở cho thống lý nên những
đồ vật ông làm ra đều là của nhà quan. Quan thống lý đã bóc lột mồ hôi, nước
mắt của người dân lao động, họ không chỉ làm ra của cải mà còn tạo ra danh
tiếng cho nhà quan. Cuộc sống của họ lại do người khác làm chủ. Ngày đêm
vất vả cực khổ làm giàu cho quan mà vẫn chưa yên. Chúng âm mưu bắt vợ
Tỏa nên đã tống ông vào nhà giam. Với bản tính thật thà, lương thiện, Tỏa
nghĩ mình có tội nên mới phải vào tù. Ông an ủi vợ: “Ta là đầy tớ nhà quan,

19


không đứa nào hại nổi ta đâu!”. Sự tàn ác, dã man của nhà tù khiến ông bị
mất hai ngón tay vì “bị buộc thừng vào hai đầu ngón tay suốt ngày đêm”.
Không lâu sau khi vợ chết, Tỏa được thả tự do. Ông lại trở về tiếp tục việc
đúc cày cho nhà quan và sống trong cảnh gà trống nuôi con. Đó là những
dòng tâm sự rất chân thật của một người cha chất chứa bao sự vất vả hi sinh
cho con, cho gia đình khiến người đọc không khỏi xót xa ngậm ngùi và kính
trọng người nông dân như thế.
Tóm lại, trong tiểu thuyết Miền Tây, cuộc sống mỗi người nông dân là
một câu chuyện, một mảnh đời khác nhau. Tất cả cùng chung một số phận
chịu sự bóc lột của bọn nhà quan, sự tồn tại của những hủ tục luôn là gánh
nặng đè lên vai khiến họ không thể thay đổi được cuộc sống của mình. Đó là
người ở nợ, gái góa, gái trốn chồng phải đến nương nhờ cửa quan, những
người dân khi có việc đến nhà thống lý phải nộp tiền lễ “rửa cửa”, người đi
đường mà nghe hươu kêu thì cho rằng gặp điều xấu, người mới đi xa về gặp
nhau mà khóc thì sẽ gặp điều không tốt lành… Tô Hoài đã chỉ ra những hạn
chế trong nhận thức của người dân miền núi. Mặt khác, nhà văn thể hiện tình
yêu thương, sự cảm thông sâu sắc trước những con người cơ cực. Họ chính là

nạn nhân của cường quyền và thần quyền. Từ đó, nhà văn lên tiếng bênh vực
cho những con người thấp cổ, bé họng trong xã hội, tố cáo lên án chế độ xã
hội cùng với những hủ tục đã khiến cho cuộc sống của người dân bần cùng,
không lối thoát.
2.2.2. Những con buôn vụ lợi
Trong tiểu thuyết Miền Tây, bên cạnh việc khắc họa những người dân
nghèo khổ, bất hạnh, hình ảnh con buôn vụ lợi cũng được Tô Hoài thể hiện
một cách rõ nét. Với người nông dân, nhà văn dành những tình cảm yêu
thương, cảm thông. Ngược lại, ông đả kích, lột trần bộ mặt xấu xa, đê tiện của
giai cấp thống trị, bọn con buôn trong xã hội cũ. Những thống lý, thống quán,

20


quan châu, gian thương đều là bọn sâu mọt đục khoét nhân dân. Ông không
trực tiếp dùng ngôn ngữ đả kích trực tiếp mà dùng ngòi bút tố cáo, vạch mặt,
phơi bày bản chất của bọn chúng.
Xây dựng hình ảnh con buôn, gian thương, mở đầu tác phẩm, Tô Hoài
đã phơi bày cho người đọc thấy: chuyện tranh ăn cướp mồi cướp của của các
chủ ngựa, chủ hàng. Bọn chúng dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe để có thể đạt
được mục đích của mình. Vì muốn cướp khách, chủ ngựa Đèo đã làm thuốc
giết chết cả hai con ngựa tốt nhất của của ông Tòng. Biết tin đó, khách Sìn
không thuê ông Tòng nữa mà thuê ngựa của lão Đèo chở hàng lên Phìn Sa.
Tô Hoài đã khéo léo, chỉ bằng một vài chi tiết khái quát làm nổi bật
ngoại hình nhân vật khách Sìn. Đó là một người hiện lên với dáng vẻ “béo
trắng những mỡ, mồm ông ấy cười đầy răng vàng” khiến người đọc hình
dung về một con buôn béo tốt, tham lam. Sìn biết lợi dụng cơ hội buôn bán
kiếm lời ở mảnh đất Phìn Sa, nơi mà hắn nghĩ là: “có tiền chảy đến, kiếm
được gấp trăm những chuyến hàng ngon ăn khác”. Vì thế, năm nào cứ gần
dịp phiên chợ Tết, hắn lại mang hàng lên bán kiếm lời. Sự tính toán, hám lợi

của Sìn còn thể hiện ở việc mang hàng lên Phìn Sa chỉ để lấy chuyến, việc
mua các thứ ở đó đem đi mới là việc buôn quan trọng. Hắn bán toàn những
thứ quen thuộc như: muối, dầu hỏa, diêm, hạt tiêu, các loại kim và chỉ mầu
hay mũ dạ, ô đen, đèn pin… ai cũng thích nhưng ít ai sắm được bởi vì nó rất
đắt. Cùng với việc bán đắt, Sìn thu mua mọi thứ mà người dân đem đến chợ
với mục đích kiếm lời: “người ta bán như đổ của đi. Cả một bộ xương hổ,
xương khỉ đem đổi được có một bát muối”. Tất cả thuốc phiện, gạc hươu, gạc
nai, xương hổ, mật gấu, xương thú, mật ong, da hổ, da báo, sợi lanh, củ tam
thất, sa nhân, hoàng liên già… đều được hắn mua lại với giá rẻ mạt. Người
nông dân biết mình bị Sìn ép giá nhưng cũng không làm khác được bởi cả đời
họ chỉ trông thấy có hắn là người buôn, vả lại họ cũng không biết bán cho ai.

21


×