Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.66 KB, 124 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều được chỉ
rõ nguồn gốc. Đồng thời tôi xin cam đoan rằng trong quá trình thực hiện đề
tài này tại địa phương tôi luôn chấp hành đúng mọi quy định của địa phương
nơi thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hải Yến
i
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian thực tập tốt nghiệp tốt nghiệp, để hoàn thành Khóa
luận tốt nghiệp này ngoài sự cố gắng của bản thân tôi đã nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình về nhiều mặt của các tổ chức và các cá nhân trong và ngoài
trường.
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ban giám hiệu
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Khoa Kinh tế và PTNT, Bộ môn Phát
triển nông thôn và các thầy, cô giáo đã tạo đã trang bị cho tôi những kiến thức
và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành Khóa luận này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo PGS.TS.
Nguyễn Thị Minh Hiền, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Khóa luận.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo UBND xã Đồng
Tuyển, các bác, các chú, các anh, chị trong UBND xã, và các hộ gia đình
trong xã Đồng Tuyển đã tạo điều kiện, giúp đỡ, cung cấp số liệu báo cáo, tư
liệu khách quan và nói lên những suy nghĩ của mình để giúp tôi hoàn thành
Khóa luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã ủng hộ và giúp
đỡ tôi nhiệt tình trong quá trình học tập và nghiên cứu của mình.


Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Thị Hải Yến
ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Phụ nữ DTTS nước ta là những chủ nhân của đất nước, có tiềm năng
lớn tác động trực tiếp đến sự phát triển ngay trên chính quê hương họ. Nhưng
thực trạng hiện nay cho thấy vấn đề việc làm, thu nhập, địa vị của người phụ
nữ là những vấn đề bức xúc đối với phụ nữ DTTS. Xuất phát từ thực tế đó,
chúng tôi tìm hiểu về “Vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển
kinh tế hộ gia đình tại xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”.
Gồm 3 mục tiêu nghiên cứu: 1) Góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận và
thực tiễn về vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia
đình; 2) Đánh giá thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát
triển kinh tế hộ gia đình, qua đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò
của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Đồng Tuyển trong thời gian
qua; 3) Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc
thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn trong thời gian tới.
Phương pháp tiếp cận được sử dụng trong đề tài là tiếp cận giới, tiếp
cận dân tộc và tiếp cận nhóm hộ. Sách báo, luận văn, internet và các báo cáo
ở xã là nguồn cung cấp các thông tin thứ cấp chủ yếu. Thông tin sơ cấp được
thu thập với 80 hộ điều tra thuộc 3 dân tộc Giáy, Dao, Kinh thông qua bảng
hỏi, phỏng vấn KIP cán bộ xã, cán bộ Hội phụ nữ xã và thảo luận nhóm. Số
liệu sau khi thu thập được xử lý thủ công và phần mềm Microsolf Excel và
được phân tích bằng phương pháp thống kê mô tả và thống kê so sánh.
Qua tìm hiểu ở xã Đồng Tuyển cho thấy, vai trò của phụ nữ dân tộc
thiểu số chưa được đề cao. Phụ nữ là lao động chính tham gia các khâu trong

trồng trọt, chăn nuôi và tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên việc tiếp cận nguồn
lực sản xuất còn có nhiều khó khăn. Chỉ có 6,25% Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có tên cả vợ và chồng. Nguồn vốn chủ yếu là đi vay ở ngân hàng
nhưng phải có sự đồng ý của chủ hộ (thường là nam giới). Về việc tiếp cận,
iii
quản lý và sử dụng nguồn tài chính trong gia đình thì chủ yếu là thuộc về
người chồng, đặc biệt trong những việc lớn thì người chồng là người có quyết
định cuối cùng quan trọng nhất.
Những công việc gia đình dường như là dành riêng cho phụ nữ, họ
cũng đã nhận được sự giúp đỡ từ chồng nhưng vẫn còn hạn chế. Phụ nữ dân
tộc thiểu số ở xã cũng đã tham gia nhiều hơn vào các tổ chức đoàn thể nhưng
còn ở vị trí thứ yếu, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Hội phụ nữ là khá lớn Thời
gian làm việc của phụ nữ trong một ngày nhiều hơn nam giới (trung bình là
13,1 giờ/ngày) và phụ nữ dân tộc Giáy, Dao làm nhiều thời gian hơn phụ nữ
dân tộc Kinh (thời gian làm việc/ngày của phụ nữ dân tộc Giáy, Dao và Kinh
lần lượt là 13,6 giờ/ngày, 13,5 giờ/ngày và 12,2 giờ/ngày). Mặc dù phụ nữ
làm nhiều việc hơn và đóng góp nhiều sức lực hơn cho gia đình nhưng người
chồng lại là người đóng góp nhiều tiền nhất vào thu nhập gia đình.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong
phát triển kinh tế gia đình như quan niệm của xã hội vẫn còn có định kiến
giới, khả năng tiếp cận thông tin còn thấp, sự giúp đỡ của chồng còn hạn chế,
trình độ của chị em còn hạn chế… và đặc biệt là ý thức về vai trò của bản
thân của nhiều chị em vẫn chưa cao.
Để nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế
gia đình, cần thực hiện tốt các giải pháp như xóa bỏ tư tưởng, quan niệm cổ
hủ, định kiến giới, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin, nâng cao trình độ
cho phụ nữ dân tộc thiểu số… và đặc biệt là mỗi chị em phụ nữ cần nâng cao
trình độ của bản thân, tiếp thu những kiến thức mới để từ đó chị em tự tin vào
bản thân, phát huy hết khả năng của mình, đóng góp vào sự phát triển của gia
đình và xã hội. Nâng cao vai trò của phụ nữ, đặc biệt phụ nữ dân tộc thiểu số

trong gia đình và ngoài xã hội là việc làm cần thiết trong xã hội ngày càng
hiện đại.
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN iii
MỤC LỤC v
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HỘP viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ix
PHẦN I MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1 Mục tiêu chung 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 4
PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
2.1 Cơ sở lý luận 5
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản 5
2.1.2 Vai trò giới 9
2.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò giới 11
2.1.4 Các cách tiếp cận trong nghiên cứu giới và phụ nữ 14
2.2 Cơ sở thực tiễn 16
2.2.1 Vai trò của phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên thế giới 16
2.2.2 Vai trò của phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam 17
2.2.3 Kinh nghiệm trong phát huy vai trò của phụ nữ DTTS trên thế giới 19
2.2.4 Kinh nghiệm trong phát huy vai trò của phụ nữ DTTS ở Việt Nam 20

2.2.5 Những chính sách trong phát triển phụ nữ DTTS ở Việt Nam 23
2.2.6 Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của một số DTTS (dân tộc Giáy, Dao) 26
2.3 Các nghiên cứu có liên quan 31
PHẦN III ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 34
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên 34
3.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội 37
3.2 Phương pháp nghiên cứu 45
3.2.1 Phương pháp tiếp cận 45
v
3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin 45
3.2.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 47
3.2.4 Các chỉ tiêu nghiên cứu 47
PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 48
4.1 Thực trạng vai trò của phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế hộ gia đình 48
4.1.1 Thông tin chung về hộ điều tra 48
4.1.2 Phụ nữ DTTS đối với vai trò sản xuất 55
4.1.3 Phụ nữ DTTS đối với vai trò tái sản xuất 70
4.1.4 Phụ nữ DTTS đối với vai trò cộng đồng 75
4.1.5 Sự đóng góp vào thu nhập gia đình và thời gian làm việc trong ngày của các hộ điều tra 82
4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế hộ gia đình 85
4.2.1 Nhóm nhân tố bên ngoài 85
4.2.2 Nhóm nhân tố bản thân phụ nữ 88
4.3 Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế hộ
gia đình 92
4.3.1 Định hướng 92
4.3.2 Giải pháp 93
PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 99
5.1 Kết luận 99
5.2 Kiến nghị 101

5.2.1 Đối với Đảng và nhà nước 101
5.2.2 Đối với các cấp chính quyền và đoàn thể địa phương 101
5.2.3 Đối với bản thân người phụ nữ DTTS 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Phân biệt giữa giới và giới tính 6
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất của xã Đồng Tuyển qua các năm 36
Bảng 3.2 Diện tích, năng suất và sản lượng của các cây trồng trên địa bàn 38
xã Đồng Tuyển 38
Bảng 3.3 Bảng dân số và lao động của xã Đồng Tuyển qua các năm 40
Bảng 3.4 Số liệu cần thu thập và nguồn cung cấp số liệu 45
Bảng 4.1 Thông tin chung về các nhóm hộ điều tra 50
Bảng 4.2 Thông tin về phụ nữ ở các hộ điều tra 53
Bảng 4.3 Người ra quyết định và người thực hiện các khâu trong trồng trọt trong
gia đình dân tộc Giáy, Dao, Kinh 56
Bảng 4.4 Người ra quyết định và người thực hiện các khâu trong chăn nuôi của
các hộ điều tra dân tộc Giáy, Dao, Kinh 61
Bảng 4.5 Tình hình đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 65
Bảng 4.6 Tình hình quản lý tài chính của các hộ điều tra dân tộc Giáy, Dao, Kinh
67
Bảng 4.7 Phụ nữ DTTS đối với vai trò tái sản xuất 71
Bảng 4.8 Phụ nữ DTTS với vai trò cộng đồng 77
Bảng 4.9 Sự đóng góp vào thu nhập gia đình ở các hộ điều tra 83
Bảng 4.10 Thời gian làm việc trong ngày của các hộ điều tra dân tộc Giáy, Dao,
Kinh 84

vii
DANH MỤC HỘP
Hộp 4.1 Công việc phun thuốc trừ sâu 59

Hộp 4.2 Sự chia sẻ của người chồng trong việc nhà 74
Hộp 4.3 Quyết định trong việc định hướng nghề nghiệp cho con 75
Hộp 4.4 Hoạt động của Hội phụ nữ giúp ích cho chị em trong xã 82
Hộp 4.5 Chăm sóc sức khỏe của bản thân phụ nữ còn nhiều hạn chế 91

viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVTV Bảo vệ thực vật
CC Cơ cấu
CNH- HĐH Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
DTTS Dân tộc thiểu số
ĐVT Đơn vị tính
HĐT Hộ điều tra
KHKT Khoa học kỹ thuật
KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
LĐ Lao động
SX Sản xuất
TC- CĐ- ĐH Trung cấp- Cao đẳng- Đại học
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TM- DV- TTCN Thương mại - Dịch vụ- Tiểu thủ công nghiệp
UBND Ủy ban nhân dân
ix
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, kinh tế nông thôn Việt Nam đã có sự
chuyển biến đáng kể, và đảm bảo vai trò quan trọng trong việc cung cấp
lương thực cho toàn xã hội. Sự phát triển của các thành phần kinh tế nông
thôn là một trong những động lực tạo ra sự phát triển đó của kinh tế nông

thôn. Một trong những thành phần kinh tế đó là kinh tế hộ gia đình. Nhờ sự
phát triển của thành phần kinh tế hộ, nông thôn Việt Nam đã từng bước thoát
được cảnh đói nghèo, đời sống kinh tế của người dân đã và đang có những
bước chuyển biến đáng kể.
Ở nước ta, gần 80% phụ nữ sống ở nông thôn, lao động nữ nông thôn
chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và họ
hiện đang sản xuất ra hơn 60% sản phẩm nông nghiệp (Nguyễn Linh Khiếu
(2011). “Phụ nữ nông thôn trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”, Tạp chí Cộng sản). Trên thực tế người phụ nữ có vai trò rất quan
trọng trong phát triển kinh tế gia đình nông thôn. Họ là người gánh chịu nặng
nề nhất những mất mát, tai họa do hậu quả của các cuộc chiến tranh mấy chục
năm qua, lại vừa là người sản xuất nuôi sống gia đình, là người nội trợ trong
gia đình, là người sinh đẻ, chăm sóc con cái, người già, người ốm trong gia
đình và là người tham gia các hoạt động quản lý, hoạt động cộng đồng. Dưới
xã hội phong kiến, khi nói đến công việc của người phụ nữ người ta nghĩ ngay
đến bếp núc, những công việc nội trợ. Tuy trong xã hội tiến bộ, văn minh hơn
như ngày nay dù có nhiều gia đình, người chồng đã biết chia sẻ việc nhà với
vợ, nhưng người đóng vai trò chính vẫn là những người mẹ, người chị và
những đứa con gái. Chính họ làm cho gia đình trở nên ấm áp hơn, vui vẻ hơn,
làm cho mọi thành viên trong gia đình muốn quay về nhà sau một ngày làm

1
việc vất vả. Nhờ bàn tay khéo léo và sự chu toàn của mình, người phụ nữ đã
giúp mọi người tái tạo sức lao động bằng những bữa ăn ngon và sự chăm sóc
chu đáo, để rồi mọi thành viên đủ sức khỏe và động lực để làm việc. Con gái
lớn lên, luôn được giáo dục “công, dung, ngôn, hạnh” để nối tiếp mẹ mình,
dù bên ngoài xã hội họ vẫn gánh trọng trách không kém phần quan trọng hơn
nam giới.
Từ đó ta thấy được người phụ nữ có vai trò hết sức quan trọng trong
xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Tuy nhiên, phụ nữ nông thôn

vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi, những định kiến truyền thống về giới vẫn ăn sâu
trong tiềm thức của mỗi con người, phụ nữ là nạn nhân của những hủ tục, tập
quán truyền thống lạc hậu, của tệ phân biệt đối xử trọng nam, khinh nữ vẫn
tồn tại thâm căn cố đế trong xã hội nông thôn, điều này được dư luận xã hội
phần nào ủng hộ nên nó trở thành lực cản đối với nữ giới trong quá trình phát
huy năng lực vốn có đối với đời sống gia đình và xã hội. Bản thân người phụ
nữ nông thôn vẫn giữ lối sống khép kín, chưa thực sự mạnh dạn tham gia các
hoạt động văn hóa xã hội (giải trí, nghỉ ngơi, trau dồi tri thức, tham gia vào
công tác xã hội, chăm lo sức khỏe…)
Cùng chung một thực trạng trên nhưng vấn đề này càng được thể hiện
rõ nét ở các vùng sâu, vùng xa của đất nước. Bởi điều kiện về dân trí, nhận
thức của người phụ nữ còn nhiều lạc hậu. Ngoài ra tại những vùng này vẫn
còn nhiều hủ tục, những lối suy nghĩ phong kiến về vai trò của người phụ nữ
trong gia đình.
Đồng Tuyển là 1 xã giàu truyền thống cách mạng, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu. Trong xã có 3 dân tộc Giáy, Dao, Kinh cùng sinh sống.
Những năm gần đây, nhờ thực hiện đường lối của Đảng, xã đã chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả, tăng thu nhập, đời sống vật chất và tinh
thần của người dân thực sự được nâng cao. Để đạt được những thành tựu đó
không thể không kể đến vai trò của những người phụ nữ dân tộc thiểu số. Họ

2
có nhiều đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế hộ gia đình và phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Tuy có vai trò quan trọng như vậy
nhưng vai trò quan trọng của họ vẫn chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn
mà chỉ đơn thuần là người nội trợ trong gia đình.
Vậy, người phụ nữ dân tộc thiểu số xã Đồng Tuyển đã có những đóng
góp gì cho sự phát triển của kinh tế hộ gia đình? Làm thế nào để có thể nâng
cao vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn?
Xuất phát từ thực trạng đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vai

trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã
Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số
trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai,
tỉnh Lào Cai, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ
dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
-Đánh giá thực trạng vai trò của phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế
hộ gia đình, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của họ trong phát triển
kinh tế hộ gia đình tại xã Đồng Tuyển trong thời gian qua.
-Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ DTTS
trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Sự tham gia, sự đóng góp của phụ nữ DTTS
trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
-Đối tượng khảo sát: khảo sát phụ nữ dân tộc Giáy, phụ nữ dân tộc
Dao, phụ nữ dân tộc Kinh, cán bộ Hội Phụ nữ ở xã Đồng Tuyển.

3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
-Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc Giáy, Dao
trong phát triển kinh tế hộ gia đình, có sự so sánh về vai trò của phụ nữ dân
tộc Giáy, dân tộc Dao và dân tộc Kinh trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
-Phạm vi về thời gian

Thời gian thu thập số liệu thứ cấp: Các số liệu đã công bố trong khoảng
thời gian từ 2010 – 2013 và các số liệu từ 2013 trở về trước.
Thời gian thu thập số liệu sơ cấp: Các số liệu thu thập trong năm 2014
Thời gian thực hiện đề tài: từ 23/01 đến 24/05 năm 2014
-Phạm vi về không gian
Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai,
tỉnh Lào Cai.

4
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm giới, giới tính
* Khái niệm về giới
Giới là sự khác biệt giữa nam và nữ về góc độ xã hội, các đặc điểm
khác nhau do xã hội quyết định, các mối quan hệ giữa nam và nữ do xã hội
lập nên. Các vai trò của giới được xác định bởi các đặc tính xã hội, văn hóa và
kinh tế, được nhận thức bởi các thành viên trong xã hội đó. Do đó vai trò của
giới có sự biến động và thay đổi qua thời gian và không gian (Trần Thị Quế,
1999 và Nancy J. Hafkin, 2002).
Giới là các mối quan hệ và tương quan về vai trò, trách nhiệm, quyền
lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ, bao gồm việc phân công lao động, các
kiểu phân chia các nguồn lợi ích, khả năng tiếp cận tới nguồn lực. Giới được
quy định bởi các đặc điểm và điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội của từng
địa phương, từng dân tộc và quốc gia.
* Khái niệm về giới tính
Giới tính là những sự khác biệt về đặc tính sinh học giữa phụ nữ và
nam giới. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất nòi
giống. Vai trò sinh học đó là đồng nhất, phổ biến và không thay đổi.

* Phân biệt giữa giới và giới tính

5
Bảng 2.1 Phân biệt giữa giới và giới tính
Tiêu chí Giới Giới tính
Đặc trưng cơ bản Xã hội Sinh học
Nguồn hình thành Do dạy và học mà có Bẩm sinh
Bản chất Đa dạng Đồng nhất
Tính thay đổi Có thể thay đổi Không thể thay đổi
Ví dụ Phụ nữ có thể trở thành
Thủ Tướng, nam giới có
thể ở nhà nội trợ…
Phụ nữ mang thai và sinh
con, nam giới có yết hầu ở
cổ
(Nguồn:www.cmm.com.vn/ /Tintuc_cgs_vn_tailieu_20101059h42m36s.pdf)
2.1.1.2 Khái niệm hộ gia đình, kinh tế hộ gia đình
* Khái niệm hộ
Theo Weberster – từ điển kinh tế (1990), Hộ là những người cùng sống
chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và cùng có chung một ngân quỹ.
Theo Martin (1988), Hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản
xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động khác.
Theo Raul (1989), Hộ là tập hợp những người có chung huyết tộc, có
quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn
chính bản thân mình và cộng đồng.
Theo Mege (1989), Hộ là những người có chung huyết tộc hoặc không
cùng chung huyết tộc ở chung một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.
Theo các tác giả nhóm nhân chủng học từ năm 1982 – 1985, Hộ là đơn
vị đảm bảo quá trình tái sản xuất sức lao động tiếp theo thông qua quá trình tổ
chức nguồn thu nhập nhằm chi tiêu cho cá nhân và đầu tư vào sản xuất.

Như vậy, các các nhân và các tổ chức khi nhìn nhận và quan niệm về
hộ không giống nhau. Tuy nhiên trong đó cũng có những nét chung để phân
biệt về hộ đó là:
- Chung hay không chung huyết tộc
- Cùng sống chung dưới một mái nhà
- Cùng chung nguồn thu nhập (ngân quỹ)
- Cùng ăn chung

6
- Cùng tiến hành sản xuất chung.
(Đỗ Văn Viện – Đặng Văn Tiến, 2006, Bài giảng Kinh tế hộ nông dân,
Đại học Nông nghiệp I, NXB Nông nghiệp).
* Khái niệm gia đình
Gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn nhân và
quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó và ràng
buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà
nước thừa nhận và bảo vệ ().
* Khái niệm hộ gia đình
Hộ gia đình được dùng để biểu thị các thành viên của nó có chung
huyết tộc, quan hệ hôn nhân và có chung một cơ sở kinh tế. Các thành viên
cùng đóng góp công sức, tài sản chung để hợp tác kinh tế chung trong hoạt
động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc trong một số lĩnh vực kinh doanh
khác do pháp luật quy định; là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó (Điều 107.
Dự thảo luật dân sự).
* Khái niệm khái niệm kinh tế hộ gia đình
Theo Frank Ellis (1988), kinh tế hộ nông dân là “các nông hộ thu hoạch
các phương tiện sống từ đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình trong sản xuất
nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc
trưng bằng việc tham gia một phần thị trường hoạt động với một tốc độ không
hoàn chỉnh”.

Theo TS. Đỗ Văn Viện, “Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh
tế cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó có các nguồn lực như: đất đai, lao
động, tiền vốn, và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến hành sản
xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn chung, mọi quyết định trong
sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào chủ hộ được Nhà nước thừa
nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển” (Đỗ Văn Viện – Đặng Văn Tiến,
2006, Bài giảng Kinh tế hộ nông dân, Đại học Nông nghiệp I, NXB Nông
nghiệp).
2.1.1.3 Khái niệm phát triển kinh tế hộ gia đình

7
* Khái niệm phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao
gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như
phúc lợi xã hội, tuổi thọ…) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ
trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ).
Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh
tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định
nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.
* Phát triển kinh tế hộ gia đình
Kinh tế hộ gia đình tập trung chủ yếu ở khu vực sản xuất nông nghiệp
và chiếm tới 2/3 lực lượng lao động toàn xã hội. Vì vậy, chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế hộ gia đình của Đảng và Nhà nước ta thực chất là việc
thực hiện phát triển một cách hợp lý các hình thức sản xuất và kinh doanh
trong nông nghiệp. Đây là loại hình kinh tế phổ biến nhất ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Nước ta bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo
cơ chế thị trường dựa trên nền tảng gần 80% dân số đang sinh sống ở nông thôn
và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Do đó mà kinh tế hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng. Phát triển kinh tế hộ gia đình
là một phần tất yếu để tạo nền tảng phát triển kinh tế đất nước.
2.1.1.4 Khái niệm về dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên
thế giới hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một thuật
ngữ chuyên ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những dân tộc có
dân số ít.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc thành viên, với
khoảng trên 80 triệu người. Trong tổng số các dân tộc nói trên thì dân tộc Việt
(Kinh) chiếm 86,2% dân số, được quan niệm là dân tộc đa số, 53 dân tộc còn

8
lại, chiếm 13,8% dân số được quan niệm là dân tộc thiểu số trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Như vậy, khái niệm Dân tộc thiểu số dùng để chỉ những dân tộc có số
dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong
một quốc gia đa dân tộc.
(ThS. Lô Quốc Toản, Quan niệm về dân tộc thiểu số và Cán bộ dân tộc
thiểu số hiện nay, Học viện Chính trị khu vực I, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh)
2.1.2 Vai trò giới
* Khái niệm
Vai trò giới là những công việc và những hoạt động cụ thể mà phụ nữ
và nam giới thực tế đang làm. Thông thường đây cũng là công việc mà xã hội
trông chờ ở mỗi cá nhân với tư cách là đàn ông hay đàn bà (Nguyễn Thị Minh
Hiền, Bài giảng “Giới trong phát triển nông thôn”, Khoa Kinh tế và PTNT,
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Nội).
Trên thực tế thì phụ nữ và nam giới đóng vai trò khác nhau trên 3 mặt:
* Vai trò sản xuất
Vai trò sản xuất bao gồm những công việc do cả nam giới và nữ giới

làm để tạo ra thu nhập hoặc lấy công (tiền công hoặc bằng hiện vật). Nó còn
bao gồm cả sản xuất hàng hóa có giá trị trao đổi và sản xuất vừa có ý nghĩa
tiêu dùng tại gia đình, vừa có tính sử dụng, nhưng cũng có giá trị trao đổi tiềm
tàng. Đối với phụ nữ trong nông nghiệp, vai trò đó bao gồm công việc của
những người nông dân độc lập.
Vai trò sản xuất của giới trong nông nghiệp và nông thôn liên quan đến
việc ra quyết định sản xuất kinh doanh (sản xuất sản phẩm và dịch vụ gì và
bao nhiêu, dùng công nghệ nào và như thế nào?), quá trình tổ chức sản xuất
kinh doanh (ai điều hành, lúc nào và như thế nào?), quản lý rủi ro và tận dụng
cơ hội trong kinh doanh (ai quyết định điều gì? và quyết định như thế nào khi
xảy ra rủi ro hay có cơ hội), quá trình quản lý thành quả sản xuất kinh doanh.
* Vai trò tái sản xuất
Vai trò tái sản xuất thể hiện vai trò của nam và nữ trong việc tái sinh,

9
duy trì nòi giống, tái sản xuất sức lao động, bao gồm trách nhiệm mang thai,
sinh đẻ hoặc nuôi con, chăm sóc các thành viên khác trong nhà, công việc nhà
như dọn dẹp nhà cửa và nội trợ. Vai trò đó không chỉ bao gồm sự tái sản xuất
sinh học mà còn có cả chăm lo và duy trì lực lượng lao động sau này. Các
công việc tái sản xuất có khuynh hướng, dường như là công việc được dành
riêng cho phụ nữ.
* Vai trò cộng đồng
Vai trò cộng đồng bao gồm các hoạt động do nam giới và nữ giới thực
hiện ở cấp cộng đồng nhằm bảo vệ và duy trì các nguồn lực khan hiếm của
cộng đồng, thực hiện các nhu cầu chung của cộng đồng, quản lý sự thay đổi
và làm cho cộng đồng phát triển.
Vai trò cộng đồng chia làm 2 loại:
- Vai trò tham gia cộng đồng
Thể hiện ở sự tham gia của nam và nữ trong các hoạt động cộng đồng.
Hoạt động cộng đồng rất đa dạng, tùy theo bản sắc riêng có của từng cộng

đồng như các hoạt động chung của cộng đồng: xây dựng cơ sở hạ tầng, quản
lý tài sản công, tham gia vào lễ hội, văn hóa, giáo dục, y tế, quản lý nguồn
nước, quản lý và bảo vệ rừng, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường ở cộng
đồng. Thường thì phụ nữ tham gia vào các hoạt động như lễ hội, giáo dục
mầm non, y tế cơ sở, kiếm củi, lấy nước, quản lý tài nguyên thiên nhiên. Trừ các
hoạt động y tế, giáo dục, y tế cơ sở, các hoạt động còn lại là những công việc
“không được trả công” và là việc làm có tính “tự nguyện và tự nguyện”. Đối với
phụ nữ, công việc này như là một sự mở rộng vai trò tái sản xuất của họ.
- Vai trò lãnh đạo cộng đồng
Nam và nữ có vai trò khác nhau trong tham gia các hoạt động lãnh đạo
quản lý cộng đồng. Lãnh đạo cộng đồng là lãnh đạo các tổ chức của cộng
đồng (các tổ chức chính trị - xã hội khác nhau) như Chủ tịch UBND xã, Hội
nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh… Lãnh đạo cộng đồng trong một
xã hội chính trị - dân sự phát triển được chia ra thành hai nhóm: Nhóm thuộc
hệ thống quản lý nhà nước (Chủ tịch UBND từ tỉnh trở xuống trưởng thôn,
trưởng xóm) và được ngân sách Nhà nước chi trả; Nhóm thuộc xã hội dân sự

10
(các hiệp hội, các tổ chức tự nguyện của cộng đồng) và được kinh phí tự tạo
của các tổ chức đó chi trả. Dù là ở nhóm nào thì phần lớn việc lãnh đạo cộng
đồng đều được trả tiền trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng tiền công hoặc tăng thêm
vị thế và quyền lực. Thông thường, các công việc này do nam giới thực hiện.
Một số ít các vai trò lãnh đạo do nữ giới đảm nhiệm.
2.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò giới
2.1.3.1 Quan điểm truyền thống từ xa xưa để lại
Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Nam Á với nhiều năm dưới
ách thống trị của chế độ phong kiến, bị ảnh hưởng rất lớn của tư tưởng Nho
giáo, nên còn lưu giữ nhiều phong tục tập quán, kể cả những phong tục cổ hủ
và lạc hậu.
Ở nông thôn, đặc biệt là những vùng có DTTS sinh sống thì tư tưởng

“trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại, hạn chế tính năng động sáng tạo, ảnh
hưởng đến sự phát triển của phụ nữ và cản trở sự đóng góp của họ vào sự phát
triển của gia đình và xã hội. Những người phụ nữ phải tuân theo những luật lệ
phong kiến, không có quyền quyết định những công việc quan trọng của gia
đình, ít có cơ hội được tham gia các hoạt động xã hội vì những công việc đó
chỉ dành cho nam giới. Còn công việc của phụ nữ là nội trợ, chăm sóc con cái,
lệ thuộc vào chồng. Chính những quan niệm này mà người phụ nữ đã chịu
không ít thiệt thòi và ảnh hưởng đến sự phát triển của chính họ, của gia đình
và xã hội.
2.1.3.2 Yếu tố về sức khỏe
Sức khỏe là vốn quý nhất của con người. Do đặc điểm sinh lý tự nhiên,
phụ nữ thường có sức khỏe kém hơn nam giới. Do vậy mà người phụ nữ
thường được coi là đại diện cho phái yếu, phái đẹp. Sức khỏe của con người
nói chung và phụ nữ nói riêng chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: điều
kiện dinh dưỡng, môi trường lao động, thời gian lao động, đặc thù của giới
nữ… Sức khỏe của phụ nữ yếu hơn nam giới, do đó mà khả năng lao động
của họ bị hạn chế và ảnh hưởng đến sự đóng góp của họ cho gia đình và xã

11
hội, từ đó cũng ảnh hưởng đến vai trò và vị thế của họ.
2.1.3.3 Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật
Theo đánh giá của hầu hết các nghiên cứu về phụ nữ thì trình độ học
vấn của phụ nữ nhìn chung đều thấp hơn nam giới. Kết quả của điều tra dân
số kế hoạch hóa gia đình 1/4/2011 của Tổng cục Thống kê thì tỷ lệ biết chữ
của nữ giới là 92,2% (từ 15 tuổi trở lên). Tỷ lệ học sinh nữ tiểu học là 49,5%,
THCS: 48,5%, THPT: 52,6% và ở bậc ĐH là 48,5% (niên học 2008 - 2009).
Theo thống kê, ở bậc đại học, cao đẳng, tỷ lệ nam nữ ngày càng cân bằng,
năm 2008 tỷ lệ nữ đạt 53,9% và ngày càng có nhiều nữ đạt thủ khoa. Tuy
nhiên sau đại học vẫn còn khoảng cách, tỷ lệ nữ vẫn còn thấp (Thạc sĩ: hơn
17%, Tiến sĩ: hơn 30%, Phó Giáo sư: gần 12%, Giáo sư: hơn 5%). Tỷ lệ lao

động nữ chưa qua đào tạo là 80,9%, khu vực nông thôn gần 90%, chỉ có
3,65% lao động nữ ở nông thôn có chứng chỉ nghề. Phụ nữ bị hạn chế về trình
độ học vấn, chuyên môn nên khả năng tiếp thu và áp dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật còn khó khăn, làm cho hiệu quả công việc và năng suất lao động
thấp, do đó mà đóng góp của phụ nữ đối với kinh tế hộ gia đình còn hạn chế.
2.1.3.4 Tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực sản xuất
Mặc dù đã có những tiến bộ về cải thiện địa vị của phụ nữ, nhưng vẫn
còn những chênh lệch trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực chủ yếu
như đất đai, nguồn vốn… giữa nam và nữ trong gia đình.
Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những thành
công lớn của công cuộc đổi mới chính sách giao đất ở Việt Nam. Luật đất đai
và Luật hôn nhân và gia đình đảm bảo cho phụ nữ và nam giới được hưởng
các quyền như nhau đối với nam giới và phụ nữ. Nhưng trong thực tế, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình cũng như sổ địa chính
của địa phương chỉ đăng ký tên chủ hộ là nam giới chiếm đại đa số. Tình
trạng này đã gây khó khăn cho phụ nữ khi họ cần thế chấp quyền sử dụng đất
để vay vốn, chia đất khi ly hôn, khi lấy chồng hoặc thừa kế đất khi người
chồng qua đời. Phần lớn phụ nữ khó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện vay

12
vốn tín dụng chính thức vì họ không phải là chủ hộ và không đứng tên trên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Từ năm 2003 đến nay, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã được ghi tên cả vợ và chồng. Từ đây, phụ nữ được tiếp
cận với đất đai một cách dễ dàng hơn.
Nâng cao khả năng tiếp cận và kiểm soát nguồn lực cho phụ nữ không
chỉ tạo điều kiện phát triển mà còn là cơ hội để nâng cao vai trò và vị thế của
người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
2.1.3.5 Khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ
Ngoài thời gian làm việc để tạo ra thu nhập cho gia đình, phụ nữ còn
bận rộn với công việc nội trợ, chăm sóc con cái. Do đó mà việc tiếp cận các

nguồn thông tin mới của phụ nữ bị hạn chế, họ ít có thời gian để xem ti vi,
đọc sách báo, tìm hiểu thông tin thị trường… Điều này dẫn đến người phụ nữ
không nắm bắt được thông tin, thiếu hụt thông tin, làm cho khả năng tiếp cận
những tiến bộ khoa học kỹ thuật, những đổi mới trong ngành nông nghiệp còn
bị hạn chế, không nâng cao được năng suất, chất lượng sản phẩm. Từ đó làm
hạn chế sự đóng góp của phụ nữ vào kinh tế của gia đình nói riêng và nền
kinh tế đất nước nói chung.
2.1.3.6 Chính sách của địa phương
Chính sách của địa phương ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao vai trò của
phụ nữ. Cuộc vận động dân số - kế hoạch hóa gia đình hầu như chỉ tập trung
vào đối tượng là phụ nữ mặc dù việc quyết định sinh con lại phụ thuộc vào cả
vợ và chồng. Một vấn đề nữa là chị em tiếp cận với vốn vay còn hạn chế. Vay
vốn ưu đãi thông qua Hội phụ nữ cũng giúp các chị em phần nào vốn sản
xuất. Tuy nhiên vốn vay ở các tổ chức đoàn thể ở địa phương hầu hết là số
lượng ít và phải có thời hạn vay nhất định. Do đó mà các hộ thường vay vốn ở
ngân hàng mặc dù phải thế chấp đất và thường người đứng tên lại là nam giới
(chủ hộ). Điều này cũng làm hạn chế việc nâng cao vai trò của phụ nữ.
2.1.3.7 Những yếu tố chủ quan
Những yếu tố bên ngòai đã có tác động không nhỏ đến việc nâng cao

13
vai trò của người phụ nữ. Bên cạnh đó, ý thức của người phụ nữ về vai trò của
bản thân mình cũng làm cho vị thế của họ không được nâng cao. Cùng với
những quan niệm từ thời phong kiến, họ đã chấp nhận rằng thiên chức của
mình là chăm sóc chồng con, là người nội trợ khéo léo, cam chịu hi sinh bản
thân mình cho chồng con, cho gia đình. Vì thế mà họ tự trói buộc mình vào
các công việc gia đình, để rồi họ tự đánh mất vai trò và vị trí của mình trong
gia đình và xã hội.
2.1.4 Các cách tiếp cận trong nghiên cứu giới và phụ nữ
Lịch sử phát triển của khoa học về giới đã trải qua nhiều nhiều bước

hoàn thiện về các quan điểm về nâng cao vai trò của phụ nữ như “Phụ nữ
trong phát triển – Women in Development – WID”, “Phụ nữ và phát triển –
Women and Development – WAD” và “Giới và phát triển – Gender and
Development – GAD”.
* Quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” (WID)
Quan điểm này ra đời vào những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ 20
tại Ủy ban phụ nữ thuộc tiểu ban xã hội Washington. Quan điểm này đặt trọng
tâm vào phụ nữ, trên cơ sở giải quyết các vấn đề của phụ nữ nảy sinh trong
quá trình phát triển. Cách tiếp cận WID đòi hỏi công bằng xã hội và quyền lợi
cho phụ nữ.
Các quan niệm trước đây chỉ nhìn nhận phụ nữ trong vai trò người vợ,
người mẹ nên chính sách đối với phụ nữ chỉ giới hạn ở phúc lợi xã hội và sinh
đẻ. Quan điểm WID đã chú trọng đến vai trò sản xuất của phụ nữ, chủ trương
đưa phụ nữ vào hòa nhập nền kinh tế đất nước, coi việc tiếp cận với cơ hội có
việc làm trong sản xuất và tham gia công tác xã hội là biện pháp nâng cao vai
trò, địa vị của phụ nữ.
Tuy nhiên, WID cũng bộc lộ những thiếu sót như sau (Kabeer 1994):
- WID được xây dựng trên cơ sở lý thuyết cổ điển với giả định rằng,
phụ nữ không có cơ hội tham gia vào các chương trình phát triển ở hầu hết
các nước đang phát triển.
- WID chỉ ra rằng, phụ nữ bị đối xử bất công bằng trong xã hội nhưng

14
không chỉ rõ được nguồn gốc của sự bất bình đẳng đó.
- Mặc dù mục tiêu chính của WID là đưa phụ nữ vào các chương trình
phát triển song nó không hề đặt câu hỏi rằng, tại sao phụ nữ hầu như không
được hưởng lợi từ các chương trình chiến lược đó.
- WID hầu như chỉ tập trung giải quyết sự bất bình đẳng giới trong khía
cạnh sản xuất mà quên đi các vai trò quan trọng khác của phụ nữ như tái sản
xuất và sinh hoạt cộng đồng.

- WID đề xuất giải pháp giải phóng phụ nữ nhưng chỉ tập trung vào đối
tượng nữ mà bỏ qua mối quan hệ giới vô cùng phức tạp trong xã hội, đặc biệt
là xã hội phụ quyền.
* Quan điểm “Phụ nữ và phát triển” (WAD)
WAD ra đời vào nửa sau những năm 1970, với mục đích khắc phục
những nhược điểm của WID. Quan điểm này đã thừa nhận phụ nữ là chủ thể
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, vì thế phụ nữ đương nhiên là
một bộ phận cốt yếu của quá trình phát triển. Mục tiêu chính của WAD là giải
quyết mối quan hệ giữa phụ nữ và phát triển. Mặc dù vậy, WAD giống WID
ở chỗ là vẫn chỉ tập trung vào phụ nữ mà không đề cập đến các mối quan hệ
giới và vai trò giới, vẫn coi phụ nữ là chủ thể riêng, đối tượng riêng biệt khi
thực hiện các chiến lược phát triển phụ nữ (Kabeer 1994).
* Quan điểm “Giới và phát triển” (GAD).
Quan điểm này ra đời vào những năm 1980. Khắc phục nhược điểm
của 2 quan điểm trên, GAD tập trung vào mối quan hệ giới chứ không chỉ
riêng phụ nữ, quan tâm đến sự phát triển bền vững, tập trung vào cân bằng
giới và các chương trình phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của cả nam và nữ.
Theo quan điểm này, phụ nữ được nhìn nhận, đánh giá như là những
nhân tố tích cực chứ không phải là những người thừa hưởng thành quả của sự
phát triển. Mục tiêu phát triển theo phương pháp này là sự tự lực, sức mạnh
của bản thân phụ nữ, tức là phụ nữ có cơ hội phát huy hết năng lực của mình
và có điều kiện phát triển một cách toàn diện và hoàn toàn bình đẳng với nam
giới. Sự tham gia của phụ nữ và phát huy hết tiềm năng, kinh nghiệm của họ
trong hoạt động kinh tế, xã hội hay quản lý cộng đồng có ý nghĩa chính trị -

15
xã hội tích cực, vừa tăng cường năng lực cá nhân, vừa tạo quyền cho chính
họ, vừa thúc đẩy tốc độ phát triển chung của xã hội.
Quan điểm này còn cho rằng, mỗi nam và nữ giới sẽ thường đảm nhận
các vai trò quyền lực khác nhau, nên họ có nhu cầu thực tế khác nhau. Chính

vì vậy, phân tích theo quan điểm GAD đã đề xuất được các hướng giải quyết
không chỉ nhằm giải quyết các vấn đề trước mắt mà cả những nguyên nhân
sâu xa của vấn đề nghiên cứu.
Quan điểm GAD cung cấp cơ sở lý luận cho việc xem xét vai trò của
phụ nữ trong mối tương quan với vai trò của nam giới trong phát triển cộng
đồng xã hội trên mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau. Cần đánh giá những đóng
góp của phụ nữ đối với cộng đồng, tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng, tạo điều
kiện để phụ nữ phát huy được năng lực của mình, chủ động cùng nam giới
tham gia các hoạt động phát triển kinh tế gia đình và cộng đồng, các hoạt
động văn hóa, chính trị, chăm sóc sức khỏe sinh sản… Quan trọng là hình
thành được thói quen, các chuẩn mực và giá trị mới về vai trò phụ nữ trong
cộng đồng ở trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập và phát triển.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Vai trò của phụ nữ DTTS trong phát triển kinh tế hộ
gia đình trên thế giới
Trên toàn thế giới, phụ nữ đóng vai trò then chốt trong gia đình về khả
năng sản xuất và tái sản xuất. Họ chiếm trên 50% trong tổng số lao động, số
giờ lao động của họ chiếm 2/3 tổng giờ lao động của xã hội và sản xuất ra 1/2
trong tổng sản lượng nông nghiệp. Cùng với việc đảm nhiệm nhiều công việc
khác nhau, lao động nữ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các nghành công
nghiệp, dịch vụ với trình độ không ngừng được nâng cao. Tại Châu Phi, Châu
Á và Thái Bình Dương, trung bình một tuần phụ nữ làm việc nhiều hơn nam
giới 12-13 giờ và có ít thời gian để nghỉ ngơi hơn. Hầu hết mọi nơi trên thế
giới, phụ nữ được trả công thấp hơn so với nam giới cho cùng một loại công
việc. Thu nhập của phụ nữ bằng khoảng 50-90% thu nhập của nam giới (Báo

16

×