Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.01 KB, 74 trang )

Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE)

BÁO CÁO

ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG
CÁC DỊCH VỤ PHÁP LÝ
CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ

Hà Nội, tháng 12 năm 2010

0


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

BĐG

Bình đẳng giới

Bộ GD-ĐT

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ LĐTBXH

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

Bộ VHTTDL



Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CLB TGPL

Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý

CTV

Cộng tác viên

DTTS

Dân tộc thiểu số

FAO

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc

Hội LHPNVN

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

IOM

Tổ chức Di cư quốc tế


iSEE

Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường

LHQ

Liên Hợp Quốc

MCNV

Uỷ ban y tế Hà Lan - Việt Nam

PCBLGD

Phòng chống bạo lực gia đình

SDC

Văn phòng hợp tác phát triển Thuỵ Sĩ

SIDA

Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển

TGPL

Trợ giúp pháp lý

TNXH


Tệ nạn xã hội

TVPL

Tư vấn pháp luật

UBND

Uỷ Ban nhân dân

UNAIDS

Chương trình phòng chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc

UNDP

Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc

UNESCO

Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục Liên Hợp Quốc

UNFPA

Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc

UNICEF

Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc


UNIDO

Tổ chức phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc

UNIFEM

Quỹ phát triển Liên Hợp Quốc cho phụ nữ

UNODC

Văn phòng ma tuý và tội phạm Liên Hợp Quốc

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

XHDS

Xã hội dân sự

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................................................1
MỤC LỤC......................................................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................................4
GIỚI THIỆU CHUNG.................................................................................................................5

1. Bối cảnh nghiên cứu............................................................................................................. 5
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................................. 6
3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................................... 6
4. Hạn chế của nghiên cứu....................................................................................................100
PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM VÀ
TÌNH HÌNH BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC NHÓM DÂN TỘC THIỂU SỐ............11
1. Phân bố dân cư và phân loại người DTTS ở Việt Nam.......................................................11
2. Nghèo đói và các nguyên nhân chính của nghèo đói trong người DTTS........................... 11
3. Phụ nữ dân tộc miền núi và tình trạng bình đẳng giới trong các cộng đồng DTTS...........15
4. Quản lý xã hội và luật tục của người DTTS....................................................................... 20
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC
THIỂU SỐ QUA RÀ SOÁT TÀI LIỆU

23

1. Các loại hình dịch vụ pháp lý hiện có ở Việt Nam............................................................. 23
2. Sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS........................................................................26
3. Sự phù hợp của các dịch vụ pháp lý và các rào cản cho tiếp cận dịch vụ pháp lý của…..
27 phụ nữ DTTS
PHẦN 3: ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC…. 33
THIỂU SỐ - NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG Ở BẮC CẠN VÀ AN GIANG
1. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu........................................................................................ 33
2. Cung của dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý.......................................................................34
3. Nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới DTTS......................................36
4. Mức độ tiếp cận đến dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS.................................................... 42
5. Các rào cản cho việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý................................................. 46
PHẦN 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC VỀ TĂNG CƯỜNG TIẾP CẬN
DỊCH VỤ PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ...............................................49
PHẦN 5: CÁC KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.................................................................53
Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục 1: Bảng hỏi
Phụ lục 2: Tóm tắt các dịch vụ pháp lý

2

56
58
71


Danh mục các bảng
Bảng 1:

Những người tham gia nghiên cứu

Bảng 2:

Tỉ lệ hộ nghèo theo vùng qua các thời kì 2006 – 2008

Bảng 3:

Dân số từ 10 tuổi trở lên biết chữ theo vùng và giới tính

Bảng 4:

Mức sinh và mức chết theo dân tộc

Bảng 5:

Nơi sinh và người chăm sóc khi sinh theo tỉnh


Bảng 6:

Một số chỉ tiêu chính có liên quan của các địa bàn nghiên cứu

Bảng 7:

Số các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
cho người dân ở hai tỉnh Bắc Kạn và An Giang (số liệu năm 2009)

Bảng 8:

Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua xếp theo mức độ
phổ biến

Bảng 9:

Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua xếp theo mức độ bức xúc
cảm nhận của những người gặp phải vấn đề đó

Bảng 10: Tổng hợp những nhóm vấn đề bức xúc của người dân
Bảng 11: So sánh những vấn đề thường gặp giữa nhóm phụ nữ DTTS với nam giới DTTS và
phụ nữ Kinh
Bảng 12: Tỷ lệ người dân báo cáo có làm các thủ tục pháp lý cơ bản
Bảng 13: Tỷ lệ người dân đã được nghe đến những tổ chức, cơ quan có liên quan đến dịch
vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
Bảng 14: Tỷ lệ người dân giải quyết vấn đề theo những cách cụ thể xếp theo mức độ phổ
biến của vấn đề (%)
Bảng 15: Tỷ lệ cam chịu của nam giới và nữ giới trong những vấn đề cụ thể
Bảng 16: Số người được trợ giúp pháp lý ở Bắc Kạn và An Giang năm 2009

Bảng 17: Tỷ lệ người dân đã từng được tư vấn hoặc trợ giúp pháp lý từ các cơ quan,
tổ chức
Bảng 18: Tỷ lệ người dân đưa ra những lý do khác nhau để giải thích cho việc họ chưa sử
dụng dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
Bảng 19: Những yếu tố mà người dân coi là quan trọng trong việc sử dụng dịch vụ pháp
lý / trợ giúp pháp lý
Danh mục các hình
Hình 1:

Khung phân tích

Hình 2:

Tỉ lệ nghèo khác nhau giữa các nhóm dân tộc

Danh mục các khung
Khung 1: Các vấn đề liên quan đến hôn nhân gia đình
Khung 2: Tranh chấp đất đai và cách giải quyết của ở Bắc Kạn
Khung 3: Nhận thức của nam giới và nữ giới về trợ giúp pháp lý
3


LỜI CẢM ƠN
Việt Nam từ lâu đã được đánh giá cao vì những cam kết chính trị trong việc đảm bảo
bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới cũng như giữa các dân tộc. Hiến pháp quy định công dân
nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; các
hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ đều bị nghiêm cấm. Tuy
nhiên, trên thực tế thực trạng bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới vẫn còn những khác
biệt. Nhìn chung, phụ nữ vẫn ở vị trí thiệt thòi hơn so với nam giới trong tất cả các lĩnh vực
của cuộc sống, trong đó phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) chịu thiệt thòi nhất, vừa phải gánh

chịu những bất bình đẳng giới cũng như bất bình đẳng về mặt dân tộc.
Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng chống bạo lực gia đình được Quốc hội thông qua
năm 2006 và 2007 là những tiền đề quan trọng, tạo ra các cơ sở pháp lý vững chắc để thực
hiện bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, ngoài khung pháp lý, để có được bình
đẳng và công bằng thực sự cho phụ nữ và nam giới thì một yếu tố quan trọng khác cũng cần
phải có, đó là người dân cần có hiểu biết về pháp luật và các trình tự thủ tục cũng như được
hướng dẫn và hỗ trợ để thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình. Các dịch vụ
pháp lý là những kênh quan trọng, góp phần mang đến những hiểu biết, hướng dẫn và hỗ trợ
đó cho người dân. Chừng nào phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng còn chưa tiếp cận
bình đẳng tới các dịch vụ pháp lý thì khó có thể đảm bảo các quyền và trách nhiệm của họ
được tôn trọng trên thực tế. Trong bối cảnh này, đẩy mạnh tiếp cận của phụ nữ và nam giới
DTTS tới các dịch vụ pháp lý là một phương thức hiệu quả để thực thi Luật Bình đẳng giới
(BĐG) và Luật Phòng chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ), góp phần hướng tới bình đẳng giới
cho phụ nữ và nam giới DTTS.
Ý tưởng về tiến hành một nghiên cứu đánh giá tình hình tiếp cận tới dịch vụ pháp lý
của phụ nữ DTTS được đề xuất trong khuôn khổ Chương trình chung về bình đẳng giới giữa
Chính phủ Việt Nam và các tổ chức Liên hợp quốc. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi
trường xin trân trọng cảm ơn Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, bà Nguyễn Thị Diệu
Hồng, Phó Giám đốc Chương trình chung về Bình đẳng giới giữa Chính phủ Việt Nam và các
tổ chức LHQ, chị Trần Thị Phương Nhung, Điều phối viên dự án Ô, chị Hà Thị Vân Khánh,
Cán bộ chương trình của UNDP và các đồng nghiệp khác đã đưa ra ý tưởng, đóng góp ý kiến
cũng như hỗ trợ cho Viện trong quá trình tiến hành nghiên cứu này.
Đoàn nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Sở Lao Động - Thương Binh và Xã Hội và
Sở Tư Pháp hai tỉnh Bắc Kạn và An Giang đã điều phối, liên hệ với các cơ quan, địa phương
liên quan để đoàn nghiên cứu có thể tiến hành công việc một cách dễ dàng. Chúng tôi cảm ơn
các cơ quan ban ngành tỉnh, huyện và các xã nghiên cứu đã dành thời gian chia sẻ với chúng
tôi những nhận xét và ý kiến của mình về thực trạng địa phương trong chủ đề nghiên cứu.
Cuối cùng, chúng tôi bày tỏ sự biết ơn đối với nhân dân 4 xã Cao Kỳ, Tân Sơn huyện Chợ
Mới, tỉnh Bắc Kạn và Cô Tô, Núi Tô huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Họ đã chia sẻ với đoàn
nghiên cứu những trải nghiệm, bức xúc trong cuộc sống và nhu cầu của mình. Qua đó, chúng

tôi đã hiểu rõ hơn về vai trò cũng như thực trạng cung cấp dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý
cho từng nhóm nam giới, phụ nữ, người dân tộc, người Kinh trong xã hội.

4


GIỚI THIỆU CHUNG
1. Bối cảnh nghiên cứu
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng, lối sống và văn hoá riêng.
Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 85.7% của tổng dân số 1. Người DTTS thường sinh
sống ở khu vực miền núi, ít tiếp cận với các thông tin, cơ sở hạ tầng cũng như các dịch vụ y tế
và giáo dục hơn so với nhóm đa số người Kinh và người Hoa. Tỉ lệ nghèo đói trong các nhóm
DTTS cao hơn nhiều so với các nhóm dân tộc đông dân khác. Theo số liệu Điều tra mức sống
hộ gia đình năm 2008 của Tổng cục thống kê, tỉ lệ nghèo đói trong người DTTS là 49,8%
trong khi đó trong người Kinh và Hoa chỉ là 8,5%. Hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỉ lệ
hộ nghèo cao nhất cả nước với 35,9% và 21% số hộ là hộ nghèo. Đây cũng là hai vùng có tỉ lệ
người DTTS sinh sống cao nhất. Tình trạng nghèo đói cùng với điều kiện sinh sống xa xôi và
tiếp cận hạn chế đến dịch vụ đang là các yếu tố làm cho người DTTS trở thành một trong
những nhóm dễ tổn thương và thiệt thòi nhất ở Việt Nam.
Đặc biệt, phụ nữ DTTS còn dễ tổn thương hơn so với nam giới DTTS. Phụ nữ DTTS
thường có ít cơ hội tiếp cận nguồn lực hơn, thiếu quyền sở hữu các phương tiện sản xuất, khả
năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cũng hạn chế hơn. Những chuẩn mực văn hóa trong các
nhóm DTTS cộng với việc nhiều phụ nữ DTTS không nói được tiếng Kinh đang là các rào
cản hạn chế việc tiếp cận của phụ nữ DTTS tới các dịch vụ xã hội cũng như tham gia trong
các quá trình ra các quyết định mang tính chính trị2.
Bất bình đẳng giới được coi là nguyên nhân sâu xa của nghèo đói. Thúc đẩy bình đẳng
giới trong các nhóm DTTS và trao quyền cho phụ nữ DTTS từ lâu đã được cho là căn bản để
xóa đói giảm nghèo có hiệu quả và bền vững. Do sự khác biệt trong phân công lao động theo
giới và khác biệt về văn hóa và tập quán, các nhu cầu của phụ nữ trong xóa đói giảm nghèo
thường khác so với nhu cầu của nam giới, đặc biệt của phụ nữ DTTS sẽ khác so với phụ nữ

Kinh. Tăng cường sự tham gia và tiếng nói của phụ nữ DTTS trong thiết kế, thực hiện và
giám sát các nỗ lực xóa đói giảm nghèo là yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo các nỗ lực này
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ. Phụ nữ DTTS khi tiếp cận tốt hơn tới các nguồn lực xóa đói
giảm nghèo, cũng như các dịch vụ giáo dục và y tế sẽ có khả năng tạo thu nhập tốt hơn cũng
như có sức khỏe tốt hơn, dẫn tới nâng cao thu nhập cho hộ gia đình, giảm nghèo đói. Song
song với tăng cường tiếp cận tới các dịch vụ xã hội khác cho phụ nữ DTTS, việc cải thiện tiếp
cận của họ tới các dịch vụ pháp lý là một phần quan trọng để người dân có kiến thức, hiểu
biết và tuân thủ theo pháp luật, ý thức được quyền và trách nhiệm của mình và đặc biệt giúp
họ tiếp cận công bằng tới các nguồn lực và nguồn vốn có thể giúp họ xóa đói giảm nghèo. Hai
chương trình quan trọng của quốc gia về xóa đói giảm nghèo là Chương trình Phát triển kinh
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010
(Chương trình 135 giai đoạn II) và Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối
với 61 huyện nghèo (Chương trình 30a) đều bao gồm các nội dung về trợ giúp pháp lý.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật BĐG và ngày 21
tháng 11 năm 2007, Quốc hội cũng đã thông qua Luật PCBLGĐ. Hai luật này tạo một cơ sở
pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong các lĩnh vực của
cuộc sống. Việc thực hiện tốt hai luật này trong các cộng đồng DTTS ở Việt Nam sẽ góp phần
quan trọng vào việc đạt được mục tiêu bình đẳng giới trong các cộng đồng này.
Chương trình chung giữa Liên hợp quốc (LHQ) và Chính phủ Việt Nam về bình đẳng
giới được phối hợp thực hiện giữa Chính phủ Việt Nam và các tổ chức LHQ 3 kéo dài trong
giai đoạn 2009 – 2011. Chương trình bao gồm các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật mang tính chiến
1
2

Báo cáo kết quả chính thức Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009
Phân tích xã hội quốc gia – Dân tộc và phát triển ở Việt Nam, Ngân hàng thế giới, 2009

5



lược, đa ngành và có điều phối để xây dựng năng lực của những cơ quan có trách nhiệm ở cấp
quốc gia và cấp tỉnh, giúp họ thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo tốt hơn việc thực thi hai
Luật này. Chương trình có 3 kết quả mong đợi chính như sau:
- Nâng cao kiến thức, kỹ năng, và thực hành trong việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo
cáo về Luật BĐG và Luật PCBLGĐ.
- Tăng cường các quan hệ đối tác và sự phối hợp liên quan tới bình đẳng giới trong và ngoài
chính phủ.
- Củng cố được các dữ liệu dựa trên bằng chứng và các hệ thống dữ liệu nhằm đẩy mạnh
bình đẳng giới.
Trong kết quả mong đợi thứ 3, một loạt các hoạt động được tiến hành nhằm thu thập
thông tin và dữ liệu sẽ được sử dụng để vận động và thúc đẩy các chính sách bình đẳng giới
cho các nhóm thiệt thòi và yếu thế trong xã hội. Nghiên cứu về tình hình tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ pháp lý hiện hành của phụ nữ DTTS là một hoạt động trong số đó. Viện Nghiên
cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:
a. Xem xét đánh giá mức độ tiếp cận với các dịch vụ pháp lý trong 8 lĩnh vực của Luật BĐG
của phụ nữ và nam giới DTTS;
b. Xem xét và đánh giá tình hình bình đẳng giới trong các nhóm DTTS dựa trên 8 lĩnh vực
của Luật BĐG: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
thông tin và thể thao, sức khoẻ cộng đồng và gia đình;
c. Xác định được những thiếu hụt về số liệu trong việc đánh giá tiến độ thực hiện Luật BĐG
và Luật PCBLGĐ trong các nhóm DTTS;
d. Xem xét những kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy tiếp cận dịch vụ pháp lý trong các nhóm
DTTS và bản địa;
e. Đưa ra đề xuất tăng cường tiếp cận dịch vụ pháp lý trong các nhóm DTTS.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1.
Khung phân tích tiếp cận tới dịch vụ pháp lý
Khái niệm dịch vụ pháp lý

Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn cho khái niệm dịch vụ pháp lý. Từ điển
Bách khoa toàn thư Việt Nam có nêu lên định nghĩa dịch vụ như sau:
Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất, kinh
doanh và sinh hoạt. Tuỳ theo trường hợp, dịch vụ bao gồm: một công việc ít nhiều
chuyên môn hoá, việc sử dụng hẳn hay tạm thời một tài sản, việc sử dụng phối hợp
một tài sản lâu bền và sản phẩm của một công việc, cho vay vốn4.
Theo Từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu
nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công5.
Dựa trên những định nghĩa trên, có thể hiểu là dịch vụ pháp lý là các công việc do
những người có chuyên môn thực hiện trong những bối cảnh có tổ chức và nhằm thỏa mãn
nhu cầu của con người về công lý, cụ thể là được thông tin, hành xử và được đối xử theo lẽ
phải và luật pháp. Dịch vụ pháp lý thường được cung cấp bởi luật sư, thông qua các hình thức
3

Các tổ chức LHQ tham gia chương trình chung này bao gồm FAO, ILO, IOM, UNAIDS, UNDP, UNESCO,
UNFPA, UNICEF, UNIDO, UNIFEM, UNODC và WHO
4
Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, tải về từ địa chỉ />param=1F73aWQ9MzQ3OTcmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1leGFjdCZrZXl3b3JkPUQlZTElYmIlOGFDSCtWJW
UxJWJiJWE0&page=1 ngày 5/8/2010
5
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2010

6


dịch vụ như tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các
dịch vụ pháp lý khác theo như quy định của Luật Luật sư. Tuy nhiên, hành lang pháp lý hiện
nay đã mở rộng hơn và cho phép một số chủ thể khác ngoài luật sư được cung cấp các dịch vụ
pháp lý. Báo cáo này cũng sẽ đánh giá cả các dịch vụ do các chủ thể này cung cấp.
Khung phân tích tiếp cận đến dịch vụ pháp lý

Bertrand và cộng sự định nghĩa tiếp cận là mức độ những gói dịch vụ hợp lý đến được
và được sử dụng bởi các cá nhân ở một địa điểm nhất định nào đó. Tiếp cận có nhiều phương
diện khác nhau bao gồm phương diện vật chất, hành chính, kinh tế, nhận thức và tâm lý6.
Trong cung cấp dịch vụ, khi một bên có phát sinh nhu cầu và một bên có khả năng
cung cấp sẽ có tương tác giữa 2 bên – đó là khi bên có nhu cầu đã tiếp cận được dịch vụ và
nhu cầu được đáp ứng. Tuy nhiên, vẫn có giả định rằng có những trường hợp có cung và có
cầu nhưng vẫn chưa dẫn tới việc sử dụng dịch vụ. Điều này có thể do cung chưa thực sự phù
hợp với cầu hoặc có những rào cản hạn chế việc sử dụng các dịch vụ này của phụ nữ hoặc
nam giới DTTS ngay cả khi họ có nhu cầu có thể là chi phí (giá dịch vụ, chi phí đi lại, các chi
phí khác liên quan, chi phí cơ hội cho thời gian bỏ ra), bất đồng ngôn ngữ, những chuẩn mực
xã hội và định kiến giới...
Nghiên cứu về sự tiếp cận đến dịch vụ pháp lý là việc xem xét cả hai phía cung và cầu
của mối tương tác để đánh giá xem cung phù hợp với cầu ở mức độ nào (hình 1). Cả bên cung
và bên cầu đều sống trong một môi trường bị chi phối bởi các hành lang pháp lý liên quan tới
dịch vụ pháp lý, bởi văn hóa và thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý… Chính vì vậy, nghiên cứu
sẽ xem xét bên cung và bên cầu trong mối quan hệ với môi trường chung này, để tìm hiểu
xem ảnh hưởng của môi trường này lên cung và cầu dịch vụ pháp lý như thế nào.
Tiếp cận đến dịch vụ pháp lý là một điều kiện để đảm bảo công lý và bình đẳng giới.
Khi người phụ nữ tiếp cận được dịch vụ pháp lý, họ sẽ hiểu rõ hơn về các quyền và nghĩa vụ
hợp pháp của bản thân, được tư vấn, hướng dẫn hay hỗ trợ để yêu cầu các quyền hay thực thi
trách nhiệm. Nói cách khác, kết quả của việc tiếp cận đến dịch vụ pháp lý là việc bình đẳng
giới được bảo đảm. Nghiên cứu chính vì vậy cũng sẽ tìm hiểu tác động và ảnh hưởng của việc
tiếp cận dịch vụ pháp lý lên tình trạng bình đẳng giới
Cụ thể, nghiên cứu sẽ trả lời cho các câu hỏi chính sau:
o Nguồn cung của dịch vụ pháp lý: tính sẵn có của dịch vụ pháp lý hiện nay như thế
nào? Nguồn cung này phù hợp thế nào so với nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của
phụ nữ và nam giới DTTS?
o Tình hình sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới DTTS như thế nào?
Mức độ tiếp cận các dịch vụ pháp lý hiện nay của phụ nữ DTTS đã đáp ứng đến
đâu so với nhu cầu về dịch vụ pháp lý của họ? Các nhu cầu chưa được đáp ứng là

gì? Mức độ tiếp cận này khác thế nào so với mức độ tiếp cận dịch vụ pháp lý của
nam giới DTTS và các nhóm xã hội khác? Tại sao lại có sự khác biệt này?
o Các yếu tố cản trở tiếp cận dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS là gì? Các chiến lược
chính để nâng cao tiếp cận dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới DTTS là gì?
o Việc tiếp cận tới dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS đã ảnh hưởng như thế nào tới
tình trạng của phụ nữ và thực trạng bình đẳng giới?

6

Bertrand, J., K. Hardee, R Magnani, and M. Angle. 1995. “Tiếp cận, Chất lượng và các Rào cản về y tế với
các chương trình Kế hoạch hóa gia đình.” Tạp chí International Family Planning Perspective 21(2)

7


Hình 1: Khung phân tích
3.2.
Phương pháp nghiên cứu
Hai phương pháp chính được sử dụng cho nghiên cứu:
a. Rà soát tài liệu
Một nghiên cứu rà soát tài liệu được tiến hành khi bắt đầu nghiên cứu nhằm đánh giá
tình hình chung về giới trong các vùng DTTS; tình hình cung cấp các dịch vụ pháp lý, đặc
biệt ở các vùng có đông người DTTS và dịch vụ cho người DTTS; và nhu cầu dịch vụ pháp lý
của người DTTS. Dựa trên kết quả rà soát tài liệu, những thông tin thiếu hụt cần phải tìm
thêm trên thực địa được xác định.
Những tài liệu được nghiên cứu bao gồm các tài liệu của chính phủ, các ấn phẩm và
tài liệu của các tổ chức quốc tế và các tổ chức xã hội dân sự đã được tham khảo để viết báo
cáo nghiên cứu tài liệu này. Các tài liệu sau đã được sử dụng cho nghiên cứu:
 Các văn bản pháp luật, chính sách, quyết định mang tính pháp lý có liên quan;
 Các báo cáo về người DTTS, giới và đánh giá các chương trình trợ giúp pháp lý;

 Các bài viết, tham luận và trình bày về các nội dung bình đẳng giới, người DTTS và dịch
vụ pháp lý;
 Các số liệu thống kê từ các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm 2006 và 2008 và số
liệu từ Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009.
b. Nghiên cứu thực địa
Dựa trên những kết quả rà soát tài liệu, nghiên cứu thực địa đã được tiến hành. Nghiên
cứu thực địa nhằm khẳng định lại các phát hiện từ rà soát tài liệu và tìm kiếm thêm những
thông tin còn thiếu hụt. Cụ thể, nghiên cứu thực địa tập trung vào các sau đây:
- Tìm hiểu nhu cầu dịch vụ pháp của phụ nữ và nam giới DTTS ở vùng nghiên cứu;
- Tìm hiểu việc sử dụng các dịch vụ pháp lý hiện tại của phụ nữ và nam giới DTTS ở vùng
nghiên cứu;
- Đánh giá tác động của việc tiếp cận dịch vụ lên bình đẳng giới (nếu có) tại các vùng
nghiên cứu.
Hai tỉnh Bắc Cạn và An Giang đã được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu thực địa. Hai
tỉnh này có những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội tương đối khác biệt. Bắc Cạn là một
tỉnh miền núi phía bắc với các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh và một số các dân tộc ít
người khác. An Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Cửu Long, có đường biên giới dài
với Cam-pu-chia. Ngoài nhóm người Kinh là nhóm đa số thì ở An Giang có hai nhóm dân tộc
8


thiểu số chính là Khơ Me và người Chăm. Ở mỗi tỉnh, nhóm nghiên cứu chọn một huyện và ở
mỗi huyện chọn hai xã để nghiên cứu sâu. Do người DTTS sinh sống ở các vùng đặc biệt khó
khăn là đối tượng được hưởng trợ giúp miễn phí, nhóm nghiên cứu lựa chọn ở mỗi huyện một
xã thuộc Chương trình 135 và một xã không thuộc Chương trình 135 để có thể so sánh sự
khác nhau giữa hai nhóm xã này. Từ việc rà soát tài liệu cho thấy, việc sử dụng các dịch vụ
pháp lý của người dân nói chung và người DTTS nói riêng vẫn còn hạn chế, nhóm nghiên cứu
chú trọng chọn trong hai tỉnh những huyện đã có các can thiệp cung cấp dịch vụ pháp lý để
tăng khả năng nghiên cứu được những người đã sử dụng dịch vụ. Huyện Chợ Mới tại Bắc Cạn
hiện đang có dự án LARC II do tổ chức CARE hỗ trợ. Dự án thành lập và duy trì hoạt động

của các câu lạc bộ Pháp luật và đời sống dành cho chị em phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo.
Huyện Tri Tôn ở An Giang là một trong hai huyện của tỉnh có trung tâm trợ giúp pháp lý đang
hoạt động.
Tại các điểm thực địa, nhóm nghiên cứu đã áp dụng cả phương pháp định lượng và
định tính trong việc thu thập và xử lý thông tin. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thông qua
bảng hỏi với 500 người dân, với phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên trong những xã/thôn
nghiên cứu. Những người tham gia phỏng vấn bao gồm phụ nữ và nam giới DTTS và phụ nữ
Kinh. Để kiểm chứng thông tin và thu thập thêm các thông tin định tính, nhóm nghiên cứu đã
thực hiện khoảng 40 cuộc phỏng vấn sâu với phụ nữ và nam giới DTTS và phụ nữ Kinh, các
cán bộ các Sở Lao động, thương binh và xã hội, Sở Tư Pháp, Trung Tâm Trợ Giúp Pháp Lý
và chi nhánh trung tâm, cán bộ Hội Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh và huyện, Phòng Tư Pháp huyện,
cộng tác viên trợ giúp pháp lý, lãnh đạo xã, cán bộ tư pháp xã, trưởng thôn và một số người
có uy tín trong địa phương. Nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành 21 cuộc thảo luận nhóm với
tổng số là 100 người thuộc các nhóm cộng đồng khác nhau, bao gồm phụ nữ DTTS, nam giới
DTTS, phụ nữ Kinh và tổ hoà giải cấp thôn. Thông tin chi tiết về những người tham gia
nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1: Những người tham gia nghiên cứu
Phương pháp
Bắc Kạn
Người nhận dịch vụ
Bảng hỏi
253
Phụ nữ DTTS
149
Nam giới DTTS
87
Phụ nữ Kinh
17
Phỏng vấn sâu
5

Phụ nữ Kinh
1
Phụ nữ DTTS
4
Nam giới DTTS
0
Thảo luận nhóm
11 (55 người)
Phụ nữ Kinh
1 (5 người)
Phụ nữ DTTS
6 (35 người)
Nam giới DTTS
4 (20 người)
Người cung cấp dịch vụ
Phỏng vấn sâu
11
Sở và Phòng Lao động thương binh và xã hội
1
Trung tâm và chi nhánh Trợ giúp pháp lý
2
Sở Tư Pháp
2
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh
1
Cán bộ UBND và tư pháp xã
5
Già làng và người có uy tín trong thôn, sóc
Thảo luận nhóm
3 (10 người)

9

An Giang
255
109
93
53
10
1
4
5
6 (32 người)
1 (4 người)
4 (20 người)
2 (8 người)
14
2
2
2
2
4
2
1 (3 người)


4. Hạn chế của nghiên cứu
Một hạn chế rất lớn không chỉ cho nghiên cứu này mà còn cho các nghiên cứu khác về
người DTTS ở Việt Nam là sự hạn chế về thông tin và đặc biệt là các số liệu thống kê chính
thức về người DTTS. Các số liệu thống kê chính thức hiện tại thường không phân tách thành
các nhóm dân tộc mà chỉ tập hợp chung trong một nhóm các dân tộc khác người Kinh và

người Hoa do đó không cho phép phân tích được sự khác biệt giữa các dân tộc. Hơn nữa, các
số liệu hiện có về người DTTS cũng không được phân chia theo giới tính.
Một hạn chế nữa cho việc rà soát tài liệu là sự thiếu vắng các tài liệu, nghiên cứu về
dịch vụ pháp lý, đánh giá tiếp cận dịch vụ pháp lý ở Việt Nam nói chung và trong nhóm
DTTS nói riêng. Các nội dung về giáo dục pháp luật hay trợ giúp pháp lý cho người DTTS
thường chỉ được đề cập sơ sài trong các báo cáo chung về xóa đói giảm nghèo cho người
DTTS. Đối với các báo cáo về dịch vụ pháp lý hay trợ giúp pháp lý thì nội dung tiếp cận và sử
dụng dịch vụ pháp lý của người DTTS cũng không được đề cập thỏa đáng. Hơn nữa, các tài
liệu hiện có vẫn chưa nhìn đến khía cạnh kết quả của việc tiếp cận dịch vụ pháp lý nhằm đạt
được công bằng xã hội, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người DTTS và bình đẳng giới.
Đối với nghiên cứu thực địa, do hạn chế về thời gian và nguồn lực nên không thể tiến
hành nghiên cứu ở nhiều khu vực khác nhau, với nhiều nhóm dân tộc khác nhau và với số
mẫu lớn hơn. Phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến hai vấn đề lớn còn bỏ ngỏ, nhưng lại rất
đặc thù là bình đẳng giới trong người DTTS và tiếp cận dịch vụ pháp lý nhưng nghiên cứu
thực địa lại chỉ được thực hiện ở hai địa phương có tính đặc thù cao như huyện Chợ Mới (Bắc
Cạn) và nhóm dân tộc Khơ Me ở An Giang do đó chưa thể đảm bảo tính đại diện cho cộng
đồng DTTS đa dạng ở Việt Nam. Việc đánh giá về tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý của
phụ nữ DTTS chính vì thế phải dựa chủ yếu vào các nguồn thông tin thứ cấp, mà các nguồn
này cũng bị hạn chế bởi sự lựa chọn có sẵn về các nhóm dân tộc và các vùng địa lý, trong khi
đó, thực trạng bình đẳng giới và tiếp cận dịch vụ pháp lý sẽ khác nhau giữa các dân tộc và các
vùng. Trong tương lai, sẽ cần có nhiều nghiên cứu tiếp tục đánh giá việc tiếp cận dịch vụ pháp
lý của phụ nữ và nam giới DTTS ở các vùng miền và các nhóm DTTS khác nhau.
Do hạn chế về nguồn lực, nhóm nghiên cứu chỉ có thể phỏng vấn 500 người bằng
bảng hỏi. Con số này không đủ lớn để có đủ số người đã sử dụng dịch vụ cần thiết đảm bảo sự
tin cậy về thống kê để đánh giá mức độ hài lòng với dịch vụ hoặc tác động của tiếp cận dịch
vụ lên cuộc sống của người dân. Do vậy, chúng tôi không có đủ bằng chứng thực tế để viết về
hệ quả của việc tiếp cận hoặc không được tiếp cận đến dịch vụ pháp lý lên bình đẳng giới.
Rào cản về ngôn ngữ khiến cho nhóm nghiên cứu trong nhiều trường hợp đã không
thể thảo luận trực tiếp với người dân. Ở An Giang, phần lớn các phỏng vấn bảng hỏi, phỏng
vấn sâu và thảo luận nhóm đều phải thực hiện thông qua phiên dịch. Những kiến thức và ngôn

ngữ phức tạp liên quan đến dịch vụ pháp lý đòi hỏi người phiên dịch cũng phải có hiểu biết
khá đầy đủ về lĩnh vực này. Tuy nhiên, điều này khó có thể đáp ứng được trong điều kiện ở
thực địa. Quá trình làm việc tại thực địa, đoàn nghiên cứu cũng quan sát thấy những khó khăn
khi chuyển ngữ. Điều này chắc chắn đã ảnh hưởng lên cả số lượng lẫn chất lượng thông tin
thu thập được.

10


PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM VÀ
TÌNH HÌNH BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC NHÓM DÂN TỘC THIỂU SỐ
1. Phân bố dân cư và phân loại người DTTS ở Việt Nam
Việt Nam là một đất nước đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Dân tộc Việt
(Kinh) chiếm 87% dân số cả nước. Các nhóm DTTS hiện chiếm khoảng 13% tổng dân số cả
nước, tương đương hơn 10 triệu người thuộc về 53 dân tộc sống tập trung chủ yếu trên các
vùng đồi núi, cao nguyên, chiếm 2/3 diện tích tự nhiện cả nước và trải dài từ Bắc vào Nam.
Các nhóm DTTS rất khác nhau về số dân. Có những nhóm có đông dân cư như Tày, Thái,
Mường, Hoa, Khơ-me, Nùng với dân số của mỗi dân tộc lên đến trên một triệu người, nhưng
cũng có những nhóm người DTTS như Brâu, Romam, O-du…với số dân chỉ hơn 300 người
trên một nhóm. Mỗi nhóm dân tộc đều có nền văn hoá riêng biệt, giàu có và độc đáo. Tín
ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng có điểm khác biệt. Sự khác biệt về văn hóa giữa các
dân tộc cũng tạo nên sự khác biệt trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập trong nền kinh tế
thị trường.
Về phân bố dân cư, người DTTS ở Việt Nam sinh sống chủ yếu ở hai vùng miền núi
phía Bắc và vùng Tây Nguyên, với khoảng 75% tổng số người DTTS sống ở 2 khu vực này.
Hai nhóm DTTS là người Chăm và người Khơ Me sống biệt lập ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Do nhiều lý do, hiện nay, các nhóm người DTTS ở Việt Nam thường sống xen kẽ giữa
các dân tộc trên một địa bàn. Có đến hơn một nửa số huyện ở miền núi phía Bắc có mười
hoặc nhiều hơn nhóm dân tộc đang sinh sống hoặc là cạnh nhau hoặc đan xen nhau trong một
thôn bản. Ngay cả một dân tộc cũng không sinh sống cùng nhau ở một vùng mà rải rác ở các

khu vực khác nhau. Đặc điểm này có đã lâu đời ở các vùng người DTTS ở phía Bắc và đang
dần xuất hiện ở các khu vực khác như Tây Nguyên 7. Sự phân bố rải rác của một nhóm DTTS
trên nhiều địa phương hay đan xen các nhóm DTTS trong cùng một địa bàn cùng với sự đa
dạng về văn hóa, ngôn ngữ và mức độ phát triển giữa các nhóm DTTS ở Việt Nam đang đặt ra
thách thức cho các chính sách ở các địa phương có đông người dân tộc và các chính sách đối
với người DTTS. Các chính sách không những phải quan tâm đến vấn đề người DTTS mà còn
phải quan tâm đến sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc thì mới tránh không tạo ra những bất
bình đẳng vốn đã có.
2. Nghèo đói và các nguyên nhân chính của nghèo đói trong người DTTS
Mặc dù Việt Nam đang đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc xóa đói giảm nghèo
nhưng các kết quả giảm nghèo cũng như tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng
địa lý và các nhóm người. Nghèo đói hiện vẫn đang tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn
so với đô thị (tỉ lệ 6,7% ở thành thị so với 16,1% ở nông thôn), trong các nhóm DTTS so với
nhóm người Kinh và người Hoa. Năm 2008 tỷ lệ nghèo ở các hộ gia đình người Kinh và
người Hoa chỉ là 8,5%, trong khi tỷ lệ này ở các nhóm dân tộc khác bình quân là 49,8% 8.
Những vùng có đông người DTTS như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên hay Bắc Trung Bộ có tỉ lệ
nghèo cao hơn các vùng khác trong cả nước.
Vùng
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
7
8

Tỷ lệ hộ nghèo 2006
(%)
10.1
22.2

39.4
26.6
17.2

Tỷ lệ hộ nghèo 2008
(%)
8.7
20.1
35.9
23.1
14.7

Phân tích xã hội quốc gia – Dân tộc và phát triển ở Việt Nam, Ngân hàng thế giới, 2009
Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008, Tổng cục thống kê

11


Tây Nguyên
24.0
21.0
Đông Nam Bộ
4.6
3.7
Đồng bằng sông Cửu
13.0
11.4
Long
Bảng 2: Tỉ lệ hộ nghèo theo vùng qua các thời kì 2006 – 2008 (Tổng cục Thống kê, dựa trên
kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2006 và 2008)

Số liệu thống kê về nghèo đói hiện nay thường gộp chung tất cả các nhóm người
DTTS để so sánh và đối chiếu với một nhóm xã hội khác là người Kinh và người Hoa. Trên
thực tế, các nhóm DTTS không đồng nhất cả về văn hóa, mức độ phát triển và nghèo đói.
Ngay cả khi các nhóm người DTTS sống trong cùng một địa bàn thì ảnh hưởng của nghèo đói
lên các nhóm cũng khác nhau. Tại Hà Giang, tỉ lệ nghèo đói trong nhóm người H’mông là
42% thì ở người Tày chỉ là 19%. Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 2006 cho thấy nghèo
đói tập trung nhiều hơn trong các nhóm DTTS ở Tây Nguyên và một số nhóm ở miền Bắc,
trong khi đó các nhóm khác như Tày và Mường có mức sống gần như tương đương với người
Kinh9. Hình 2 cho thấy có sự khác biệt lớn về tỉ lệ nghèo trong các nhóm DTTS khác nhau
qua các thời kì. Cách tính toán nghèo đói không phân tách theo dân tộc đang phổ biến hiên
nay không thể hiện được mức độ khác biệt giữa các dân tộc.

Hình 2: Tỉ lệ nghèo khác nhau giữa các nhóm dân tộc10
Về khía cạnh giới, cách thức tính toán nghèo đói theo hộ không cho phép nhìn nhận
khía cạnh giới của nghèo đói. Cho dù sống cùng một hộ gia đình nhưng sự khác biệt về giới
tính và tuổi tác của từng thành viên đang ảnh hưởng đến Tài sản; Khả năng và Tiếng nói của
mỗi thành viên. Ba yếu tố này được Báo cáo Phân tích xã hội quốc gia Dân tộc và Phát triển ở
Việt Nam năm 2009 cho rằng ảnh hưởng rất nhiều lên kết quả giảm nghèo. Phụ nữ và nam
giới DTTS với phân công lao động khác nhau theo giới, với những bất bình đẳng giới vốn có
trong gia đình, chắc chắn có tiếp cận đến tài sản, năng lực và tiếng nói khác nhau, trong đó
phụ nữ DTTS thường ở vị trí bất lợi hơn. Sự khác biệt giới này cũng làm cho việc hưởng thụ
kết quả của các chính sách giảm nghèo hiện nay của phụ nữ và nam giới DTTS không giống
9

Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009
Hình vẽ được sử dụng từ Báo cáo phát triển Việt Nam 2008 – Bảo trợ xã hội, Ngân hàng thế giới, 2007

10

12



nhau. Phân phối lợi ích từ các chương trình giảm nghèo tới hộ gia đình không có nghĩa là tất
cả các thành viên trong gia đình đều được hưởng lợi một cách công bằng. Chính vì vậy, đưa
vấn đề giới vào các chương trình giảm nghèo là điều hết sức cần thiết để đảm bảo xóa đói
giảm nghèo hiệu quả, công bằng và bền vững. Tuy nhiên, trên thực tế các chính sách giảm
nghèo hiện nay vẫn chưa đáp ứng nhiều đến vấn đề giới. Ngay cả chương trình 135 giai đoạn
II là một trong các chương trình chính về giảm nghèo cho người DTTS vẫn chưa có các
nguyên tắc lồng ghép giới trong các bước của chương trình, các mục tiêu và các chỉ số vẫn
chưa nhạy cảm giới.
Các nhóm nguyên nhân chính sau đây đã được đưa ra để lý giải về tình trạng nghèo
đói của người DTTS so với người Kinh:


Ít tiếp cận đến giáo dục và dịch vụ xã hội khác: trẻ em DTTS miền núi thường nhập học
ở các cấp học thấp, muộn hơn so với trẻ em người Kinh và người Hoa cũng như có tỉ lệ bỏ
học cao hơn. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, tỉ lệ dân số trên 15 tuổi trở lên là người
Kinh chưa bao giờ đi học là 3,2% so với các dân tộc khác là 23,3%, đặc biệt với người
Mông và người Khơ Me thì tỉ lệ này cao đến 61,4% và 23,9% 11. Ngôn ngữ là một rào cản
chính đối với người DTTS khi tham gia trong hệ thống giáo dục chủ yếu được thực hiện
bằng tiếng Việt. Trẻ em DTTS đặc biệt các dân tộc không có chữ viết chính thức gặp
nhiều khó khăn khi đi học khi phải sử dụng tiếng Việt như ngôn ngữ chính thức. Một
nghiên cứu của Bộ GDDT tiến hành trong năm học 2007-2008 cho thấy học sinh học lớp
1 tại 40 tỉnh không sử dụng thành thạo tiếng Việt, trong đó có khoảng 70% trẻ em DTTS
không thể hiểu và nói được tiếng Việt trước khi đi học lớp 1 12. Việc thiếu vắng các trường
mầm non và và mẫu giáo để trẻ em DTTS làm quen với tiếng Việt trước khi đi học là rất
phổ biến. Hơn nữa, việc thiếu vắng các chương trình học song ngữ càng làm cho sự
chuyển tiếp từ ngôn ngữ dân tộc mình sang tiếng Kinh trong môi trường học càng khó
khăn. Giáo viên chủ yếu là người Kinh, nhiều người không nói được tiếng dân tộc và chỉ
8% tổng số giáo viên của cả nước13 là người DTTS.

Tiếp cận hạn chế của người DTTS đặc biệt phụ nữ DTTS tới giáo dục dẫn tới khả năng
nói, đọc và viết bằng tiếng Việt của họ bị hạn chế. Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009 cho
thấy tỉ lệ biết chữ của phụ nữ ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên thấp nhất trong cả nước
(72,2% và 84,9%) so với các nhóm nam giới trên toàn quốc hay phụ nữ ở các vùng khác.
Trên thực tế, khả năng giao tiếp được bằng tiếng Việt của người DTTS nhất là phụ nữ
DTTS còn thấp hơn. Trong số hơn 3000 hộ tham gia điều tra nông thôn năm 2008, số hộ
dùng tiếng Việt ở những vùng núi phía bắc như Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên rất thấp,
từ 8,3% (Điện Biên) đến 38,3% (Lào Cai). Không nói được tiếng Việt cùng với các điều
kiện địa lý khó khăn đã góp phần làm hạn chế tiếp cận của người DTTS tới các dịch vụ xã
hội khác. Yếu tố ngôn ngữ, do đó, luôn phải được cân nhắc khi thiết kế hay xây dựng các
chương trình truyền thông, tư vấn hay hỗ trợ cho người DTTS. Báo cáo phân tích tình
hình giới ở Việt Nam của ADB đã xác định vấn đề tụt hậu của phụ nữ và trẻ em gái so với
nam giới DTTS và phụ nữ Kinh và Hoa trong tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và cơ hội
kinh tế là điểm cần chú ý đầu tiên nhằm giúp cho các nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới đi
đúng hướng và đạt hiệu quả14.



Ít các vốn vật chất hơn so với người Kinh: các nhóm DTTS ở Việt Nam sống chủ yếu
bằng nông nghiệp và lâm nghiệp nên đất đai có ý nghĩa vô cùng to lớn. Một thực tế đối

11

Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 – Tổng cục Thống kê, 2009
Trích dẫn trong Báo cáo “What education for the ethnic minorities of Vietnam: Pre-shooling as a partern of
social integration”, Nguyen Van Phu, Aide et Action
13
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009
14
Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á, 2006

12

13


với người DTTS là đất đai đang ngày càng thiếu. Những chính sách về đất đai đã làm phai
nhạt hình thức sở hữu cộng đồng đối với đất đai của người DTTS. Thay vào đó, đất đai
được giao cho các hộ gia đình, cá nhân hoặc các tổ chức khác. Việc giao đất này đã làm
phá vỡ mối tương tác truyền thống trong các cộng đồng người DTTS, đất đai từ được
quản lý theo cộng đồng và không được phép mua bán đã trở thành một mặt hàng được
phép mua bán. Với những khó khăn về kinh tế trong khi mua bán đất trở nên hợp pháp,
việc này dẫn tới tình trạng mua bán đất phổ biến nhất là trong các cộng đồng DTTS ở Tây
Nguyên, với khoảng 5% số người DTTS tham gia đánh giá xã hội quốc gia của Ngân hàng
thế giới năm 2009 cho biết đã từng bán đất. Chưa nói đến việc phá vỡ các quan hệ truyền
thống trong quản lý đất, các hình thức quản lý đất đai mới đã tạo ra những xung đột trong
các cộng đồng người DTTS15. Việc thông tin, hướng dẫn cho người dân trong việc mua
bán đất đai cũng như giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai đang trở thành một
nhu cầu pháp lý lớn trong các công đồng người DTTS.


Điều kiện địa lý xa xôi, khả năng di chuyển hạn chế và khó tiếp cận thị trường: người
DTTS thường sinh sống ở những vùng có điều kiện địa lý khó khăn hơn, khả năng di
chuyển và tiếp cận dịch vụ và thị trường kém hơn. Việc mở rộng hệ thống đường xá, điện
và trường học từ những chương trình giảm nghèo đã làm gia tăng tỉ lệ các hộ gia đình
được tiếp cận hơn với các dịch vụ xã hội, nhưng vẫn còn những nơi đồng bào DTTS sinh
sống vẫn chưa có đường xá và điện đến được. Điều này có tác động đặc biệt lên phụ nữ.
Vừa không nói được tiếng Việt vừa gặp khó khăn về đi lại cộng thêm các quan niệm về
giới, nhiều phụ nữ DTTS sẽ gặp khó khăn khi phải đi khỏi làng bản của mình để đến được
với dịch vụ. Trong hoàn cảnh này, nếu muốn tăng cường tiếp cận dịch vụ xã hội cho phụ
nữ DTTS thì không những chỉ cải thiện hệ thống hạ tầng đường xá để việc đi lại dễ dàng

hơn mà cũng cần phải đưa các dịch vụ đến gần hơn tới phụ nữ DTTS.



Phương thức xây dựng, thực hiện, giám sát và đánh giá các chính sách và chương
trình giảm nghèo chưa hoàn toàn phù hợp với người DTTS: các kết quả và đóng góp
của các chương trình giảm nghèo trong việc cải thiện cuộc sống của người nghèo nói
chung và người DTTS nói riêng là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, trong cách thức
triển khai các chương trình này vẫn còn những điểm chưa hoàn toàn phù hợp với người
DTTS. Sự tham gia của người dân nói chung vẫn còn hạn chế, đặc biệt là của người DTTS
vì các lý do như thiếu thông tin, năng lực của cán bộ còn hạn chế và khả năng nói tiếng
Việt kém của người dân. Do đó dẫn đến tình trạng các hoạt động của dự án không hoàn
toàn phù hợp với mong muốn của người dân, thiếu tính giải trình trong các mục tiêu của
dự án cũng như phân bổ ngân sách16. Mai Thanh Sơn và cộng sự trong một nghiên cứu đã
đưa ra khuyến nghị cho các chương trình/chính sách hướng tới người DTTS phải được
xây dựng trên cơ sở trân trọng sự đa dạng văn hóa của các tộc người và quan tâm tới tri
thức bản địa của người DTTS; nâng cao dân chủ cơ sở, tiếng nói và quyền của người
DTTS; và tăng cường khả năng thích ứng với quá trình hội nhập và phát triển cho các
nhóm thiểu số17.
Mặc dù chưa được nghiên cứu nhiều, nhưng vấn đề định kiến và quan niệm rập khuôn về
người DTTS bắt đầu được nói đến như các yếu tố làm giảm đi hiệu quả của các chương
trình giảm nghèo cho người DTTS. Mặc dù pháp luật Việt Nam thừa nhận sự bình đẳng
giữa các dân tộc, tình trạng định kiến đối với người DTTS còn khá phổ biến trong nhiều
nhóm xã hội khác nhau, với các quan niệm phổ biến về người DTTS là lạc hậu, lười

15

Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009
Nhìn lại quá khứ, đối mặt thách thức – Đánh giá giữa kì Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và
Chương trình 135-II giai đoạn 2006-2008, Bộ LĐTBXH, Ủy ban dân tộc và UN, 2009

17
Bước đầu tổng kết các phương pháp phát triển và tìm kiếm các cơ chế nhằm nâng cao tiếng nói của cộng đồng
dân tộc thiểu số trong quá trình ra quyết định, Mai Thanh Sơn và cộng sự, Nhóm công tác Dân tộc thiểu số, 2007
16

14


biếng… Chính từ quan niệm đó, các chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho người DTTS
nhiều khi thay vì dựa trên những kinh nghiệm và tri thức bản địa của người DTTS lại cố
gắng thay đổi những tập quán của người DTTS. Ví dụ các chương trình khuyến nông dậy
người DTTS canh tác lúa nước – một hình thức canh tác không phải là quen thuộc với
phần đông các nhóm DTTS. Một mặt, điều này dẫn đến hiệu quả thấp cho các chương
trình như vậy, nhưng mặt khác nguy hiểm hơn là nó tạo nên sự phụ thuộc của người
DTTS, làm cho người DTTS thêm thiếu tự tin và thiếu tiếng nói cũng như quyền lực 18.
3. Phụ nữ dân tộc miền núi và tình trạng bình đẳng giới trong các cộng đồng DTTS
Mối quan hệ giới trong các cộng đồng DTTS, mức độ tham gia các hoạt động kinh tế xã hội, phân công lao động giữa phụ nữ và nam giới, sự tiếp cận của mỗi giới tới các nguồn
lực và lợi ích, các quan điểm trong mỗi tộc người về các giá trị và chuẩn mực cho phụ nữ và
nam giới đều bắt nguồn từ văn hóa của mỗi dân tộc. Chính vì vậy, mối quan hệ giới này rất đa
dạng và khác biệt giữa các nhóm cộng đồng. Cho dù có sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc,
một điều thể hiện khá rõ là vẫn còn tồn tại tình trạng bất bình đẳng bên trong các cộng đồng
DTTS, giữa phụ nữ và nam giới trong cùng một nhóm dân tộc, giữa phụ nữ của một nhóm
dân tộc với phụ nữ của một nhóm khác. Tiếp cận tới tài sản, năng lực và tiếng nói của phụ nữ
DTTS khác với nam giới DTTS cùng với các rào cản về ngôn ngữ và văn hóa đang là các
nhân tố chính cho tình trạng bất bình đẳng giới đang tồn tại trong các cộng đồng DTTS 19. Sự
thể hiện của bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực của Luật BĐG như sau:
a. Bình đẳng giới của người DTTS trong lĩnh vực giáo dục
Như đã nói ở phần trên, hiện trạng giáo dục của trẻ em gái DTTS là tỉ lệ bỏ học cao, đi
học muộn, tỉ lệ trẻ em gái DTTS (tuổi từ 15-17) đến trường thấp hơn nhiều so với trẻ em trai,
và thấp hơn nhiều so với trẻ em gái người Kinh/Hoa. Tỉ lệ bỏ học ở trẻ em DTTS cao gấp đôi

tỉ lệ này trong trẻ em Kinh trong đó các nguyên nhân được nêu ra là hệ thống giáo dục mầm
non kém, chưa chuẩn bị tốt để trẻ em DTTS có thể nói được Việt để theo học chương trình
phổ thông20. Trẻ em gái DTTS còn dễ tổn thương hơn trẻ em trai do những quan niệm về giới
về việc học hành của con gái. Ở người H’Mông, tục tảo hôn cũng là một ràng buộc khiến các
em gái phải bỏ học sớm21. Người Cơ-Tu và Hre có tới 30-40% số phụ nữ kết hôn trước tuổi 17
so với 3,5% ở người Kinh và 2,4% ở người Hoa 22. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới thì ba
nhóm Thái, Mông và Dao có tỷ lệ em gái đi học thấp hơn hẳn so với em trai. Chỉ có 31,5%
em gái H’Mông đi học so với 93,4% em gái người Kinh. Ở Dăk Nông, học sinh H’Mông đi
học chỉ toàn là nam23. Trẻ em gái chiếm 70% tổng số trẻ em bỏ học. Trong hoàn cảnh nghèo
khó, mặc dù đã có chính sách miễn giảm học phí nhưng các chi phí khác cho việc học cũng là
gánh nặng kinh tế và trẻ gái sẽ phải nghỉ học trước tiên.
Điều này đã dẫn đến tỉ lệ cao và không đồng đều về dân số không biết chữ trong các
nhóm DTTS, thể hiện ở Bảng 4. Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009, tỉ lệ phụ nữ từ
5 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường ở các tỉnh có đông người DTTS đều cao hơn tỉ lệ của
nam và cao hơn nhiều so với tỉ lệ ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh24.

18

Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng Thế giới, 2009
20
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009
21
Oxfam Hong Kong. 2010. Tổng hợp và đánh giá dự án VTM-90007-01-0910A. Chương trình sinh kế hợp tác
giữa OHK và OGB tại huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông
22
Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ DTTS trong công tác quản lý, Tạp chí dân tộc học 2: 1994, Vũ Đình
Lợi,1994
23

Oxfam Hong Kong. 2010. Tổng hợp và đánh giá dự án VTM-90007-01-0910A. Chương trình sinh kế hợp tác
giữa OHK và OGB tại huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông
24
Kết quả Tổng điều tra dân số 2009, Tổng cục thống kê, 2009
19

15


Bảng 3: tỉ lệ dân cư trên 10 tuổi biết đọc, viết và tỉ lệ dân cư chưa đi học theo dân tộc25

Tỷ lệ dân số 10 tuổi trở lên biết
đọc biết viết (%)
Tỷ lệ dân số nam 10 tuổi trở lên
biết đọc biết viết (%)
Tỷ lệ dân số nữ 10 tuổi trở lên
biết đọc biết viết (%)
Tỷ trọng dân số 15 tuổi trở lên
chưa đi học (%)

Kinh

Tày

Thái

Mường

Khmer


H’Môn
g

Các dân
tộc khác

96,2

94,9

81,9

94,5

75,6

46,0

77,6

97,6

96,6

90,9

96,3

80,9


62,5

84,5

94,9

93,2

73,0

92,6

70,7

29,5

70,6

3,2

4,3

17,8

4,2

23,9

61,4


23,3

b. Bình đẳng giới của người DTTS trong lĩnh vực y tế
Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009 cho thấy một số thông tin về sự khác biệt trong
tình trạng sức khỏe hiện tại của phụ nữ DTTS so với phụ nữ Kinh. Tuổi thọ trung bình của
phụ nữ Kinh cao hơn của các nhóm dân tộc khác ngoài Tày, Thái, Mường, Khmer và H’Mông ở
mức 76,7 tuổi so với 70,9 tuổi, và cao hơn đáng kể so với nhóm phụ nữ H’Mông là 67,5 tuổi.
Liên quan đến các nội dung trong sức khỏe sinh sản, phụ nữ DTTS thường sinh nhiều con hơn
so với phụ nữ người Kinh. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong sơ sinh trong các nhóm DTTS cao hơn rất
nhiều lần so với nhóm người Kinh ở mức 32% so với 12,9% năm 2009. Cá biệt, trong các
nhóm như H’Mông thì tỉ lệ này lên tới 45,5% (Bảng 4).
Bảng 4: Mức sinh và mức chết theo dân tộc26

12,9

H’Mông

2,0
17,
5
23,
4

2,3 2,0 2,0 4,9
22,1 18,4 18,8 37,1

2,7
21,5

27,1 22,2 18,0 45,5


32,0

Khmer

Tày

2,0
16,9

Thái

Kinh

Tổng tỷ suất sinh trong 12 tháng qua (con/phụ nữ)
Tỷ suất sinh thô trong 12 tháng qua
(trẻ sinh sống/1000 dân)
Tỷ suất chết trẻ em < 1 tuổi trong 12 tháng qua (trẻ
dưới 1 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh sống)

Các
dân
tộc
khác

Mường

Mức sinh và mức chết

Theo kết quả nghiên cứu về việc cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh

sản tại 11 tỉnh thuộc dự án hỗ trợ của UNFPA tại Việt Nam cho thấy phụ nữ DTTS ở Hà
Giang (thuộc khu vực Miền núi phía Bắc) có tỉ lệ phụ nữ sinh con tại nhà cao nhất với 46,9%
năm 2005 và cũng chỉ có 58,1% phụ nữ sinh con với sự hỗ trợ của nhân viên y tế. Bên cạnh
đó, Hà Giang cũng là nơi có tỉ lệ các bà mẹ đi khám thai trên 3 lần thấp nhất so với các tỉnh
nằm trong địa bàn nghiên cứu của UNFPA, tỉ lệ này chỉ có 45,2% năm 2005 so với một tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ là Thái Bình có tỉ lệ 97,1% hoặc một tỉnh trung du Bắc Bộ là Phú Thọ là
94,3%27.
Bảng 5: Nơi sinh và người chăm sóc khi sinh theo tỉnh
Tỉnh
Phú Thọ

Nơi sinh
Tại nhà
Tại cơ sở y tế
2003 2005 2003
2005
11
4.1
89
95.9

Người chăm sóc khi sinh con
Nhân viên y tế
Người khác
2003
2005
2003
2005
91.7
98.8

8.3
1.2

25

Tổng điều tra dân số năm 2009, Tổng cục Thống kê, 2009
Tổng điều tra dân số năm 2009, Tổng cục Thống kê, 2009
27
Việc cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại 11 tỉnh thuộc dự án hỗ trợ của UNFPA tại
Việt Nam năm 2006, UNFPA
26

16


Hà Giang
Yên Bái
Hoà Bình
Thái Bình

68
22.6
14.3
0

46.9
12.4
3.1
0


32
77.4
85.7
100

53.1
87.6
96.9
100

42.5
89.8
93.1
100

58.1
92.4
97.4
100

57.5
10.2
6.9
0

41.9
7.6
2.6
0


Nguồn: Báo cáo: việc cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại 11 tỉnh
thuộc dự án hỗ trợ của UNFPA tại Việt Nam năm 2006
Tỉ lệ nhiễm HIV ngày càng gia tăng ở các tỉnh miền núi phía Bắc nơi có đông người
DTTS sinh sống. Theo báo cáo của Cục phòng chống AIDS trong năm 2009, 7/10 tỉnh có tỉ
suất hiện nhiễm trên 100.000 dân cao nhất là các tỉnh thuộc miền núi phía Bắc nơi có đông
người DTTS sinh sống là Điện Biên, Thái Nguyên, Sơn La, Yên Bái, Bắc Cạn, Cao Bằng và
Quảng Ninh với tỉ lệ ở Điện Biên cao nhất là 599 người/100.000 dân. Song song với tình
trạng này là tính dễ tổn thương ngày càng cao của phụ nữ DTTS với lây nhiễm HIV. Mặc dù
phần lớn người nhiễm HIV ở các tỉnh này là nam giới và đường lây chủ yếu là qua tiêm chích
ma túy. Bạn tình của những người này thường không có kiến thức và hiểu biết về tình dục an
toàn, tiếp cận kém đến các dịch vụ sức khỏe tình dục và không có đủ tự tin và kĩ năng cũng
như các rào cản văn hóa để thương thuyết tình dục an toàn.
Về hưởng lợi từ các chương trình y tế, Báo cáo đánh giá xã hội quốc gia chỉ ra rằng
trong khi các nhóm xã hội khác thực sự được hưởng lợi từ chương trình cấp thẻ bảo hiểm y tế
thì phụ nữ DTTS lại không thường xuyên khám chữa bệnh tại các cơ sở của nhà nước vì
những e ngại mang tính văn hóa có liên quan tới giới và khả năng không nói được tiếng Việt
của họ28.
c. Bình đẳng giới của người DTTS trong lao động và việc làm
Người DTTS có ít cơ hội phát triển kinh tế hơn, đặc biệt là phụ nữ. Có 87% phụ nữ
DTTS nông thôn làm nông nghiệp trong gia đình, nhưng họ lại là nhóm ít có khả năng tham
gia vào lao động làm công ăn lương và thường hưởng lương bằng một nửa so với phụ nữ
Kinh và Hoa (15% so với 31%) 29. Hạn chế tiếp cận đến giáo dục là một trong các nguyên
nhân chính dẫn đến việc hạn chế các cơ hội việc làm phi nông nghiệp của phụ nữ DTTS.
Kết quả của Tổng điều tra dân số 2009 cho thấy sự chênh lệch giữa phụ nữ và nam
giới DTTS, ở hầu hết các nhóm dân tộc, tỉ trọng lao động nữ có việc làm vẫn chỉ chiếm dưới
50% trong tổng số lao động đang có việc làm (ở người Kinh là 46,4%, người Tày là 48,3%,
người Thái là 49,1%, người Mường là 48,4% người Khơ Me là 50% và các dân tộc khác
47%)30.
d. Bình đẳng giới của người DTTS trong gia đình và sở hữu đất đai và tài sản
Phân công lao động trong gia đình trong các nhóm DTTS còn mang tính chất phân

biệt theo giới rõ rệt. Các công việc của nam giới thường là những việc “nặng”, yêu cầu “kĩ
thuật” và đòi hỏi phải giao tiếp với bên ngoài trong khi đó, các công việc phụ nữ là những
công việc “nhẹ” hơn và không quan trọng31. Sự phân chia lao động theo giới dựa trên không
gian làm cho nam giới là người thường ra ngoài để tiến hành các công việc mua bán và giao
28

Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009
Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á, 2006
30
Tổng điều tra dân số 2009, Tổng cục thống kê, 2010
31
Báo cáo Theo dõi nghèo phương pháp cùng tham gia tại một số cộng đồng cư dân nông thôn Việt Nam của
Hoàng Xuân Thành và cộng sự năm 2010 và Báo cáo thực địa nghiên cứu trường hợp tại bản Thà Giàng Chải,
xã Tả Ngảo và Bản Pá Bon, xã Chăn Nưa, huyện Sìn Hồ, Tỉnh Lai Châu - Bước đầu tổng kết các phương pháp
phát triển và tìm kiếm các cơ chế nhằm nâng cao tiếng nói của cộng đồng DTTS trong quá trình ra quyết định
do Khúc Thị Thanh Vân và Nguyễn Trung Dũng thực hiện năm 2008 cho Oxfam Hong Kong cho thấy các
công việc của nam giới ví dụ như phát nương, cày cuốc, làm rẫy, cày bừa, phun thuốc sâu, làm nhà, mua bán,
chăn nuôi, các công việc cho phụ nữ như tỉa trồng, cày cáy, chăm sóc mùa vụ sau khi xuống giống, nấu nướng,
chăm sóc con cái và các thành viên trong gia đình hàng ngày và khi ốm đau, lấy củi
29

17


tiếp với người ngoài. Báo cáo Phân tích xã hội quốc gia năm 2009 cho thấy không giống như
người Kinh, đàn ông DTTS đi chợ nhiều hơn phụ nữ DTTS, cho dù việc đi chợ của người
DTTS không nhất thiết phải có mua bán như người Kinh. Một nghiên cứu của Ram bo và
cộng sự về người Kinh, Tày, Thái và H’Mông ở vùng núi phía Bắc cho thấy vai trò vốn có của
nữ giới tại phần lớn các xã hội vùng cao [ở Việt Nam] bị giới hạn và gần như bị gói gọn trong
phạm vi gia đình, hoặc là gia đình nhà mình hoặc nhà chồng sau khi kết hôn với vai trò chăm

sóc gia đình. Danh tiếng xã hội của người phụ nữ trước hết dựa trên thành công mà họ có
được khi đảm đương những vai trò này, đặc biệt là mức độ chăm lo của họ dành cho gia đình
mình32… Các nhóm dân tộc mẫu hệ ở Tây Nguyên cho thấy, mặc dù phụ nữ người Ede,
Mnong, và J’rai có tiếng nói quyết định hơn trong gia đình, phân công lao động giới ở những
cộng đồng này cũng không khác nhiều so với các dân tộc phụ hệ. Phụ nữ Ede thường có trách
nhiệm lo cơm nước, làm việc nhà và chăm sóc những thành viên trong gia đình trong khi lao
động trên nương rẫy được giao cho nam giới. Việc phân công lao động như thế này đã dẫn
đến việc phụ nữ DTTS phải làm việc nhiều hơn và các công việc của họ làm thường không
được công nhận. Phụ nữ Vân Kiều ở Đakrong, Quảng Trị trung bình làm việc từ 10 đến 12
giờ so với nam giới từ 4 đến 5 giờ 33. Một số các nghiên cứu khác như của Rambo ở vùng núi
phía Bắc cũng cho thấy thời gian làm việc của phụ nữ DTTS thường dài hơn so với nam giới.
Nghiên cứu với người Khơ Mú, Thái đen và người Tày năm 2004 của Isabel Fischer và Tina
Beuchelt ở Sơn La và Bắc Cạn cũng cho thấy khi phụ nữ nấu ăn thì nam giới thường nghỉ
ngơi, trong khi phụ nữ làm việc khoảng 14 tiếng/ngày thì nam giới chỉ làm từ 8-10
tiếng/ngày34.
Cùng chung với nam giới DTTS đang bị đe dọa trước các vấn đề mua bán và mất đất
đai do ảnh hưởng của các chính sách đất đai như đã nêu ở trên, phụ nữ DTTS còn phải chịu
những khó khăn do quy định khắt khe về sở hữu tài sản đối với con gái và phụ nữ trong xã hội
truyền thống. Đối với các cộng đồng phụ hệ như miền núi phía Bắc, tất cả các tài sản là do
đàn ông sở hữu, quản lý và định đoạt 35. Những quy định truyền thống về vai trò của người đàn
ông trong việc thờ cúng cha mẹ tổ tiên trong xã hội phụ hệ đã tạo ra sự bất bình đẳng đối với
phụ nữ. Ở các nhóm dân tộc phụ hệ như người H’Mông, Dao, Bru-Vân Kiều thì tài sản trong
gia đình thuộc chủ hộ - chủ yếu là người đàn ông. Điều này lý giải việc ưu tiên con trai. Một
nghiên cứu ở Sa Pa cho thấy người Hmong, Dao và Giáy đều coi trọng việc có con trai bởi
con trai mới có quyền thừa kế tài sản và sẽ giữ tài sản cho gia đình. Nếu không có con trai thì
tài sản sẽ bị chuyển sang con của anh chị em trong gia đình. Bởi vậy, nếu không có con trai,
họ có thể đi xin con trai người khác nuôi hoặc nhận con rể làm con trai 36. Phụ nữ Hmong chỉ
có thể sống nhờ đất nhà chồng và chỉ được coi là lao động phụ trong gia đình mặc dù họ phải
làm việc vất vả trong thời gian dài hơn so với nam giới (Tổng hợp và đánh giá dự án VTM90007-01-0910A của Oxfam Hong Kong). Đối với các xã hội theo mẫu hệ, đất đai và thừa kế
lại được truyền qua con gái trong gia đình, phụ nữ có địa vị cao hơn, ví dụ như trong các cộng

đồng người Ede hay Mnong ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, các nét văn hóa của các cộng đồng
này đang dần bị thách thức bởi các chính sách hay thói quen và thái độ của cán bộ địa phương
(chủ yếu là người Kinh và theo phụ hệ) trong việc chưa quen thừa nhận vai trò chủ hộ và
quyền sở hữu đất đai của phụ nữ37. Việc sở hữu tài sản có mối liên hệ đặc biệt tới vai trò và
32

Rambo, Terry. Trần Đức Viên, Phạm Tiến Dũng, Nguyễn Thanh Lâm và Nguyễn Thị Bích Yến, Vùng núi phía
Bắc Việt Nam: Một số vấn đề môi trường và kinh tế - xã hội, Chương 6: Tổ chức xã hội, NXB Chính Trị Quốc
Gia. East-West Center, 2001
33
Lê, Kim Lan, Phân công lao động giới trong sản xuất của người Bru Vân Kiều, huyện D’krong, Quảng Trị.
Khoa Học Về Phụ Nữ, 2005
34
Fischer, I và Beuchelt, T., Make natural resources last by changing women’s access to assets – experiences
from northern Vietnam. Trình bày tại Hội nghị quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp cho phát triển, StuttgartHohenheim, Germany, 10/2005 tải về từ />35
Như trên
36
Nguyễn Thị Thanh Tâm, Một số nét về bình đẳng giới ở các DTTS (qua khảo sát một số địa bàn tại Sa Pa).
Tạp chí Nghiên cứu giới và gia đình số 2. 2006. Viện Gia đình và giới, 2006
37
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009

18


địa vị trong gia đình. Phổ biến là người sở hữu tài sản sẽ là người có quyền quyết định, được
tiếp cận tới vốn và các khóa học về kĩ thuật. Điều này đã được chỉ ra trong báo cáo của Hoàng
Bá Thịnh hay báo cáo của Mai Thanh Sơn và cộng sự và báo cáo của Lê Thị Lý cho thấy nam
giới đi vay vốn hay tham gia các lớp tập huấn khuyến nông nhiều hơn, đặc biệt sau khi có
chính sách giao đất giao rừng cho người dân.

Chính sách đưa cả tên vợ và chồng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bắt đầu
được thực hiện nhưng kết quả còn vẫn rất khiêm tốn. Theo báo cáo nghiên cứu Đặc điểm kinh
tế nông thôn Việt Nam – kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2008 tại 12 tỉnh thì thấy
số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đăng ký tên cả vợ và chồng (năm 2006-2008), tại
Lai Châu chỉ có 32%, Lào Cai là 27% và Đắc Lắc là 17%. Đây cũng là 3 tỉnh có số chủ hộ là
người DTTS tham gia nghiên cứu nhiều nhất với Lào Cai là 75,5%, Lai Châu là 85,9%, Đắc
Lắc là 36,4%38 (trong tổng số hơn 3000 hộ tham gia nghiên cứu). Đối với đất nông nghiệp,
trong khi 36% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người Kinh/Hoa được cả phụ nữ và
nam giới đứng tên, thì con số này ở người dân tộc thiểu số là 21%. Tỉ lệ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với đất ở không có tên cả vợ lẫn chồng trong các nhóm DTTS là 77%.
Tuy nhiên, một số báo cáo cũng ghi nhận việc ngay cả khi có tên trong sổ đỏ, nhiều phụ nữ
DTTS vẫn chưa thể tận dụng được cơ hội này do sự phụ thuộc vào nam giới vốn đã rất lớn
của họ hay tâm lý thiếu tự tin của họ39.
Tình trạng bạo lực gia đình được nêu lên ở mức độ đáng báo động trên cả nước. Theo
một nghiên cứu của Hội LHPN Việt Nam thực hiện ở 3 tỉnh là Thái Bình, Lạng Sơn và Tiền
Giang thì có đến 40% phụ nữ nói đã từng bị chồng đánh (Hội LHPNVN 2006, trích dẫn trong
Tin tức Việt Nam 13/3/2006 HLHPNVN ngăn chặn bạo lực gia đình) 40. Kết quả cuộc điều tra
về gia đình công bố năm 2008 cũng phản ánh, ở Việt Nam có tới 21,2% các cặp vợ chồng đã
từng trải qua một dạng bạo lực gia đình nào đó như đánh đập, nhục mạ hay cưỡng ép tình dục.
Báo cáo cũng nêu lên say rượu và áp lực kinh tế, ý kiến khác nhau trong làm ăn và sinh hoạt
là các nguyên nhân chính cho bạo lực gia đình. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có các nghiên
cứu đầy đủ về mức độ cũng như hình thức bạo lực gia đình trong các gia đình đồng bào DTTS
cho dù có những ý kiến cho rằng tình trạng bạo lực gia đình cao ở đây do tình trạng nghèo đói
cũng như các quan niệm về giới còn nặng về trọng nam và khinh nữ.
e. Các lĩnh vực khác
Các số liệu thống kê trong các lĩnh vực như văn hóa, thể thao, thông tin, khoa học –
công nghệ chưa được thực hiện đầy đủ và không tách biệt theo giới chứ chưa nói đến việc
phân chia theo dân tộc. Chính vì vậy, khó có thể đưa ra một đánh giá về thực trạng bình đẳng
nam – nữ của người DTTS trong các lĩnh vực này41. Đây cũng là một thách thức cần phải vượt
qua để có thể đánh giá được thực trạng bình đẳng giới trong các cộng đồng người DTTS.

Trong tương lai, hy vọng thách thức này sẽ được giải quyết nếu Quyết định số 43/2010/QĐTTg ngày 02/06/2010 Về Ban hành hệ thống chỉ tiêu quốc gia yêu cầu thu thập thông tin
thống kê phân chia theo giới tính và dân tộc được triển khai có hiệu quả.
f. Phụ nữ DTTS như những chủ thể phát triển và nhìn nhận vấn đề giới trong các cộng
đồng DTTS
Bên cạnh những phân tích về tình trạng bất bình đẳng so với nam giới trong cùng dân
tộc hay phụ nữ thuộc nhóm dân tộc đa số người Kinh hoặc so với một số dân tộc khác, một số
nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ DTTS có nội lực, nhiều tiềm năng để tự phát triển và phát
triển cộng đồng và địa phương họ. Nghiên cứu của Lê Kim Lan về người Bru Vân Kiều cho
38

Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009.
Các tài liệu dự án của Oxfam Hong Kong hay loạt báo cáo chương trình CASI của CARE.
40
Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á, 2006
41
Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2009
39

19


thấy đóng góp của phụ nữ Bru-Vân Kiều vào thu nhập gia đình cao hơn nam giới phù
hợp với mức độ đóng góp về hạng mục công việc và thời gian của nam và nữ. Phụ nữ
Bru-Vân Kiều phụ trách hầu hết mọi khâu từ chọn giống, chăm bón đến thu hoạch trong
việc trồng cây hoa màu và cây ăn quả, và trong chăn nuôi 42. Nghiên cứu của Dương Bích
Hạnh với nữ thanh niên H’Mông ở Sapa cũng cho thấy những nữ thanh niên này đã tham
gia tích cực vào thị trường du lịch ở Sapa, đóng góp vào kinh tế cho gia đình, thậm chí
trở thành độc lập về kinh tế - điều chưa từng có với phụ nữ Hmong. Những người phụ
nữ Hmong ở Sapa đã trở thành những người đóng góp chủ chốt cho kinh tế. Những nữ
thanh niên này đã thách thức những vai trò giới truyền thống trong cộng đồng của họ

cũng như làm thay đổi quan niệm của người dân địa phương và khách du lịch đến Sapa
về người phụ nữ DTTS. Sự thay đổi trong vai trò giới này đã dẫn theo những sự thay
đổi khác trong xã hội, ví dụ có sự phân khúc trong quy trình sản xuất hàng thủ công, hay
phát triển những lao động làm thuê, làm các công việc gia đình hay đồng áng thay cho
những người phụ nữ Hmong đang tham gia trong thị trường du lịch 43. Do đó, các nỗ lực
hướng tới phụ nữ DTTS không nên chỉ coi họ là những nạn nhân cần hỗ trợ mà ngược
lại cần trân trọng và tạo điều kiện để phát huy kiến thức và tri thức bản địa của họ.
Các tộc người ở Việt Nam rất đa dạng và khác nhau về văn hóa, phong tục tập quán và
các điều kiện kinh tế xã hội và cả mối quan hệ giới. Trong mỗi cộng đồng, cách thức phân
công trách nhiệm giữa phụ nữ và nam giới trong gia đình và xã hội, các giá trị và mong đợi
đối với phụ nữ và nam giới… trong một cộng đồng - tất cả đều có căn nguyên sâu xa từ văn
hóa và là một phần của văn hóa. Để đảm bảo công bằng và bình đẳng giới, cần phải hiểu rõ
mối quan hệ giới và các vai trò giới truyền thống ở mỗi tộc người và để chính cộng đồng xác
định thế nào là bình đẳng giới đối với họ và làm gì để đạt điều đó chứ không thể áp dụng các
hiểu biết về mối quan hệ giới của cộng đồng đa số người Kinh cho các nhóm DTTS. Các
chính sách và chương trình thúc đẩy BĐG đối với người DTTS vì thế cũng cần tính đến sự đa
dạng giữa các dân tộc.
4. Quản lý xã hội và luật tục của người DTTS
Mặc dù đa dạng và không giống nhau nhưng các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt
Nam có một nét chung là mỗi cộng đồng đều có hệ thống luật tục điều chỉnh các mối quan hệ
trong cộng đồng. Những người lớn tuổi trong làng hay các già làng là những người nắm vững
các luật tục và có uy tín, thường đóng vai trò dẫn dắt cộng đồng và ra các quyết định trong
cuộc sống kinh tế - xã hội của làng bản, tuy nhiên, cũng không phải ở cộng đồng nào người
già cũng đóng vai trò này.
Luật tục thể hiện các hệ thống giá trị và niềm tin của mỗi cộng đồng và quy định các
hoạt động trong các lĩnh vực của cuộc sống, bao gồm các nghi thức cưới xin, ma chay, các
nghi thức cúng lễ, các cách giải quyết mâu thuẫn hay xung đột… Theo Từ điển Luật học, luật
tục là tập tục, phong tục tập quán của một cộng đồng, được hình thành tự phát và được các
thành viên trong cộng đồng chấp nhận, tuân theo trong quan hệ với nhau. Luật tục thể hiện
bao quát, phong phú các mối quan hệ xã hội truyền thống, ít thay đổi và hiện nay vẫn giữ một

vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, kể cả ở nhiều nước phát triển. PGS, TS. Ngô Đức
Thịnh (Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hoá dân gian) sau nhiều năm nghiên cứu về luật tục
đã khái quát về luật tục như sau: “Luật tục là một hình thức của tri thức bản địa, được hình
thành trong lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội, được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời này qua đời khác bằng trí nhớ qua thực
hành sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn quan hệ xã hội, quan hệ
con người với thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy của cả cộng đồng thừa nhận và thực hiện,
42

Lê, Kim Lan. 2005. Phân công lao động giới trong sản xuất của người Bru Vân Kiều, huyện D’krong, Quảng
Trị. Khoa Học Về Phụ Nữ 5:2005.
43
The Hmong Girls of Sa Pa: Local Places, Global Trajectories, Hybrid Identities, Dương Bích Hạnh, 2006

20


nhờ đó đã tạo ra sự thống nhất và cân bằng trong mỗi cộng đồng ”44. Luật tục dựa nhiều trên
sự tự giác, tự nguyện của mỗi thành viên trong cộng đồng và chứa đựng bản sắc văn hoá
độc đáo của mỗi tộc người.
Luật tục, ở một phạm vi nhất định cũng có vai trò, giá trị xã hội quan trọng như pháp
luật: đó là điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì và ổn định một trật tự xã hội của cộng
đồng45. Trong các cộng đồng người DTTS, nơi các giá trị cộng đồng vẫn được trân trọng thì
vai trò của luật tục trong đời sống xã hội rất cao. Luật tục có tính quy phạm và cưỡng chế cao
nhưng lại mang tính tự nguyện và răn đe nhiều hơn là trừng phạt, nên nó có thể đóng vai trò
bổ sung cho hệ thống pháp luật, đặc biệt khi các quy định của pháp luật đôi khi là phức tạp và
không gần gũi với các cộng đồng DTTS. Ở một khía cạnh nhất định việc áp dụng luật tục sẽ
vừa phần nào đảm bảo thỏa mãn được yêu cầu trân trọng sự đa dạng văn hóa và tri thức bản
địa của từng tộc người. Trên thực tế, luật tục vẫn được sử dụng ở nhiều cộng đồng DTTS.
Một nghiên cứu với 90 phụ nữ Ê Đê cho thấy có đến 55 người hiểu rõ về luật tục, đặc biệt

là các quy định liên quan đến hôn nhân gia đình. Ngay cả ở những nơi mà người Ê Đê và
người Kinh sống xen kẽ nhau thì hầu hết các bất hòa hay phân chia tài sản trong gia đình
đều được giải quyết bằng luật tục. Hầu hết phụ nữ trong nghiên cứu đều cho là người Ê Đê
nên sử dụng luật tục để phân xử 46.
Một điểm khác cũng đáng chú ý là luật tục mang tính phổ biến trong phạm vi một tộc
người nhất định và có thể thay đổi cho phù hợp với bối cảnh. Do đó, khả năng song hành của
luật tục với luật pháp để cùng hướng tới mục đích công bằng và trật tự xã hội đặt ra vấn
đề phải nhìn nhận vai trò của luật tục trong đời sống của người DTTS và tính đến luật tục
trong quá trình ra các chính sách hay xem xét khả năng sử dụng luật tục để quản lý cộng
đồng một cách chính thức.
Tuy nhiên, không phải lúc nào luật tục cũng hoàn toàn thống nhất với luật pháp và
đảm bảo tính bình đẳng. Ví dụ một số dân tộc như người Chăm hoặc người Raglai ở
Khánh Hòa có các hình thức xét xử truyền thống không dựa trên các quy định của luật
pháp. Khi có tranh chấp hay xung đột, nếu không hòa giải được bằng trao đổi thì sẽ sử
dụng các phép thử để phân định người nào mắc tội. Các phép thử như đốt thanh chì xem
thanh chì chảy về phía ai thì người đó là người có tội, hay hai người có mâu thuẫn phải
nhúng tay vào nồi nước sôi, ai bị bỏng tay là người có tội (người Raglai) hay thi lặn và ai
ngoi lên trước là người phạm tôi. Đôi khi, một số tội danh theo luật tục là rất nặng nề và
sẽ bị xử nặng như việc có con trước khi cưới, trong khi đó, việc này theo luật pháp lại
không phải là một tội. Một số nghiên cứu cho thấy luật tục của các dân tộc đều có các quy
định điều chỉnh mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới trong gia đình và ngoài xã hội. Có
những luật tục quy định những ưu tiên cho người nam, ví dụ luật của người Thái Mường
Tấc quy định nếu một người con gái đang yêu một người nam mà muốn bỏ anh ta để yêu
một người khác thì phải đền danh dự cho người yêu cũ, tìm cho anh ta người yêu mới và
phải tạ tội với gia đình anh ta nếu gia đình hai bên đã biết về mối quan hệ của hai người.
Nếu không tạ tội, không chỉ cô gái mà cả gia đình còn bị khinh bỉ, xa lánh (TS Hoàng
Lương, Phong tục trong hôn nhân và gia đình của người Thái Mường tấc Phù Yên, Sơn
La). Ngược lại, đối với dân tộc Ê Đê ở Tây Nguyên thì tiếng nói của phụ nữ lại vô cùng
quan trọng. Trong các tranh chấp, nhất là những vụ kiện không có chứng cứ rõ ràng như
khi phụ nữ bị ruồng bỏ, hay phân chia tài sản thì những gì phụ nữ khai đều được coi là

44

Luật tục với thi hành pháp luật, Nguyễn Chí Dũng, Bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 52,
tháng 5/2005 tải về từ />ngày 5/8/2010
45
Giá trị của Luật tục từ góc nhìn pháp lý, TS Nguyễn Thị Việt Hương, Kỉ yếu Hội thảo Việt Nam học lần thứ 3,
Việt Nam – Hội nhập và phát triển, 2008
46
Thu Nhung Mlô, Luật tục với phụ nữ Ê Đê xưa và nay, tham luận trong Luật tục và phát triển nông thôn
hiện nay ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian, Nhà Xuất bản chính trị quốc gia, 2000

21


đúng sự thực (Thu Nhung Mlô, Luật tục với phụ nữ Ê Đê xưa và nay). Những nghiên cứu
về những quy định của luật tục có liên quan đến vai trò, trách nhiệm và quyền của phụ nữ
của các nhóm DTTS xem mức độ khác biệt đến đâu so với pháp luật và liệu duy trì các
luật tục như vậy trong các ứng xử hàng ngày sẽ có thể dẫn đến các hậu quả pháp lý liên
quan tới quyền và nghĩa vụ của phụ nữ DTTS đến đâu hiện vẫn còn thiếu. Những nghiên
cứu như vậy sẽ rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh luật tục vẫn còn được áp
dụng khá phổ biến trong các cộng đồng người DTTS.

22


PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA
PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ QUA RÀ SOÁT TÀI LIỆU
1. Các loại hình dịch vụ pháp lý hiện có ở Việt Nam
Dịch vụ pháp lý là các hoạt động nhằm giúp người dân được thông tin, hướng dẫn và
hỗ trợ để hành xử đúng pháp luật và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của công dân.

Nếu nhìn nhận theo phí dịch vụ thì dịch vụ pháp lý ở Việt Nam được chia làm 2 loại:
Không thu phí bao gồm các dịch vụ trợ giúp pháp lý cung cấp cho một số nhóm xã
hội trong đó có cả người DTTS thường trú tại các vùng khó khăn. Dịch vụ này
thường do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước (cấp tỉnh) hay các chi nhánh Trợ
giúp pháp lý (cấp huyện) cung cấp hay các tổ chức quần chúng, chính trị - xã hội
cung cấp miễn phí cho thành viên của mình. Ngoài ra, một số công ty luật và luật
sư cũng cung cấp tư vấn miễn phí hoặc giảm phí cho khách hàng (theo chính sách
riêng của từng công ty hoặc cá nhân). Bên cạnh đó, câu lạc bộ trợ giúp pháp lý,
hoạt động trợ giúp pháp lý của các tổ chức quần chúng (Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh…) cũng đang tham gia tích cực vào
việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí cho nhiều nhóm đối tượng (phụ nữ,
người dân tộc thiểu số, người nghèo…).
Có thu phí bao gồm các dịch vụ do các công ty luật, luật sư, văn phòng luật sư,
trung tâm tư vấn pháp luật… thực hiện
Các hình thức của dịch vụ pháp lý hiện tại đang được sử dụng đó là (a) tư vấn pháp
luật, (b) tham gia tố tụng, (c) đại diện ngoài tố tụng, và (d) các dịch vụ pháp lý khác. Bốn loại
hình dịch vụ này là các loại hình dịch vụ mà luật sư được phép thực hiện theo Luật Luật sư.
Với hình thức tư vấn pháp luật, luật sư hành nghề và cộng tác viên tư vấn pháp luật là những
chủ thể được phép thực hiện.
Nhìn nhận theo chủ thể cung cấp dịch vụ, thì có các loại hình dịch vụ pháp lý như sau:
a. Luật sư (hành nghề với tư cách cá nhân)
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật
sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (khách hàng). Tiêu
chuẩn để có thể hành nghề luật sư là Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ đảm bảo hành nghề luật
sư thì có thể trở thành luật sư. Người có đủ tiêu chuẩn này muốn được hành nghề luật sư phải
có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư47.
Theo thông tin của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, tổng số luật sư hiện có là 5.076 người
với 1.516 nữ và 3.560 nam. Trong tổng số luật sư thì có 20 luật sư là người DTTS và 16 luật

sư không xác định dân tộc48. Hầu hết các tỉnh đều đã có các đoàn luật sư, tuy nhiên, hoạt động
mạnh nhất vẫn là hai Đoàn luật sư ở hai thành phố lớn là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh. Các tỉnh chưa có đoàn Luật sư là các tỉnh có điều kiện khó khăn và có đông đồng
bào DTTS như Lai Châu, Điện Biên…

47
48

Luật Luật sư 2006 -Điều 2,3,4, 10 và 11.
tải về ngày 5/8/2010

23


b. Tổ chức hành nghề luật sư (các công ty và chi nhánh luật và văn phòng luật sư)
Hiện có 1.718 công ty và chi nhánh luật và văn phòng luật sư trong cả nước 49, tập
trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Trong khi Hà Nội có 430 công ty luật và văn phòng luật sư
hay thành phố Hồ Chí Minh có 755 văn phòng và công ty thì các tỉnh miền núi phía Bắc có
đông đồng bào DTTS như Lai Châu hay Điện Biên không có công ty luật hay văn phòng luật
sư nào.
c. Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư
cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Biên chế và kinh phí hoạt động của
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương quyết định. Theo số liệu thống kê của Cục TGPL, đến cuối năm 2009, toàn quốc có 117
Chi nhánh, 365 Tổ TGPL và 4.005 Câu lạc bộ TGPL; 63 Trung tâm TGPL có 746 cán bộ
trong đó có 206 người đã được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý.
Trong toàn quốc đã có trên 150 Văn phòng luật sư và 60/85 Trung tâm tư vấn pháp luật đăng
ký tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý.
Về kết quả hoạt động trợ giúp pháp lý, đến ngày 30/11/2009, các Trung tâm TGPL

trong toàn quốc đã thực hiện TGPL được 101.913 vụ việc, tăng 9,4% số vụ việc so với năm
2008; trong đó tư vấn 87.447 vụ, đại diện 1.005 vụ, bào chữa 4.484 vụ, đại diện ngoài tố tụng
1.190 vụ, hình thức khác: 823 vụ. Số người được trợ giúp pháp lý năm 2009 là 92.967 (người
nghèo 25.962 người, chính sách 12.904, dân tộc 25.853, trẻ em 4.495, người già: 1.812; người
tàn tật: 506, đối tượng khác 21.435 người) thuộc các lĩnh vực pháp luật về hình sự, dân sự,
hôn nhân gia đình, hành chính, khiếu nại, tố cáo, đất đai, nhà ở, chế độ chính sách… 50. Nhóm
người DTTS sống ở các vùng đặc biệt khó khăn là một trong những nhóm được hưởng chính
sách trợ giúp pháp lý của Nhà nước.
Ngoài các hoạt động tố tụng, Trợ giúp pháp lý còn được thực hiện qua các hoạt động
khác như Trợ giúp pháp lý lưu động đang trở thành một hình thức ngày càng phổ biến trong
trợ giúp pháp lý, đặc biệt ở các vùng nông thôn và xa xôi, hẻo lánh. Cũng giống như các câu
lạc bộ trợ giúp pháp lý, trợ giúp lưu động kết hợp giữa tư vấn và phổ biến pháp luật. Một hình
thức hoạt động bổ ích trong các đợt trợ giúp lưu động là các buổi nói chuyện pháp luật về
những chủ đề mà người dân địa phương quan tâm. Qua những buổi nói chuyện đó, người dân
có thể được biết về các quyền của mình, nhận thức được những vi phạm đối với quyền của họ
và yêu cầu trợ giúp pháp lý.
Câu lạc bộ (CLB) trợ giúp pháp lý (TGPL): Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã là “những tổ
chức cộng đồng cung cấp trợ giúp pháp lý cho người dân trong xã qua việc phổ biến kiến
thức pháp luật, tư vấn pháp luật và hoà giải. Đây là những tổ chức tự nguyện, bao gồm
những cá nhân có hiểu biết và được tôn trọng ở xã. Trung Tâm TGPL là đơn vị khởi xướng
việc thành lập câu lạc bộ, sau đó Giám đốc Sở Tư Pháp và Chủ tịch UBND xã công nhận một
cách chính thức” (Ralf Otto, 2006). Theo số liệu thống kê của Cục TGPL, đến nay, toàn quốc
có 4.005 Câu lạc bộ TGPL. Chương trình 135 giai đoan II đã xây dựng được 1.570 Câu lạc bộ
trợ giúp pháp lý tại các xã thuộc Chương trình này bằng các nguồn kinh phí hỗ trợ từ Chương
trình và từ Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam.
d. Trung tâm tư vấn pháp luật
49

Số liệu lấy từ trang web của Liên đoàn Luật Việt Nam tải ngày 5/8/2010
/>50

Năm 2009: Hệ thống trợ giúp pháp lý cả nước tiếp tục được củng cố, kiện toàn,
/>tải về ngày 5/8/2010

24


×