Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

BÀI GIẢNG QUY HOẠCH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 107 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
VIỆN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
BỘ MÔN QUY HOACH VÀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

BÀI GIẢNG

QUY HOẠCH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

NGƯỜI BIÊN SOẠN: PHẠM THANH QUẾ

HÀ NỘI, 2017
1


MỞ ĐẦU
Bài giảng Quy hoạch sản xuất nông nghiệp được biên soạn dùng cho sinh viên
ngành Quản lý Đất đai, nhằm trang bị cho người học cơ sở khoa học bố trí cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, xây dựng cơ cấu sản xuất hợp lý để phát triển nông nghiệp bền vững.

Môn học

nghiên cứu cơ sở khoa học của quy hoạch sản xuất nông nghiệp; Phương pháp tiếp cận sử
dụng đất nông nghiệp thích hợp; Quy hoạch bố trí cơ cấu cây trồng vật nuôi; Quy hoạch cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp (giao thông, thuỷ lợi, dịch vụ sản xuất nông
nghiệp).
Bài giảng Quy hoạch sản xuất nông nghiệp được biên soạn theo đề cương chương
trình khung đào tạo ngành quản lý đất đai đã được phê duyệt.
Nội dung của bài giảng gồm 4 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của quy hoạch sản xuất nông nghiệp
Chương 2: Nội dung quy hoạch sản xuất nông nghiệp
Chương 3: Quy hoạch sản xuất một số ngành


Chương 4: Quy hoạch sản xuất nông nghiệp ở một số địa phương
Những kiến thức mà sinh viên cần phải nắm được khi nghiên cứu môn học Quy
hoạch sản xuất nông nghiệp là cơ sở khoa học của quy hoạch sản xuất nông nghiệp, phương
pháp tiếp cận sử dụng đất thích hợp và xây dựng được phương án quy hoạch phát triển sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp; Bố trí sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp và Quy hoạch cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản,
diêm nghiệp;
Tuy đã hết sức cố gắng trong quá trình biên soạn, nhưng khó tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
bạn đọc trong quá trình sử dụng để bài giảng tiếp tục được hoàn chỉnh ở
các lần biên soạn tiếp theo.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 20…
Người biên soạn

ThS. Phạm Thanh Quế

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUY HOẠCH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Vị trí và vai trò của ngành nông nghiệp
1.1.1. Vai trò của đất đai đối với sản xuất nông nghiệp
1.1.1.1. Một số chức năng của đất đai
a. Chức năng môi trường sống
Đất đai là cơ sở của mọi hình thái sinh vật sống trên lục địa thông qua việc cung cấp
môi trường sống cho sinh vật và gien di truyền để bảo tồn cho thực vật, động vật và cơ thể
sống cả trên và dưới mặt đất.
b. Điều kiện cho sản xuất
Đất đai là điều kiện đầu tiên và là nền tảng của bất kỳ một quá trình sản xuất nào:
mặt đất, lớp phủ thổ nhưỡng, lòng đất, rừng và mặt nước chiếm vị trí đặc biệt quan trọng

trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và đời sống con người.
Không có đất thì không thể sản xuất, cũng như không có sự tồn tại của con người. Là tư
liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu không gì thay thế được.
c. Góp phần cân bằng sinh thái
Đất đai và việc sử dụng nó là nguồn và là tấm thảm xanh hình thành một cân bằng
năng lượng trái đất, sự phản xạ, hấp thụ và chuyển đổi năng lượng phóng xạ từ mặt trời và
của tuần hoàn khí quyển địa cầu.
d. Dự trữ và cung cấp nguồn nước
Đất đai là kho tài nguyên dự trữ và cung cấp nước, khoáng sản cung cấp cho mọi nhu
cầu sử dụng của con người
e. Chức năng bảo tồn, bảo tàng lịch sử
Đất đai là trung gian để bảo vệ, bảo tồn các chứng cứ lịch sử, văn hoá của loài người,
là nguồn thông tin về các điều kiện khí hậu, thời tiết trong quá khứ và cả về việc sử dụng đất
trong quá khứ.
1.1.1.2. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu
a. Đất đai và sự phát triển kinh tế - xã hội
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn
nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường
sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh
quốc phòng. Đất đai có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và đời sống của
con người, đất với lớp phủ thổ nhưỡng, khoáng sản trong lòng đất, rừng và mặt nước chiếm
vị trí đặc biệt. Đất là điều kiện đầu tiên và là nền tảng tự nhiên của bất kỳ một quá trình sản
xuất nào.
3


Các Mác cho rằng, đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung cấp các tư liệu
lao động, vật chất và vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể. Khi nói về vai trò và ý nghĩa

của đất đối với nền sản xuất xã hội, Mác đã khẳng đinh: “Lao động không phải là nguồn
duy nhất sinh ra của cải vật chất và giá trị tiêu thụ - Như William Petti đã nói – Lao động
chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ”.
Chúng ta đều biết rằng, không có đất thì không thể có sản xuất, cũng như không có sự
tồn tại của con người. Đất là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện trước con người và tồn tại
ngoài ý muốn của con người. Đất tồn tại như một vật thể lịch sử tự nhiên.
Chúng ta có thể sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau:
+ Có thể dùng đất để làm nơi sinh sống, cơ sở sản xuất và môi trường hoạt động.
+ Có thể dùng đất làm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt để thỏa mãn nhu cầu sinh
tồn và phát triển.
+ Có thể dùng đất để cung cấp môi trường cảnh quan cho mục đích tinh thần.
b. Đất đai là một tư liêu sản xuất
Đất đai là điều kiện chung nhất của lao động, là đối tượng của lao động. Song khi
đứng ngoài quá trình lao động, đất không phải là một tư liệu sản xuất. Chỉ khi tham gia vào
quá trình lao động, khi kết hợp với lao động sống và lao động quá khứ (lao động vật hóa) thì
đất mới trở thành một tư liệu sản xuất.
Trong bất kỳ chế động xã hội nào thì quá trình lao động cũng bao gồm 3 yếu tố:
+ Là hoạt động có mục đích của con người.
+ Là đối tượng chịu tác động của lao động.
+ Là công cụ mà con người dùng để tác động lên đối tượng lao động
Đối tượng chịu tác động của lao động được gọi là đối tượng lao động, công cụ mà con
người dùng để tác động lên đối tượng lao động được gọi là công cụ lao động (hay tư liệu lao
động). Cả đối tượng lao động và tư liệu lao động đều được gọi là tư liệu sản xuất.
Như vậy, để có một quá trình sản xuất cần phải có con người, có đối tượng lao động và
có công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, đất luôn luôn là đối tượng chịu sự tác động
của con người. Đo đó nó được coi là một tư liệu sản xuất.
c. Vai trò đặc biệt của đất trong sản xuất nông nghiệp
Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của bất kỳ ngành sản xuất nào
(Công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải....) nhưng trong mỗi ngành nó lại có vai trò
không giống nhau.

Trong các ngành công nghiệp (chế tạo, chế biến...) đất chỉ đóng vai trò thụ động là cơ
sở không gian, là nền tảng, là vị trí để thực hiện quá trình sản xuất và hình thành sản phẩm
không phụ thuộc vào tính chất và độ màu mỡ của đất.
Trong ngành công nghiệp khai khoáng, ngoài vai trò không gian đất còn là kho tàng
4


cung cấp các nguyên liệu quý giá cho con người. Nhưng quá trình sản xuất và chất lượng
sản phẩm tạo ra cũng không phụ thuộc vào chất lượng đất.
Riêng trong nông nghiệp đất đai có vai trò khác hẳn, đất không chỉ là cơ sở không
gian, không chỉ là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của ngành sản xuất này mà còn
là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất nông nghiệp có liên quan chặt
chẽ đến đất, phụ thuộc nhiều vào độ phì nhiêu của đất, vào quá trình sinh học tự nhiên.
+ Đất là đối tượng chịu tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản xuất.
+ Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp nước, không khí và các chất
dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Năng suất và chất lượng sản
phẩm phụ thuộc rất nhiều vào độ phì nhiêu của đất. Trong số tất cả các tư liệu dùng trong
sản xuất nông nghiệp chỉ có đất mới có chức năng này.
Chính vì vậy, có thể nói rằng: Đất là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu trong nông
nghiệp.
d. Sự khác biệt của đất so với các tư liệu sản xuất khác
- Đặc tính quan trọng nhất của đất là độ phì nhiêu. Đây là đặc tính khiến nó khác hẳn với
các tư liệu sản xuất khác. Độ phì là khả năng của đất có thể cung cấp thức ăn, nước và
những điều kiện khác cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
- Mọi tư liệu sản xuất khác đều là sản phẩm của lao động, còn riêng đất là sản phẩm của tự
nhiên. Đất có trước lao động và là điều kiện thiên nhiên của lao động. Chỉ khi tham gia vào
quá trình lao động, đất mới trở thành tư liệu sản xuất.
- Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, các tư liệu sản xuất khác tăng lên về số lượng và
tốt lên về chất lượng, riêng đất chỉ có số lượng giới hạn trong phạm vi ranh giới lục địa.
- Đất là tư liệu sản xuất có vị trí không thể thay đổi trong không gian. Đây là tính chất rất

đặc thù của đất, làm cho các vị trí đất khác nhau có giá trị khác nhau.
- Trong quá trình sản xuất người ta có thể thay thế tư liệu sản xuất bằng các tư liệu sản xuất
khác, nhưng với đất thì không thể thay thế.
- Trong quá trình sản xuất mọi tư liệu sản xuất khác đều có thể bị hao mòn, hư hỏng riêng
với đất nếu xét về mặt không gian thì đất là tư liệu vĩnh cửu, không chịu sự phá hủy của thời
gian. Hơn nữa nếu được sử dụng đúng và hợp lý thì chất lượng đất ngày càng tốt lên.
1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
1.1.2.1. Yếu tố tự nhiên
a. Điều kiện khí hậu
Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và điều
kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn nhiều hay ít, nhiệt độ bình quân cao hay thấp, sự
sai khác nhiệt độ về thời gian và không gian, sự sai khác giữa nhiệt độ tối cao và tối thấp,
thời gian có sương dài hoặc ngắn... trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát
5


triển của cây trồng, cây rừng và thực vật thủy sinh... Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời
gian chiếu sáng dài hay ngắn cũng có tác dụng ức chế đối với sinh trưởng, phát dục và quá
trình quang hợp của cây trồng. Chế độ nước vừa là điều kiện quan trọng để cây trồng vận
chuyển chất dinh dưỡng vừa là vật chất giúp cho sinh vật sinh trưởng và phát triển. Lượng
mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ và độ
ẩm của đất cùng khả năng đảm bảo cung cấp nước cho sự sinh trưởng của động thực vật.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các yếu tố khí hậu có các đặc trưng rất khác biệt giữa các mùa
trong năm cũng như các vùng lãnh thổ khác nhau.
b. Điều kiện địa hình
Địa hình là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng đất của các ngành nông
nghiệp và phi nông nghiệp. Đối với sản xuất nông nghiệp, sự sai khác giữa địa hình, địa
mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói
mòn ... thường dẫn đến sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và
phân bố các ngành nông - lâm nghiệp, hình thành sự phân biệt địa giới theo chiều thẳng

đứng đối với nông nghiệp. Bên cạnh đó, địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử
dụng đất nông nghiệp từ đó đặt ra yêu cầu phải đảm bảo thủy lợi hóa và cơ giới hóa cho
đồng ruộng nhằm thu lại hiệu quả sử dụng đất là cao nhất.
Đối với ngành phi nông nghiệp, địa hình phức tạp sẽ ảnh hưởng đến giá trị công trình
và gây khó khăn cho thi công.
c. Điều kiện thổ nhưỡng
Mỗi loại đất đều có những đặc tính sinh, lý, hóa học riêng biệt trong khi đó mỗi mục
đích sử dụng đất cũng có những yêu cầu sử dụng đất cụ thể. Do vậy, yếu tố thổ nhưỡng
quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Độ phì của đất là tiêu chí quan trọng
về sản lượng cao hay thấp. Độ dày tầng đất và tính chất đất có ảnh hưởng lớn đến sự sinh
trưởng của cây trồng.
d. Điều kiện thủy văn
Yếu tố thủy văn được đặc trưng bởi sự phân bố của hệ thống sông ngòi, ao hồ... với
các chế độ thủy văn cụ thể như lưu lượng nước, tốc độ dòng chảy, chế độ thủy triều... sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới khả năng cung cấp nước cho các yêu cầu sử dụng đất.
e. Vị trí địa lý
Đặc thù của nhân tố điều kiện tự nhiên mang tính khu vực. Vị trí của vùng với sự
khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ
quyết định đến khả năng, công dụng và hiệu quả của việc sử dụng đất đai. Vì vậy, trong thực
tiễn sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt được hiệu ích
cao nhất về xã hội, môi trường và kinh tế.
1.1.2.2. Yếu tố kinh tế - xã hội
6


a. Điều kiện dân số và lao động
b. Điều kiện vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất xã hội
c. Trình độ quản lý và tổ chức sản xuất
d. Sự phát triển của khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
e. Chế độ kinh tế, xã hội

1.1.3. Vai trò, vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
[Bộ NN & PTNT (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến
năm 2020 và tầm nhìn đến 2030]
1.1.3.1. Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
- Ngành nông nghiệp nuôi sống trên 70% dân số cả nước sống ở nông thôn.
- Cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội.
- Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến
lương thực thực phẩm.
- Cung cấp đất đai và lao động giá rẻ và ổn định cho các ngành kinh tế khác phát triển.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn: Tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp năm
2010 chiếm khoảng 48,7% lao động trong cả nước.
- Sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước:
năm 2010 kim ngạch xuất khẩu nông sản 19,15 tỷ USD, chiếm 26,5% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước (năm 2000 chiếm 29%).
- Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.
- Góp phần quan trọng vào thực hiện thành công trong chương trình xoá đói giảm nghèo của
cả nước.
- Góp phần phát triển bền vững và tạo ổn định chính trị, kinh tế xã hội.
- Góp phần tạo vị thế chính trị của Việt Nam trên trường Quốc tế.
- Có vai trò lớn trong việc cải thiện môi trường sinh thái thông qua việc khai hoang phục
hoá đất, phủ xanh đất trồng đồi trọc, nâng cao độ che phủ rừng, chống xói mòn, thoái hoá
đất.
- Có vai trò quan trọng trong việc giúp nền kinh tế vượt khó khăn, năm 2009 dù nền kinh tế
gặp khá nhiều khó khăn nhưng ngành nông nghiệp vẫn gặt hái được nhiều thành công.
Bảng: Tỷ trọng kim ngạch XK nông sản trong kim ngạch XK chung
Hạng mục
Tổng giá trị kim ngạch XK
(tr.USD)
Tr.đó: Nông


lâm

2000
2005
2008
2009
14.482,7 32.447,1 62.685,1 57.096,3

TS

4.197,5

(tr.USD)
- Tỷ trọng (%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê

29

7.452,4 14.218,4 15.849,0
23
7

22

27,7

2010
72.191,8
19.150,0
26,5



[Bộ NN & PTNT (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến
năm 2020 và tầm nhìn đến 2030]

1.1.3.2. Vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
- Lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực duy nhất liên tục xuất siêu với tốc độ tăng kim ngạch
xuất khẩu cao kể cả trong những giai đoạn kinh tế gặp khó khăn.
- Nông nghiệp đóng góp 20,6% trong tổng GDP cả nước (năm 2000: 24,5%).
- Ngành nông nghiệp có vị trí quan trọng nhất trong việc đảm bảo ổn định chính trị, xã hội
và an ninh quốc gia.
- Ngành nông nghiệp đảm bảo ổn định cuộc sống cho số lượng dân số lớn nhất so với các
ngành trong cả nước (trên 70% dân số).
- Ngành nông nghiệp có vị trí quan trọng nhất trong việc bảo vệ môi trường sinh thái.
- Ngành nông nghiệp có vị trí quan trọng nhất trong việc tạo việc làm cho lao động toàn xã
hội (tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 48,7% lao động xã hội).
1.1.4. Vai trò, vị trí của nông nghiệp Việt Nam trong nông nghiệp thế giới
1.1.4.1. Vai trò của nông nghiệp Việt Nam trong nông nghiệp thế giới
Nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng góp phầm đảm bảo an ninh lương thực
thế giới, kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm tỷ trọng cao:
- Về khối lượng xuất khẩu của Việt Nam so với khối lượng xuất khẩu của thế giới: gạo 5,95
triệu tấn, chiếm 21,7%, cao su 731,4 ngàn tấn, chiếm 11,4%, cà phê 1.183,5 ngàn tấn chiếm
19,2%, điều 177,2 ngàn tấn, chiếm 46,3%, hồ tiêu 134,3 ngàn tấn, chiếm 44,2%, chè 134
ngàn tấn, chiếm 7,9%.
- Về giá trị xuất khẩu của Việt Nam so với giá trị xuất khẩu của thế giới: gạo 2.663,9 triệu
USD, chiếm 23,8%, cao su 1.227 triệu USD, chiếm 10,2%, cà phê 1.730,6 triệu USD, chiếm
12,7%, điều 846,7 triệu USD chiếm 50,1%, hồ tiêu 348 triệu USD chiếm 33,5%, chè 178
triệu USD chiếm 4,4%.
Bảng: Tỷ trọng nông sản xuất khẩu của Việt Nam so với thế giới 2009
Đơn vị: 1.000 tấn, 1.000 USD


8


Nguồn: FAOSTAT, Niên giám thống kê
[Bộ NN & PTNT (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến
năm 2020 và tầm nhìn đến 2030]
1.1.4.2. Vị trí của nông nghiệp Việt Nam trong nông nghiệp thế giới
- Về diện tích Việt Nam so với thế giới: hồ tiêu đứng thứ 3; điều và cao su đứng thứ 4; cà
phê và chè đứng thứ 5; nuôi trồng thuỷ sản đứng thứ 6; lúa đứng thứ 7.
- Về sản lượng sản xuất Việt Nam so với thế giới: hồ tiêu đứng đầu; cà phê đứng thứ 2 (sau
Braxin); điều đứng thứ 4; lúa gạo và cao su đứng thứ 5; chè đứng thứ 6; nuôi trồng thuỷ sản
đứng thứ 3; khai thác hải sản đứng thứ 13.
- Về kim ngạch xuất khẩu Việt Nam so với thế giới: hồ tiêu và điều đứng đầu; cà phê đứng
thứ 2; gạo đứng thứ 3; thuỷ sản đứng thứ 5; chè đứng thứ 8 và cao su đứng thứ 11.
Bảng: Vị trí của một số nông sản Việt Nam trên thế giới

Nguồn: FAOSTAT, Niên giám thống kê
[Bộ NN & PTNT (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến
năm 2020 và tầm nhìn đến 2030]

9


1.2. Khái niệm quy hoạch sản xuất nông nghiệp
- Sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm các tiểu ngành: nông nghiệp (trồng
trọt, chăn nuôi), lâm nghiệp, thuỷ sản, diêm nghiệp.
- Quy hoạch sản xuất nông nghiệp bao gồm: việc xác định phương án sản xuất nông
nghiệp theo từng giai đoạn trong tương lai, bố trí không gian và hạ tầng kỹ thuật phù hợp
- Quy hoạch cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất: bao gồm việc xác định hướng, tuyến, vị

trí và quy hoạch phát triển các công trình giao thông, thủy lợi, điện phục vụ quy hoạch sản
xuất nông nghiệp.
- Quy hoạch bố trí sử dụng đất nông nghiệp: bao gồm việc bố trí quỹ đất cho các loại
hình phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội
và môi trường của địa phương.
1.3. Cơ sở khoa học của quy hoạch sản xuất nông nghiệp
Về thực chất quy hoạch sử dụng đất chính là quá trình hình thành các quyết định
nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại lợi ích cao nhất đồng thời
thực hiện việc điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như một tư liệu
sản xuất đặc biệt. Để hình thành được các quyết định đúng đắn, quy hoạch sử dụng đất phải
dựa vào 2 nhóm căn cứ chủ yếu là yêu cầu chủ quan và điều kiện thực tế khách quan.
1.3.1.Yêu cầu chủ quan
Là yêu cầu chung yêu cầu của xã hội, của nên kinh tế quốc dân (hoặc của địa
phương) đối với các ngành kinh tế khác nhau có liên quan đến việc sử dụng đất. Yêu cầu
của xã hội và nền kinh tế luôn thay đổi tùy theo sự phát triển, do vậy khi quy hoạch sử dụng
đất phải nắm bắt được các yêu cầu này. Yêu cầu chủ quan được thể hiện thông qua nhóm
căn cứ cụ thể gồm:
- Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
- Nhu cầu sử dụng đất đai.
- Quy hoạch phát triển các ngành và địa phương
- Định mức sử dụng đất đai
- Yêu cầu bảo vệ môi trường, yêu cầu bảo vệ tôn tạo di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh ...
1.3.2. Điều kiện thực tế khách quan
Điều kiện thực tế khách quan là căn cứ rất quan trọng, quyết định tính thực tiễn và
khoa học của quy hoạch sử dụng đất.
- Điều kiện tự nhiên: Địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, thủy văn, khoáng sản ...
- Điều kiện xã hội: Hiện trạng sử dụng quỹ đất, thực trạng phát triển sản xuất, khả năng đầu
tư, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đai kỳ trước...

10


1.4. Phương pháp luận trong quy hoạch sản xuất nông nghiệp
Trong quá trình nghiên cứu quy hoạch phải sử dụng hai nhóm phương pháp là
phương pháp luận trong nghiên cứu và các phương pháp nghiên cứu các vấn đề cụ thể.
1.4.1. Phương pháp luận trong nghiên cứu
Cơ sở của phương pháp luận nghiên cứu quy hoạch đất đai dựa trên phép biện chứng
duy vật về nhận thức, thể hiện ở các điểm sau:
- Nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, phạm trù xã hội trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau
ở trạng thái vận động
- Nhìn nhận sự phát triển như là sự chuyển hóa từ lượng thành chất.
- Xem xét các sự kiện và hiện tượng trên quan điểm thống nhất các mặt đối lập nhau.
- Phát hiện những cái mới, tiến bộ trong quá trình chuyển động và phát triển.
Về phương pháp luận, trong quy hoạch sử dụng đất còn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ
thống như là cơ sở phương pháp luận đồng thời cũng là phương pháp cụ thể trong quá trình
thực hiện.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu các vấn đề cụ thể
- Phương pháp điều tra khảo sát: Đây là phương pháp được ứng dụng để điều tra thu thập
các số liệu, dữ kiện thông tin cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trong thực tế, có
thể sử dụng phương pháp điều tra nội nghiệp, điều tra ngoại nghiệp, điều tra nông thôn có
sự tham gia của người dân...
- Phương pháp minh họa trên bản đồ: Đây là phương pháp đặc thù của công tác quy hoạch
đất đai. Mọi thông tin cần thiết được biểu diễn trên bản đồ có tỷ lệ thích hợp, tạo thành tập
bản đồ gồm: Bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ quy hoạch đất đai, bản đồ thổ nhưỡng
nông hóa, bản đồ khảo sát hoặc quy hoạch giao thông, thủy lợi, bản đồ cây trồng, bản đồ địa
hình, chế độ nước...
- Phương pháp thống kê: Mục đích của việc sử dụng phương pháp thống kê là nhằm phân
nhóm toàn bộ các đối tượng điều tra có cùng chỉ tiêu, xác định các giá trị trung bình của chỉ
tiêu, phân tích tương quan giữa các yếu tố. Về đối tượng nghiên cứu, phương pháp thống kê

đề cập đến các vấn đề sau:
+ Nghiên cứu tình hình sử dụng đất, cơ cấu đất, các đặc tính về lượng và chất
+ Phân tích đánh giá về diện tích, vị trí và khoảng cách.
+ Đánh giá các mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật.
Phương pháp này có nhược điểm cơ bản là do số lượng đối tượng nghiên cứu lớn nên
kết quả thu được đôi khi không phản ánh đúng bản chất và nguồn gốc của các sự kiện và
hiện tượng.
- Phương pháp nghiên cứu điểm: Đây là phương pháp được áp dụng nhằm bổ sung cho
phương pháp thống kê. Nó nghiên cứu từng sự kiện mang tính điển hình. Phương pháp này
11


có ưu điểm là cho phép phân tích cụ thể tình trạng quá khứ và hiện tại của các sự kiện, hiện
tượng, song cũng có nhược điểm là khi xuất hiện các điều kiện và các mối quan hệ mới thì
kết quả nghiên cứu cũ của nó không thể áp dụng trong tương lai.
- Phương pháp nghiên cứu mẫu:
Theo phương pháp này, người ta lựa chọn những mẫu đại diện cho từng sự kiện và
hiện tượng để nghiên cứu. Khi ứng dụng phương pháp này đòi hỏi phải rất thận trọng trong
quá trình chọn mẫu và quy mô mẫu cũng như đặc điểm của sự kiện và hiện tượng có liên
quan đến mẫu.
- Phương pháp phương án (phương pháp tính toán theo định mức): Đây là phương pháp áp
dụng nhiều trong quy hoạch đất đai để dự đoán và tạo ra các hình thức lãnh thổ mới dựa vào
các định mức tính toán về thời gian, chi phí vật chất, lao động, vốn, nhiên liệu...Phương
pháp này đòi hỏi phải xây dựng được hệ thống định mức trên cơ sở khoa học vì nó ảnh
hưởng quyết định đến kết quả, phải xây dựng được các phương án quy hoạch đất đai sơ bộ
theo định mức, phải phân tích, so sánh, đánh giá và lựa chọn phương án hợp lý và kinh tế
nhất theo chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Ngoài ra, cần phải kết hợp phương pháp này với phương
pháp tư duy trừu tượng. Phương pháp phương án cũng có một số hạn chế cụ thể là nó bị giới
hạn về số lượng phương án (thường chỉ xây dựng từ 2-3 phương án) và việc lựa chọn
phương án là kết quả so sánh tương đối giữa các phương án với nhau chứ chưa tìm được

phương án thực sự tối ưu.
- Phương pháp mô hình toán kinh tế sử dụng máy vi tính: Đây là phương pháp có ứng dụng
rộng rãi. Phương án tối ưu được tìm ra trên cơ sở xây dựng các mô hình toán kinh tế dưới
dạng các bài toán vận tải, các bài toán tương quan hồi quy và quy hoạch tuyến tính, lập và
giải trên máy tính điện tử. Phương pháp này đòi hỏi phải định lượng được các yếu tố cần
biểu thị và các điều kiện hạn chế phải trình bày được bằng ngôn ngữ toán học. Do đó, nó có
hạn chế cơ bản là khó áp dụng cho các điều kiện văn hóa - xã hội và sinh thái. Trong lĩnh
vực quy hoạch đất đai, một số vấn đề có thể giải quyết bằng phương pháp mô hình hóa toán
học như:
+ Vấn đề chuyển loại đất sử dụng
+ Xác định quy mô sản xuất hợp lý các ngành
+ Phân bố hợp lý các điểm dân cư
+ Xác định cơ cấu diện tích gieo trồng
+ Bố trí dất đai và cây trồng theo điều kiện xói mòn đất
+ Xác định năng suất cây trồng
+ Tổ chức hệ thống luân canh hợp lý
+ Tổ chức sử dụng hợp lý thức ăn gia súc
Một ứng dụng quan trọng của tin học trong quy hoạch sử dụng đất là hệ thống thông
12


tin đại lý. Đây là phương pháp biểu diễn số hóa các dữ liệu không gian và phi không gian,
có khả năng cập nhật các biến đổi thực tế rất hữu dụng cho công tác quy hoạch sử dụng đất.
- Phương pháp dự báo: Dựa vào việc ứng dụng chuỗi biến động, phép ngoại suy toán học,
phương pháp chuyên gia.
- Ngoài ra, trong thực tế đôi khi người ta còn sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp điển hình: Chọn đối tượng có các chỉ tiêu đạt được cao nhất để nghiên cứu
các sự kiện. Hiện tượng làm điển hình chung cho các đối tượng có cùng điều kiện.
+ Phương pháp thực nghiệm: Bố trí thực nghiệm để phát hiện các quy luật khác nhau.
1.5. Nguyên tắc cơ bản trong quy hoạch sản xuất nông nghiệp

1.5.1. Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai
Nguyên tắc này là cơ sở cho mọi hoạt động và biện pháp có liên quan tới quyền sử
dụng đất, là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động quy hoạch sử dụng đất. Nó không
chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn là một vấn đề chính trị quan trọng. Bởi vì tài nguyên đất
đai đã được quốc hữu hóa là đối tượng sở hữu Nhà nước, đồng thời là một căn cứ quan
trọng để phát triển sức sản xuất, để củng cố và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong tất cả các ngành, đặc biệt là nông nghiệp. Do vậy, trong quá trình quy hoạch sử
dụng đất phải tuân theo các quy định của pháp luật, củng cố quan hệ đất đai xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ tính bất khả xâm phạm quyền sở hữu Nhà nước về đất đai, chấp hành triệt để
quyền sở hữu đất đai của Nhà nước. Luật pháp bảo vệ quyền bất khả xâm phạm quyền sử
dụng đất và tính ổn định của mỗi đơn vị sử dụng đất vì đó là cơ sở quan trọng nhất để phát
triển sản xuất. Quy hoạch sử dụng đất có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa các hành
vi xâm phạm xự toàn vẹn lãnh thổ của các đơn vị sử dụng đất. Khi quy hoạch sử dụng đất,
người ta đã lập nên đường ranh giới giữa các đơn vị sử dụng đất, giữa đất sản xuất nông
nghiệp với khu dân cư, giữa các chủ sử dụng đất với nhau, tức là đã xác định phạm vi quyền
lợi của mỗi chủ sử dụng đất. Nhà nước cho phép các chủ sử dụng đất có quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền
sử dụng đất... Quyền sử dụng đất của các chủ đất được xác định bằng các văn bản cụ thể và
được pháp luật bảo hộ.
1.5.2. Sử dụng đất tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ thiên nhiên
Đất đai có một đặc điểm rất quan trọng là nếu được sử dụng đúng và hợp lý thì chất
lượng đất sẽ ngày càng tốt lên. Tính chất đặc biệt này của đất đòi hỏi phải hết sức chú ý
trong việc sử dụng đất. Một trong những vấn đề bảo vệ đất quan trọng nhất là ngăn ngừa và
dập tắt quá trình xói mòn do nước và gió gây nên. Các quá trình xói mòn có tác hại rất lớn
đến sản xuất nông nghiệp. Do hậu quả của quá trình xói mòn và rửa trôi lớp đất mặt mà
hàng năm một lượng chất dinh dưỡng khổng lồ bị nước cuốn ra sông, rồi ra biển. Quá trình
xói mòn tầng nền đất tạo thành các khe xói, làm tăng tốc độ dòng chảy bề mặt của nước
13



mưa và lượng đất bị cuốn trôi sẽ bồi đắp gây hiện tượng bị tắc nghẽn dòng sông, gây sụt lở
ở những triền sông lớn thuộc vùng hạ lưu. Nạn xói mòn do gió gây ra cũng mang lại hậu
quả không nhỏ. Những trận bão gây ra những cơn lốc bụi, cát cuốn đi lớp đất màu mỡ trên
bề mặt , phá hoại hoa màu. Ở ven biển, lốc cát tấn công làng mạc, đồng ruộng làm thay đổi
địa hình, thay đổi các tính chất đất, đe dọa mùa màng, vùi lấp các nguồn nước, đường giao
thông. Xói mòn đất là một quá trình diễn ra mạnh mẽ và liên tục. Nếu không có các biện
pháp chống xói mòn một cách có hệ thống thì hậu quả của nó ngày càng lớn. Xói mòn sẽ
làm mất đi lớp đất mặt màu mỡ nhất. Khi tổ chức các biện pháp chống xói mòn cần tính đến
các đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, thủy văn từng vùng. Tổ hợp các biện pháp chống xói
mòn sẽ được giải quyết trong một đồ án quy hoạch có luận chứng khoa học. Ngày nay
người ta ứng dụng các biện pháp chống xói mòn sau:
- Biện pháp kinh tế tổ chức - Biện pháp kỹ thuật canh tác; - Biện pháp trồng rừng cải tạo Biện pháp kỹ thuật thủy lợi - Biện pháp khoa học Trong lĩnh vực bảo vệ đất, quy hoạch sử
dụng đất không chỉ làm nhiệm vụ chống xói mòn mà còn phải chống các quá trình ô nhiễm
đất, bảo vệ các yếu tố của môi trường thiên nhiên. Ô nhiễm đất cũng là một vấn đề đáng
quan tâm. Đất có thể bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, nước thải từ
nhà máy, nước thải sinh hoạt từ những đô thị lớn, ô nhiễm bởi các chất phóng xạ... Do vậy,
trong các đồ án quy hoạch sử dụng đất cần dự kiến các biện pháp chống ô nhiễm đất. Bảo vệ
và cải tạo thảm thực vật tự nhiên cũng là một nhiệm vụ quan trọng của quy hoạch sử dụng
đất. Thảm thực vật tự nhiên đặc biệt là rừng được coi là lá phổi của trái đất với chức năng
lọc sạch không khí, điều tiết nước, nhiệt độ, độ ẩm... Ngoài ra, nó còn là nguồn cung cấp
nguyên liệu công nghiệp, cung cấp các lâm sản quý hiếm và là nguồn thức ăn cho chăn nuôi
gia súc. Các hồ chứa nước cũng là đối tượng cần được bảo vệ. Các hồ lớn nằm giữa một
vùng đất nông lâm nghiệp có khả năng làm dịu bớt những đột biến của tiểu khí hậu trong
vùng, điều tiết chuyển động của các dòng không khí quanh khu vực hồ. Các hồ lớn và đẹp
còn là nơi nghỉ mát, an dưỡng, du lịch cho nhân dân, làm tăng vẻ đẹp cho các khu dân cư
ven hồ. Để tránh lãng phí, khi cấp đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, trong các đồ án quy
hoạch sử dụng đất phải bô trí hợp lý các công trình nhà ở và phục vụ sản xuất theo tinh thần
hết sức tiết kiệm đất.
1.5.3. Tổ chức phân bổ hợp lý quỹ đất cho các ngành
Khi phân bổ quỹ đất cho các ngành cần đảm bảo phù hợp với lợi ích của nền kinh tế

quốc dân nói chung và từng ngành nói riêng, trong đó ưu tiên cho nông nghiệp.
Quy hoạch sử dụng đất nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu đất đai cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Do vậy, trong quá trình xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất
phải căn cứ vào định hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân, tổng hợp và cân đối nhu
cầu sử dụng đất để phát triển của các ngành. Nhờ vậy, sẽ đảm bảo đạt được những chỉ tiêu
14


phát triển kinh tế xã hội được đề ra cho thời kỳ quy hoạch và xa hơn của nền kinh tế quốc
dân nói chung và từng ngành nói riêng.
Thực chất của việc thành lập một đơn vị sử dụng đất phi nông nghiệp chính là việc
lấy một khoảnh đất nào đó từ đất dự trữ quốc gia hoặc lấy từ đất nông lâm nghiệp để bố trí
một công trình phi nông nghiệp nào đó. Do ngành nông nghiệp có những yêu cầu rất đặc thù
trong quá trình sử dụng đất, vì vậy, trong quá trình phân bổ đất đai, trên cơ sở cân đối quỹ
đất cho quá trình phát triển, phải ưu tiên đất cho ngành nông nghiệp. Những diện tích đất
cấp cho các nhu cầu phi nông nghiệp nên lấy từ đất không sử dụng hoặc sử dụng có hiệu
quả kém trong nông nghiệp.
1.5.4. Tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ hợp lý
Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân xác định phương hướng và nhiệm vụ sản xuất
cho từng địa phương, từng ngành và từng đơn vị sản xuất nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội. Do vậy, quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra những điều kiện lãnh thổ hợp lý
để thực hiện nhưng nhiệm vụ kế hoạch của Nhà nước, của riêng ngành nông nghiệp và của
từng đơn vị sản xuất cụ thể. Trên cơ sở đó, có thể áp dụng các hình thức quản lý tiên tiến,
ứng dụng công nghệ mới, các tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, hiệu quả sử
dụng đất và hiệu quả lao động. Không thể tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất
trong nông nghiệp nếu như không tính đến quá trình lao động và không gắn nó với quá trình
sản xuất. Quy hoạch sử dụng đất phải được phối hợp chặt chẽ với việc tổ chức các ngành
trồng trọt, chăn nuôi trong xí nghiệp để tạo ra những điều kiện tốt nhất cho những ngành đó
phát triển để nâng cao năng suất lao động. Khi giải quyết mỗi nội dung của đồ án quy hoạch
sử dụng đất phải căn cứ vào yêu cầu tổ chức hợp lý sản xuất. Ví dụ như khi tổ chức và bố trí

sử dụng đất nông nghiệp và luân canh, trước hết cần dựa vào cơ cấu, quy mô và hướng
chuyên môn hóa của các ngành đã được xác định trước trong kế hoạch phát triển tương lai
và phải tính đến các tổ hợp nông - công nghiệp, các đơn vị sản xuất và chế biến nông sản.
Việc tổ chức sử dụng hợp lý đất đai phụ thuộc vào việc tổ chức sử dụng các tư liệu sản xuất
khác và toàn bộ quá trình sản xuất nói chung. Bên cạnh đó, việc sử dụng đất có ảnh hưởng
đến việc phát triển và bố trí các ngành nghề, đến việc tổ chức lao động và tăng năng suất lao
động, đến hiệu quả sử dụng các tư liệu sản xuất. Như vậy, đất đai chỉ có thể được tổ chức sử
dụng đúng và hợp lý trong trường hợp gắn nó với việc tổ chức sử dụng các tư liệu sản xuất
khác, với tổ chức lao động và quản lý đơn vị sản xuất.
Quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra các điều kiện để áp dụng các biện pháp kỹ thuật
nông nghiệp mới tiên tiến, có hiệu quả cao để nâng cao độ màu mỡ của đất và trình độ kỹ
thuật canh tác. Khi giải quyết nội dung của quy hoạch sử dụng đất cần dựa trên các hình
thức tổ chức lao động tiến bộ nhất, cơ giới hóa sản xuất tổng hợp, ứng dụng có hiệu quả
máy móc thiết bị, điện khí hóa nông nghiệp.
15


1.5.5. Phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng lãnh thổ
Mỗi vùng, mỗi đơn vị sử dụng đất đều có những đặc điểm khác biệt về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội. Nếu không tính đến điều đó thì không thể tổ chức sử dụng hợp lý đất
đai. Quy hoạch sử dụng đất phải đảm bảo điều kiện để sử dụng có hiệu quả từng tấc đất. Để
đạt được mục tiêu đó cần nghiên cứu kỹ các điều kiện tự nhiên như đặc điểm thổ nhưỡng,
đặc điểm địa hình, đặc điểm tiểu khí hậu, tính chất thảm thực vật tự nhiên, đặc điểm hệ
thống thủy văn, các điều kiện xã hội như dân số và lao động, mức độ trang bị về vốn và cơ
sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, mức độ phát triển khoa học kỹ thuật, khả năng áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất và sử dụng đất vì các nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn
đến việc sử dụng đất của vùng lãnh thổ, do chúng có khả năng xác định được công dụng của
đất cũng như có ảnh hưởng đến việc quyết định sử dụng đất vào mục đích cụ thể.

16



CHƯƠNG 2: NỘI DUNG QUY HOẠCH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
2.1. Khái quát về phát triển nông nghiệp bền vững
2.1.1. Phát triển và phát triển nông nghiệp bền vững
- Khái niệm phát triển
Phát triển được định nghĩa khái quát trong Từ điển Oxford là: “Sự gia tăng dần của
một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn...” . Trong Từ điển Bách khoa của Việt Nam,
phát triển được định nghĩa là: “Phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang
diễn ra trong thế giới”. Con người và mọi sự vật đều thay đổi theo thời gian, nhưng sự phát
triển được bao hàm cả khía cạnh thay đổi theo hướng đi lên, hướng tốt hơn tương đối. (Sự
phát triển theo hướng đi lên như vậy, trong Sinh học được gọi đó là phát triển tiến bộ hay
tiến hóa, và ngược lại là phát triển thoái bộ - thoái hóa).
- Khái niệm phát triển bền vững
Theo Khoản 4, điều 3, Luật bảo vệ môi trường 2005: Phát triển bền vững là phát triển
đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu
cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
- Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
Nông nghiệp bền vững là vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau quan tâm, như: nông học, sinh thái học, xã hội học… Hiện có nhiều định
nghĩa khác nhau, trong đó đáng quan tâm là định nghĩa của tổ chức sinh thái và môi trường
thế giới (WORD) bởi tính tổng hợp và khái quát cao: nông nghiệp bền vững là nền nông
nghiệp thoả mãn được các yêu cầu của thế hệ hiện nay, mà không giảm khả năng ấy đối với
các thế hệ mai sau.
Điều đó có nghĩa là nền nông nghiệp không những cho phép các thế hệ hiện nay khai
thác tài nguyên thiên nhiên vì lợi ích của họ mà còn duy trì được khả năng ấy cho các thế hệ
mai sau, cũng có ý kiến cho rằng sự bền vững của hệ thống nông nghiệp là khả năng duy trì
hay tăng thêm năng suất và sản lượng nông sản trong một thời gian dài mà không ảnh
hưởng xấu đến điều kiện sinh thái.

Như vậy, phát triển nông nghiệp bền vững là mô hình phát triển mà trong đó có sự
ràng buộc giữa bền vững về kinh tế hay sự tăng trưởng của nông nghiệp với môi trường tự
nhiên, sự nghèo đói, môi trường con người của nông dân và người dân nông thôn. Tức là
phải bền vững trên cả 3 khía cạnh: Bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về
môi trường.
2.1.2. Đánh giá thực trạng sản xuất nông nghiệp
2.1.2.1. Diện tích đất nông nghiệp
DT nhóm đất NN năm 2015 là 26.791,58 nghìn ha; bao gồm: Đất SXNN 10.305,44
17


nghìn ha, chiếm 38,46%, trong đó đất trồng CHN 6.379,00 nghìn ha, chiếm 23,81%; đất
trồng CLN 3.926,68 nghìn ha, chiếm 14,65%; Đất NTTS 749,11 nghìn ha, chiếm 2,26%;
Đất làm muối 16,70 nghìn ha, chiếm 0,62%; Đất NN khác 20,63 nghìn ha, chiếm 0,06%;
Đất LN 15.700,14 nghìn ha, chiếm 58,60%;
Bảng: Diện tích một số loại đất nông nghiệp
ĐVT: nghìn ha
Chỉ tiêu SDĐ
1. Đất nông nghiệp
1.1. Đất SX nông nghiệp
- Đất trồng cây hàng năm
Đất trồng lúa
- Đất trồng cây lâu năm
1.2. Đất lâm nghiệp
1.3. Đất nuôi trồng thủy sản
1.4. Đất làm muối
1.5. Đất nông nghiệp khác

Năm


Năm

2000

2005

20.388
8.794
6.167
4.468
2.259
11.575
700
21
15

24.822,6
9.415,6
6.370,0
4.165,0
3.045,5
14.677,1
700,0
14,1
15,5

Năm

Năm


2010

2015

26.197
10.118
6.437
4.128
3.680
15.346
690
17
25

So sánh (2015/2000)
DT
Tỷ lệ (%)

26.791,58 +6.403,58
10.305,00 +1.511,00
6.379,00 +212,00
4.030,75 -437,25
3.926,68 +1.667,68
5.700,14+4.125,14
749,11 +49,11
16,70
-4,30
20,63
+5,63


+31,41
+17,18
+3,44
-9,79
+73,82
+35,64
+7,02
-20,48
+37,53

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2000, 2005, 2010, 2015
- DT nhóm đất NN tăng từ 20.388 nghìn ha (2000) lên 26.791,58 nghìn ha (2015),
tăng + 6.403,58 nghìn ha, tăng 31,41%; trong đó: đất SXNN tăng từ 8.794 ha lên 10.305 ha,
tăng + 1.511 ha, tăng 17,18%
- DT đất trồng CHN tăng từ 6.167 nghìn ha (2000) lên 6.379 nghìn ha (2015), tăng
+212 nghìn ha, tăng +3,44%; DT đất trồng lúa giảm từ 4.468 ha xuống còn 4.030,75 ha,
giảm 437,25 nghìn ha, giảm 9,79%
- Đất trồng CLN tăng từ 2.259 nghìn (2000) ha lên 3.926,68 nghìn ha, tăng +
1.667,68 nghìn ha, tăng +73,82%
- DT đất LN tăng từ 11.575 nghìn ha (2000) lên 15.700,14 nghìn ha (2015), tăng
+4.125,14 nghìn ha, tăng +35,64%, trong đó đất rừng SX tăng từ 4.734 nghìn ha lên
7.840,91 nghìn ha, tăng +3.106,91 nghìn ha, tăng +65,63%; đất rừng phòng hộ tăng từ 5.398
nghìn ha lên 5.648,99 nghìn ha, tăng + 250,99 nghìn ha, tăng +4,65%; đất rừng đặc dụng
tăng từ 1.443 nghìn ha lên 2.210,25 nghìn ha, tăng +767,25 nghìn ha, tăng +53,17%.
- Nguyên nhân tăng:
+ Do khai hoang mở rộng diện tích chủ yếu là ở các vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long để trồng lúa, ở Đông Nam Bộ (ĐNB), ở Tây Nguyên (TN) để trồng các loại cây công
nghiệp như cà phê, cao su, hoa màu lương thực, ở các tỉnh Trung Du Miền Núi Bắc Bộ để
trồng chè, cây ăn quả...
+ Diện tích đất lâm nghiệp tăng chủ yếu do khoanh nuôi, bảo vệ rừng tốt hơn và do

thay đổi chỉ tiêu thống kê một số loại đất trước đây là đất chưa sử dụng.
18


- Nguyên nhân giảm:
+ Đất lúa có xu hướng giảm do chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản và trồng cây ăn
quả có hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiện nay đất lúa cả nước là 4.030,75 triệu ha, đủ đảm bảo
an ninh lương thực cho cả nước và xuất khẩu gạo hàng năm từ 3 - 5 triệu tấn.
+ Đất làm muối giảm do: chuyển sang nuôi trồng thủy sản và bị ngập.
2.2.2.2.Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
a. Tăng trưởng
Nông nghiệp Việt Nam bắt đầu đổi mới cơ chế quản lý kể từ sau Nghị quyết 10, với
mốc cải cách quan trọng là Khoán 10 (1988) nhằm vực dậy một nền nông nghiệp tự cung, tự
cấp, các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển đều bị trói chặt, quan hệ sở hữu, quản lý và
phân phối không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Giai đoạn sau đổi mới 1989 – 2010 đã ghi nhận thành tựu kinh tế - xã hội vượt bậc
của ngành nông nghiệp, thành công lớn nhất trong sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam.
Ba mươi năm qua, nông nghiệp, nông thôn vẫn đang và tiếp tục đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế. Đến nay, khoảng 70,4% dân số Việt Nam sinh sống tại khu vực
nông thôn, trên 60% số hộ gia đình dựa vào nông nghiệp làm hoạt động kinh tế chính và
trên 53% lao động thuộc khu vực nông nghiệp.
Sản xuất nông, lâm, thủy sản thời gian qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao,
giai đoạn 2000 - 2010 GDP ngành nông lâm thuỷ sản tăng bình quân 3,58%/năm, trong đó
nông lâm nghiệp tăng 3,08%, thuỷ sản tăng 7,16%/năm.
Bảng: Tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp giai đoạn 2000 – 2015 (Giá cố định)
Nguồn: Bộ NNPTNT, 2011

b. Chuyển dịch cơ cấu
Cơ cấu ngành nông lâm thuỷ sản chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp
và lâm nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thuỷ sản. Tuy nhiên ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ

trọng lớn trong cơ cấu GTSX ngành nông lâm thủy sản. Năm 2000 cơ cấu ngành nông lâm
thủy sản là: Nông nghiệp 79,1%, lâm nghiệp 4,7%, thủy sản 16,2%. Năm 2010 cơ cấu tương
ứng là: nông nghiệp 76,3%, lâm nghiệp 2,6%, thủy sản 21,1%. GTSX nông lâm thuỷ sản
(giá TT) năm 2010 đạt 692.956,8 tỷ đồng, trong đó nông nghiệp 528.738,9 tỷ đồng, lâm
nghiệp 18.244,9 tỷ đồng, thuỷ sản 145.973 tỷ đồng.
19


Bảng: Chuyển dịch cơ cấu GTSX ngành nông nghiệp giai đoạn 2000 – 2010

Nguồn: Bộ NNPTNT, 2011
2.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành
a. Ngành nông nghiệp
Trong những năm qua, ngành nông nghiệp đã có bước chuyển dịch cơ cấu theo
hướng tích cực: giảm tỷ trọng trồng trọt (từ 78,2% năm 2000 xuống còn 73,9% năm 2010),
tăng tỷ trọng chăn nuôi (từ 19,3% năm 2000 lên 24,5% năm 2010), ngành dịch vụ nông
nghiệp giảm từ 2,4% năm 2000 xuống còn 1,6% năm 2010. Ngành trồng trọt và chăn nuôi
đang hình thành nền sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ đồng thời nâng
cao giá trị thu nhập trên diện tích canh tác.
- Ngành trồng trọt, cơ cấu GTSX chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng GTSX rau
đậu, cây ăn quả, cây công nghiệp, giảm tỷ trọng GTSX cây lương thực.
- Ngành chăn nuôi chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng GTSX chăn nuôi gia súc,
giảm tỷ trọng GTSX gia cầm và sản phẩm không qua giết thịt.
- Ngành dịch vụ nông nghiệp: giá trị sản xuất dịch vụ nông nghiệp năm 2010 là 8.292
tỷ đồng (năm 2000 là 3.136 tỷ đồng), chiếm 1,6% trong cơ cấu GTSX nông nghiệp, tốc độ
tăng 2,77%/năm thời kỳ 2000 - 2010. Tham gia hoạt động dịch vụ chủ yếu là các HTX nông
nghiệp ngoài ra còn có các hộ gia đình, doanh nghiệp tham gia dịch vụ cung cấp vật tư nông
nghiệp, thu mua, chế biến nông, lâm sản. Trong những năm gần đây, hoạt động dịch vụ
nông nghiệp đã phát triển về số lượng và nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm đáp ứng yêu
cầu của sản xuất trong cơ chế thị trường. Ngoài dịch vụ thuỷ nông, vật tư kỹ thuật cung cấp

giống, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, thuốc thú y, đã xuất hiện dịch vụ làm đất, tuốt lúa, cấy
thuê… ở nhiều địa phương.
Bảng: Chuyển dịch cơ cấu GTSX nội ngành nông nghiệp giai đoạn 2000 – 2010 (Giá
thị trường)

20


Nguồn: Bộ NNPTNT, 2011
b. Ngành lâm nghiệp
Cơ cấu GTSX ngành lâm nghiệp thời kỳ 2000 - 2010 có chuyển dịch không rõ nét
theo hướng giảm tỷ trọng trồng và nuôi rừng và khai thác lâm sản, tăng nhẹ tỷ trọng dịch vụ
lâm nghiệp, cơ cấu GTSX năm 2000: trồng và nuôi rừng 14,7%; khai thác lâm sản 81,3%,
dịch vụ 4%, năm 2010 cơ cấu tương ứng là 14,5%; 74,9% và 5,6%.
Bảng: Chuyển dịch cơ cấu GTSX lâm nghiệp giai đoạn 2000 – 2010 (Giá thị
trường)

Nguồn: Bộ NNPTNT, 2011
c. Ngành thủy sản
Cơ cấu GTSX ngành thuỷ sản chuyển dịch theo hướng tăng mạnh cơ cấu GTSX
ngành nuôi trồng, giảm mạnh tỷ trọng GTSX ngành khai thác, cơ cấu GTSX (giá TT) năm
2000 là khai thác 55,6%, nuôi trồng 44,4%, năm 2010 cơ cấu tương ứng là 42,4% và 57,6%.
Bảng: Chuyển dịch cơ cấu GTSX chăn nuôi giai đoạn 2000 – 2010 (Giá thị trường)
(Giá thị trường)

21


Nguồn: Bộ NNPTNT, 2011
2.1.3. Định hướng phát triển nông nghiệp bền vững

2.1.3.1. Quan điểm phân bổ quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
Trong phương án Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến năm
2020 và tầm nhìn đến 2030 việc phân bổ quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
phải quán triệt các quan điểm sau:
1) Phát triển sản xuất nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) nâng cao
chất lượng, khả năng cạnh tranh, hiệu quả và tính bền vững của nền nông nghiệp.
2) Phát triển sản xuất nông nghiệp phải trên cơ sở đổi mới tư duy, tiếp cận thị trường, kết
hợp ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
đất, nước, nhân lực được đào tạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh
thái, để khai thác có hiệu quả lợi thế và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, mỗi địa phương.
3) Phát triển sản xuất nông nghiệp phải gắn kết chặt chẽ với công nghiệp bảo quản, chế biến
và thị trường tiêu thụ, tiếp tục hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung.
4) Phát triển sản xuất nghiệp phải gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông nghiệp,
nông thôn, điều chỉnh dân cư, cùng với nguồn nhân lực được đào tạo, đáp ứng yêu cầu sản
xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao.
5) Phát triển sản xuất nông nghiệp phải có hệ thống chính sách đảm bảo huy động cao các
nguồn lực xã hội, trước hết là đất đai, lao động, rừng và biển, phát huy sức mạnh hội nhập
quốc tế và sự hỗ trợ của nhà nước.
2.1.3.2. Định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp
a. Định hướng chung
Sản xuất kinh doanh nông nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững theo hướng phát huy lợi
thế so sánh, tăng năng suất, tăng chất lượng, tăng giá trị gia tăng, đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của nhân dân (Bộ NN và PTNT, 2009).
Duy trì tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt khoảng từ 2,5 - 3%/năm, trong đó
giai đoạn 2011 - 2015 là khoảng 2,7%/năm và giai đoạn 2016 - 2020 là khoảng 2,6%/năm
22


bằng các giải pháp tăng năng suất, tăng chất lượng, giảm giá thành, điều chỉnh cơ cấu phù

hợp xu hướng biến đổi nhu cầu tiêu dùng theo mức tăng thu nhập của nhân dân (giảm tỷ lệ
tiêu thụ lương thực, tăng rau hoa quả, tăng nông sản tiêu dùng từ cây công nghiệp, tăng cây
trồng làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, cây trồng làm nhiên liệu sinh học, nguyên liệu
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dược liệu...), duy trì quy mô sản xuất lương thực hợp
lý, đảm bảo nhu cầu an ninh lương thực cho mức dân số ổn định tương lai. Tập trung phát
triển các cây trồng nhiệt đới mà Việt Nam có lợi thế và thị trường thế giới phát triển trong
tương lai có nhu cầu (lúa, cà phê, cao su, điều, tiêu, chè, rau hoa quả nhiệt đới,…), giảm
thiểu những cây trồng kém lợi thế, chấp nhận nhập khẩu với quy mô hợp lý phục vụ chế
biến và nhu cầu tiêu dùng trong nước (bông, thuốc lá, rau hoa quả ôn đới, đỗ tương…) (Bộ
NN và PTNT, 2009).
Phát triển chăn nuôi theo lợi thế của từng vùng sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước theo hướng sản xuất tập trung công nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh mức tăng trưởng của ngành
chăn nuôi đạt khoảng 6 - 7% trong giai đoạn 2011 - 2015 và khoảng 5 - 6% trong giai đoạn
2016 - 2020 đáp ứng nhu cầu trong nước với mức thu nhập ngày càng tăng (tăng thịt đỏ,
tăng gia cầm, tăng trứng sữa, tăng sản phẩm đặc sản,…), theo hướng phát triển sản xuất
thâm canh công nghiệp quy mô lớn, tăng nhanh hiệu quả sản xuất, giảm giá thành thức ăn
chăn nuôi phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, làm tốt công tác vệ sinh an toàn và kiểm
dịch động vật. Tập trung phát triển những ngành hàng có lợi thế ở từng địa phương. Xác
định rõ quy mô tự túc tối ưu và mức độ nhập khẩu cần thiết những sản phẩm mà nước ngoài
có lợi thế hơn (sữa, bò, gà, sản phẩm chăn nuôi ôn đới,…) để tập trung đầu tư và phát triển
công nghiệp chế biến (Bộ NN và PTNT, 2009).
Tạo bước phát triển đột phá, tăng tỷ trọng của ngành thủy sản trong cơ cấu ngành.
Tập trung phát triển nuôi trồng, nhất là nuôi thủy sản nước lợ và sau đó là nước ngọt, mở
rộng nuôi trồng trên biển theo hướng đầu tư thâm canh tăng năng suất, tăng hiệu quả, đảm
bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân bằng sinh thái môi trường. Chuyển sang đánh bắt biển xa
theo hướng khai thác bền vững, kết hợp kinh tế - quốc phòng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất
ngành Thủy sản đạt khoảng 10,5%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và 11-12%/năm giai
đoạn 2016 - 2020. Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo bằng các loài hải sản
có giá trị thương mại cao (cá biển, tôm hùm, bào ngư,…), phát triển nuôi trồng thủy sản

nước ngọt với đối tượng nuôi chính là cá tra, rô phi đơn tính, tôm càng xanh; nuôi trồng
thủy sản nước lợ chủ yếu là tôm sú và tôm chân trắng. Phát triển khai thác hải sản xa bờ,
viễn dương, xây dựng đội tàu hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, kết hợp đánh bắt với du
lịch, quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội tại các vùng ven biển, hải đảo… bảo vệ nguồn lợi
tự nhiên và cân bằng sinh thái môi trường. Tổ chức lại hệ thống nhà máy chế biến đạt trình
23


độ công nghệ tương đương các nước phát triển, theo hướng đảm bảo vệ sinh an toàn, đa
dạng hóa sản phẩm, tăng giá trị gia tăng, gắn với vùng sản xuất nguyên liệu tập trung (Bộ
NN và PTNT, 2009).
Ổn định cơ cấu rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Quản lý, sử dụng bền vững
diện tích rừng tự nhiên là rừng sản xuất hiện có, thay thế các diện tích kém hiệu quả bằng
rừng trồng có năng suất cao, tạo vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh có quy mô vừa và
lớn, đáp ứng tiêu chí vững bền, cung cấp phần quan trọng nguyên liệu gỗ cho công nghiệp
chế biến và nhu cầu của ngành tiểu thủ công nghiệp, đưa lâm nghiệp thực sự trở thành
ngành kinh tế có hiệu quả cao. Cải thiện tốc độ phát triển và mở rộng tỷ trọng của ngành
lâm nghiệp trong tăng trưởng ngành, phấn đấu đến năm 2020 tốc độ tăng trưởng giá trị sản
xuất lâm nghiệp đạt khoảng 3,5 - 4%, tỷ trọng GDP lâm nghiệp trong tổng GDP đạt khoảng
2 - 3%; từng bước tạo ra thu nhập từ rừng cho các đối tượng trồng và bảo vệ rừng. Tập trung
ưu tiên phát triển sản xuất lâm sản ngoài gỗ. Phát triển trồng cây phân tán phục vụ nhu cầu
đa dạng ngày càng tăng. Đầu tư phát triển rừng phòng hộ trên địa bàn đầu nguồn, nhạy cảm
môi trường ở miền núi phía Bắc, miền Trung, ở các vùng ven biển. Củng cố, phát triển hệ
thống rừng đặc dụng, bảo tồn nguyên trạng đa dạng sinh học, phát triển hệ sinh thái đáp ứng
mục tiêu hàng đầu về môi trường và thực hiện các nhiệm vụ phối hợp như du lịch, nghiên
cứu (Bộ NN và PTNT, 2009).
b. Ngành trồng trọt
- Phát triển sản xuất lúa gạo Việt Nam trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn có
hiệu quả và đảm bảo an ninh lương thực
Trên cơ sở tính toán cân đối giữa nhu cầu tương lai của đất nước và dự báo nhu cầu

chung của thế giới nhằm đảm bảo tuyệt đối an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình
huống, đảm bảo quyền lợi hợp lý của người sản xuất và kinh doanh lúa gạo và xuất khẩu có
lợi nhuận cao, đảm bảo sản lượng lúa đến năm 2020 đạt hơn 41 triệu tấn lúa trên diện tích
canh tác 3,7 triệu ha.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất có lợi thế nhất về lúa gạo cần ưu tiên đầu tư
phát triển sản xuất lúa hàng hóa quy mô lớn. Hình thành hệ thống các trang trại sản xuất lúa,
tạo nên vùng chuyên canh sản xuất lúa nguyên liệu phục vụ các trung tâm chế biến lớn ở Tứ
giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Bán đảo Cà Mau… Xác định diện tích có khả năng
thích nghi cao nhất với sản xuất lúa, quy hoạch cố định để chuyên canh lúa đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia. Áp dụng hệ thống chính sách bù đắp thu nhập cho vùng này nhằm
hoàn toàn đảm bảo nhu cầu trong nước (ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông
Hồng).
Những khu vực có khả năng thích nghi cao, ngoài diện tích tối thiểu cần duy trì cho an
ninh lương thực, được ưu tiên xây dựng thành vùng chuyên canh phục vụ xuất khẩu. Cố
24


định quy hoạch cho vùng chuyên canh nhưng quy mô sản xuất hàng năm có thể thay đổi tùy
thuộc vào hiệu quả sản xuất lúa trên thị trường nhằm sản xuất lượng gạo xuất khẩu từ 3,5
đến 4,5 triệu tấn/năm. Người sản xuất tại các vùng này được hỗ trợ để chủ động áp dụng các
giải pháp thay thế hệ thống canh tác (mà không làm biến đổi lớn đến cơ sở hạ tầng và tính
chất đất lúa) khi thị trường lúa thu hẹp như nuôi trồng thủy sản, luân canh với cây trồng
khác, hoặc tăng vụ khi thị trường lúa gạo mở rộng.
Giống lúa và biện pháp canh tác phải đáp ứng nhu cầu trong nước và các thị trường xuất
khẩu chính. Đảm bảo nâng cao chất lượng và hạ giá thành để tạo sức cạnh tranh. Ưu tiên
xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất lúa tại các vùng chuyên canh: hệ thống
phơi sấy, xay xát có đủ công suất chế biến và kho tàng dự trữ lúa gạo đủ lớn để tạm trữ phục
vụ kinh doanh, sàn giao dịch lúa gạo cho vùng, hệ thống cung cấp giống và các dịch vụ
phục vụ sản xuất, kiên cố hóa hệ thống kênh mương thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu chủ động.
Phát triển Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long thành Viện Nghiên cứu lúa gạo Việt Nam.

Nâng cấp cảng Cái Lân (Cần Thơ) để vận chuyển lúa trực tiếp ra tàu biển.
Quy hoạch các vùng chuyên canh phục vụ nhu cầu trong nước tại các vùng sản xuất có
lợi thế so sánh cao về trồng lúa nhưng mật độ dân số cao hơn, quy mô sản xuất nhỏ hơn ở
Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung. Giống và giải pháp kỹ thuật hướng vào đảm
bảo chất lượng cao, phù hợp thị hiếu của người Việt Nam. Ưu tiên khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư sản xuất lúa ưu thế lai trong nước có chất lượng cao và giá thành hạ với hệ
thống phân phối lúa giống thương phẩm ổn định đến người sản xuất. Phát triển hệ thống
phân phối lưu thông để ưu tiên phục vụ thị trường trong nước. Cải tiến công tác dự báo
giám sát, điều hành thị trường và tổ chức xuất khẩu lúa gạo theo hướng phát huy cơ chế thị
trường. Xây dựng thương hiệu mũi nhọn và thị trường chiến lược cho lúa gạo Việt Nam.
Gắn nhà máy chế biến với các vùng chuyên canh lúa, phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục
vụ sản xuất, các hình thức tổ chức sản xuất, xúc tiến thương mại, quản lý thị trường để đảm
bảo phát triển sản xuất với quy mô và công nghệ hợp lý nhất.
- Phát triển cây trồng hàng hóa có khả năng cạnh tranh mạnh, hiệu quả cao phục vụ
thị trường trong nước và xuất khẩu
Dựa trên cơ sở cân đối cung cầu, phát huy lợi thế của địa phương, tập trung xây dựng
các chương trình phát triển ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam với các thương hiệu quốc
gia cho các cây trồng Việt Nam hiện đang có lợi thế so sánh và thị trường có nhu cầu (cà
phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su, rau, chè...) và những mặt hàng có lợi thế tiềm năng (cây ăn
quả, cây dược liệu,…). Có cơ chế tài chính để hình thành quỹ triển khai các chương trình
phát triển ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam cho các đối tượng thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau tham gia chương trình.
Hình thành hệ thống giám sát cung và chính sách điều tiết để duy trì sản lượng trong
25


×