Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Vấn đề phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24 KB, 168 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGÔ THỊ NỤ

VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÁ NHÂN
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGÔ THỊ NỤ

VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÁ NHÂN
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS,TS. TRẦN VĂN PHÒNG

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả

Ngô Thị Nụ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI

1.1. Các nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về phát triển năng lực
cá nhân con người Việt Nam
1.2. Các nghiên cứu liên quan đến thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong
việc phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam trong điều kiện
hội nhập quốc tế hiện nay
1.3. Các nghiên cứu liên quan đến quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm
phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế hiện nay
1.4. Giá trị của các công trình nghiên cứu đã tổng quan và những vấn đề đặt ra

cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm
Chương 2: PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÁ NHÂN CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam - khái niệm, thực chất và
những nhân tố ảnh hưởng
2.2. Hội nhập quốc tế, tác động và yêu cầu của nó đối với phát triển năng lực
cá nhân con người Việt Nam
Chương 3: PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÁ NHÂN CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ THỜI GIAN QUA - THỰC TRẠNG
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng của việc phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế thời gian qua
3.2. Vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế thời gian qua
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC CÁ NHÂN CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

4.1. Một số quan điểm nhằm phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát triển năng lực cá nhân con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

5

17

21
25
29
29
55

78
78
103

114
114
120
149
151
152


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau,
trong đó có triết học. Hiện nay, nghiên cứu con người càng trở nên quan trọng, vì
con người là chủ thể của mọi sự sáng tạo giá trị vật chất, tinh thần và là trọng tâm
trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người là trung tâm của mọi
chính sách kinh tế - xã hội. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực
con người được xem là yếu tố quyết định so với các nguồn lực khác, nguồn lực
con người vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Do đó, vấn đề
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có việc phát
triển năng lực cá nhân con người là vấn đề quan trọng, không chỉ nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế mà còn là cơ sở, điều kiện
bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế chúng ta có nhiều cơ hội mới, nhưng
cũng có không ít những thách thức và những yêu cầu mới đối với sự phát triển của
con người. Hội nhập quốc tế làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động,
nhưng cũng làm cho thị trường lao động mang tính quốc tế hóa rất cao; chuyên
môn của người lao động cũng được nâng lên; tính phức tạp và yêu cầu của công
việc càng cao; mức độ cạnh tranh ở thị trường lao động, môi trường làm việc ngày
càng gay gắt hơn; môi trường xã hội ngày càng phức tạp,… buộc năng lực con
người Việt Nam phải được phát triển. Điều đó càng đòi hỏi mỗi cá nhân con người
Việt Nam phải có năng lực toàn diện mới có thể đáp ứng được yêu cầu. Đó không
chỉ là năng lực về trí tuệ, năng lực chuyên môn, mà còn là năng lực thích ứng,
năng lực sáng tạo, năng lực tự học, năng lực hòa nhập trong cộng đồng đa văn
hóa, v.v.. Do đó, ngày nay, phát triển toàn diện con người cũng có nghĩa là phải
chú trọng đến phát triển toàn diện năng lực của từng cá nhân con người. Phát triển
năng lực con người Việt Nam hiện nay vừa phải đáp ứng yêu cầu của thời đại vừa
phải phù hợp với các định hướng giá trị xã hội và khả năng thực tế của con người
Việt Nam…


2

Sự chuyển biến vô cùng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, của kinh tế tri thức, cùng với những biến đổi thuận nghịch của nền kinh tế

thị trường, của hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đã làm biến chuyển mạnh mẽ những
điều kiện kinh tế - xã hội, kéo sự biến chuyển trong năng lực cá nhân con người
Việt Nam theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Trước yêu cầu ngày càng cao
của thời kỳ hội nhập quốc tế, năng lực của cá nhân con người Việt Nam nhìn
chung vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng. Điều đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, trong đó có phát triển toàn diện năng lực
cá nhân con người Việt Nam đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế.
Không những thế, ở nước ta những năm qua, quan niệm về phát triển năng
lực cá nhân con người thường được hiểu ở phạm vi hẹp như phát triển năng lực
chuyên môn nghề nghiệp và những năng lực bẩm sinh sẵn có. Còn một số những
năng lực như năng lực thích nghi, năng lực làm việc và hòa nhập trong cộng
đồng đa văn hóa, năng lực sáng tạo... ít được đề cập. Vì vậy, vấn đề phát triển
năng lực cá nhân con người Việt Nam cũng chưa được chú trọng đúng mức.
Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có sự nghiên cứu lý luận về phát triển năng lực
cá nhân, vai trò của những năng lực cá nhân này trong điều kiện hội nhập để có
những giải pháp phát triển thích hợp. Từ những lý do trên cho thấy, việc nghiên
cứu “Vấn đề phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam trong điều kiện
hội nhập quốc tế hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển năng lực cá nhân con người Việt
Nam và phân tích thực trạng phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam hiện
nay, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển năng lực cá
nhân con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau:
+ Tổng quan các công trình khoa học tiểu biểu liên quan phát triển năng lực
cá nhân con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.



3

+ Phân tích làm rõ lý luận về phát triển năng lực cá nhân; thực chất của việc
phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam; yêu cầu của hội nhập quốc tế đối
với phát triển các năng lực cá nhân con người Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam hiện
nay và chỉ rõ một số vấn đề đặt ra từ thực trạng này.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển năng lực
cá nhân con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu phát triển năng lực cá nhân con người
Việt Nam nói chung. Khi xem xét năng lực cá nhân, tác giả luận án giới hạn đối
tượng là những cá nhân con người đã trưởng thành, trong độ tuổi lao động (từ 15
tuổi trở lên) và kể cả những người hết tuổi lao động nhưng vẫn còn đủ sức khỏe và
năng lực để cống hiến cho xã hội.
Trong khuôn khổ luận án chỉ nghiên cứu việc phát triển một số năng lực cụ
thể phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. (Phát triển nhóm năng lực nhận thức mà
biểu hiện tập trung ở năng lực trí tuệ trong điều kiện hội nhập quốc tế; phát triển
nhóm năng lực hoạt động thực tiễn biểu hiện rõ nét ở phát triển năng lực làm việc
và phát triển năng lực sống trong điều kiện hội nhập quốc tế).
- Phạm vi nghiên cứu: Năng lực cá nhân con người Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế hiện nay. Về thời gian: từ bắt đầu đổi mới năm 1986, đặc
biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước Việt Nam về con người và phát triển con người. Đề tài tiếp thu, kế
thừa có chọn lọc những giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu đã công bố
liên quan đến nội dung của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án sử dụng tổng hợp các


4

phương pháp: phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch, đối chiếu, so sánh… để
thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ những khái niệm cơ bản như: năng lực, năng lực cá
nhân, phát triển năng lực cá nhân con người, tác động và yêu cầu của hội nhập
quốc tế đối với việc phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam.
- Phân tích chỉ ra được mặt tích cực và những vấn đề đặt ra cần phải giải
quyết trong việc phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế trong thời gian qua.
- Đề xuất được một số quan điểm và giải pháp có tính khả thi, phù hợp thực
tiễn nhằm phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận, ở một mức độ nhất định, đề tài có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy một số chuyên đề triết học về con người và
phát triển con người; đồng thời, làm cơ sở phương pháp luận cho việc đi sâu
nghiên cứu năng lực con người.
- Về mặt thực tiễn, đề tài cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển con người, phát triển nguồn nhân
lực ở Việt Nam nói chung và ở các tỉnh, thành phố nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục các công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 10 tiết.



5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÁ NHÂN CON NGƯỜI VIỆT NAM

1.1.1. Các công trình liên quan đến năng lực, năng lực cá nhân, phát
triển năng lực cá nhân và thực chất của phát triển năng lực cá nhân con người
Việt Nam
Đối với các nghiên cứu nước ngoài, ở mỗi một góc độ, quan niệm về năng
lực, phát triển năng lực được tiếp cận ở nhiều chiều cạnh khác nhau từ tâm lý học,
xã hội học, kinh tế học, giáo dục học...
Trong nhiều công trình nghiên cứu, khái niệm năng lực và phát triển năng
lực cũng được các nhà nghiên cứu luận giải ở các góc nhìn khác nhau. Có thể kể
đến Amartya Sen là người đầu tiên đưa ra cách tiếp cận năng lực (Capabiltty
Approach) trong nhiều công trình nghiên cứu của mình như Equality of what?;
Commodities and Capabilities; The Standard of Living; Development as
Freedom,... Cách tiếp cận của ông được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực phát triển
con người. A.Sen cho rằng sự thịnh vượng của con người nên được đánh giá theo
sự vận hành chức năng của con người, đó là người đó có năng lực thực sự hay
không và có thể làm gì. Theo A.Sen, năng lực là tổ hợp khả năng thực hiện các
chức năng (hay đạt được các chức năng). Nói cách khác, năng lực là sự tự do hiện
thực mà con người được thụ hưởng để cuộc sống có ý nghĩa [153, tr.97]. Một người
có thể có nhiều năng lực (hoặc nhiều quyền tự do) thay vì chỉ có một. Con người
càng có năng lực thì càng có cơ hội lựa chọn hơn. Phát triển con người được coi là
quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và năng lực cho con người. Bởi vậy, phát triển
con người, theo A.Sen, đó chính là sự phát triển năng lực cho con người.
Đề cập đến tính định lượng của năng lực, Howard Gardner cho rằng: “Năng

lực phải được thể hiện thông qua hoạt động có kết quả và có thể đánh giá hoặc đo
đạc được” [149, tr.11]. Với F.E.Weinert, “Năng lực là những kỹ năng, kỹ xảo học
được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự


6

sẵn sàng về động cơ, xã hội và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một
cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt” [156, tr.12].
Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc UNDP lại đưa ra khái niệm năng lực
chung cho tất cả cá nhân, tổ chức và xã hội: “năng lực” là khả năng của cá nhân, tổ
chức và xã hội để thực hiện chức năng, giải quyết vấn đề, thiết lập và đạt được mục
tiêu một cách bền vững. Do đó, “Phát triển năng lực là quá trình mà thông qua đó,
các năng lực của con người được hình thành, được tăng cường, thích nghi và duy trì
theo thời gian” [154].
Theo Joe Bolger - Tư vấn của Cơ quan phát triển quốc tế Canada, trong bài
“Phát triển năng lực - Tại sao, Phát triển cái gì và Phát triển như thế nào”, năng
lực được hiểu là “khả năng, kỹ năng, sự hiểu biết, thái độ, các giá trị, các mối quan
hệ, hành vi, động lực, nguồn lực và điều kiện cho phép các cá nhân, tổ chức, ngành
nghề và hệ thống xã hội rộng lớn hơn để thực hiện các chức năng và đạt được mục
tiêu phát triển của họ theo thời gian” [150, tr.2]. Theo tác giả, phát triển năng lực
bao gồm nhiều “phương pháp tiếp cận và chiến lược” nhằm cải thiện khả năng ở
các mức độ khác nhau, không có một phương pháp chung duy nhất để phát triển
năng lực. Mục tiêu của phát triển năng lực là nhằm: tăng cường, hoặc sử dụng một
cách hiệu quả hơn các kỹ năng, khả năng và các nguồn lực; tăng cường sự hiểu biết
và mối quan hệ; định hướng các giá trị, thái độ, động cơ và điều kiện để hỗ trợ phát
triển bền vững.
Bài viết “Phát triển năng lực: Định nghĩa, vấn đề và gợi ý cho kế hoạch, giám
sát và đánh giá” của Charles Lusthaus, Marie-hélène Adrien, Mark Perstinger là một
phần của loạt bài viết và các hoạt động được thực hiện bởi UNICEF và UNDP trong

nỗ lực để làm rõ sự phát triển năng lực theo giai đoạn và cách thức để lập kế hoạch,
kiểm tra và đánh giá các hoạt động phát triển năng lực. Trong bài viết này, các tác giả
đã dẫn ra nhiều định nghĩa khác nhau về phát triển năng lực, xây dựng năng lực hay
tăng cường năng lực. Tuy nhiên, các khái niệm này chỉ đề cập đến phát triển năng lực
nói chung cho tổ chức, tập thể hay xã hội, chứ chưa đề cập đến sự phát triển năng lực
của cá nhân con người cụ thể. Chẳng hạn, “Xây dựng năng lực là một quá trình mà
các cá nhân, các nhóm, các tổ chức, các đoàn thể xã hội tăng cường khả năng của
mình để xác định và đáp ứng được các yêu cầu phát triển một cách bền vững”
(CIDA); Phát triển năng lực: “Trong quá trình đó nhóm người, tổ chức, thể chế và xã


7

hội nâng cao khả năng của mình: để thực hiện các chức năng giải quyết vấn đề và đạt
được mục tiêu đề ra, để nhận thức và đáp ứng được nhu cầu phát triển của họ trong
một phạm vi rộng một cách bền vững” (UNDP) [146, tr.5];…
Theo Ủy ban Chuyên gia về Hành chính công của Liên Hợp quốc, “Phát
triển năng lực là quá trình mà các cá nhân, tổ chức, thể chế và xã hội phát triển khả
năng để thực hiện các chức năng, giải quyết các vấn đề, đặt ra và đạt được các mục
tiêu” [145, tr.7-8]. Nó được thể hiện ở ba cấp độ: cá nhân, tổ chức và xã hội. Ở cấp
độ cá nhân, phát triển năng lực liên quan đến việc thiết lập các điều kiện theo đó
con người có thể tham gia vào một quá trình liên tục học hỏi và thích nghi với thay
đổi - xây dựng trên nền tảng kiến thức, kỹ năng hiện có và tăng cường, sử dụng
chúng trong những hướng đi mới.
Cách tiếp cận phát triển năng lực ở 3 cấp độ cũng được tác giả David Potten
chỉ ra trong bài viết: “Chương trình vừa học vừa làm: Quỹ Phát triển chính sách và
nguồn nhân lực Nhật Bản và vấn đề phát triển năng lực”. Đó là, phát triển năng lực
cá nhân, phát triển năng lực của tổ chức và phát triển năng lực của xã hội (môi
trường hoạt động). Theo tác giả, phát triển năng lực cá nhân là nhằm: Nâng cao kiến
thức cho con người, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành; Tăng cường

năng lực kỹ thuật, công nghệ; Nâng cao kỹ năng làm việc trong những điều kiện
làm việc khác nhau (năng lực làm việc nhóm, năng lực thích ứng…) [147, tr.7-8].
Ngoài ra, có thể kể đến các nghiên cứu của Samuel Otoo, Natalia Agapitova
và Joy Behrens với bài viết “Khung kết quả phát triển năng lực. Một cách tiếp cận
chiến lược và phát triển năng lực theo định hướng kết quả học tập” [152]; Chương
trình phát triển Liên Hợp quốc với một số nghiên cứu: “Đo lường năng lực” [155];
Peter Morgan với bài “Năng lực và phát triển năng lực - Một số chiến lược” [151];
v.v.. Có thể thấy, đã có rất nhiều nghiên cứu của các học giả nước ngoài đề cập tới
năng lực và phát triển năng lực. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chủ yếu đề cập tới
khía cạnh năng lực và phát triển năng lực cho tổ chức, tập thể, hoặc sử dụng chung
khái niệm năng lực và phát triển năng lực cho cả cá nhân và tổ chức. Số công trình có
nghiên cứu về năng lực cá nhân và phát triển năng lực cá nhân còn khá khiêm tốn.
Đối với những nghiên cứu trong nước, năng lực và phát triển năng lực cũng
được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều công trình nghiên cứu trên sách,
tạp chí, đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án...


8

Dưới góc độ tâm lý học, năng lực được quan niệm là một tổ hợp đặc điểm
tâm lý cá nhân, hay là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của con người. Chẳng
hạn: Chương trình Khoa học công nghệ nhà nước KX07-18 về năng khiếu và tài
năng trong giai đoạn từ 1992-1995 với các đề tài nhánh, trong đó các đề tài nghiên
cứu đều đề cập tới năng lực là “một tổ hợp đặc điểm tâm lý của con người, tổ hợp
này vận hành theo một mục đích nhất định, nó cho phép con người giải quyết được
ở mức này hay mức khác một hay nhiều yêu cầu mới của cuộc sống” [130, tr.7].
Tác giả Phạm Minh Hạc trong cuốn sách “Một số vấn đề Tâm lý học” đã cho
rằng: “Năng lực chính là một tổ hợp đặc điểm tâm lý của một con người (còn gọi là
tổ hợp thuộc tính tâm lý của nhân cách), tổ hợp đặc điểm này vận hành theo một
mục đích nhất định, tạo ra kết quả của một hoạt động nào đấy”, hay: Năng lực là

các đặc điểm tâm lý cá biệt tạo thành điều kiện quy định tốc độ, chiều sâu, cường độ
của việc tác động và đối tượng lao động”. Theo tác giả, “nói đến năng lực là nói đến
xu thế có thể đạt tới một kết quả nào đó của một công việc nào đó do một con người
cụ thể tiến hành: năng lực học tập, năng lực lao động, năng lực thụ cảm thẩm mỹ...
[42, tr.146]. Tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt giữa năng lực, năng khiếu, khả năng,
tài năng, phân tích cấu trúc của năng lực, cũng như sự hình thành và phát triển của
năng lực.
Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn trong “Tâm lí học đại cương” cho
rằng: “Năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với
những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn
thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy” [118, tr.11]. Các tác giả cũng
cho rằng, năng lực của mỗi người một phần dựa trên cơ sở tư chất. Nhưng điều chủ
yếu là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con
người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Việc hình thành và phát
triển các phẩm chất nhân cách là phương tiện có hiệu quả nhất để phát triển năng lực.
Cùng quan niệm năng lực là “một tổ hợp những thuộc tính tâm lý” và là
một yếu tố của nhân cách (mặt tài của nhân cách), tác giả Nguyễn Ngọc Bích
trong “Tâm lý học nhân cách - Một số vấn đề lý luận” nhấn mạnh: khi nói đến
năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả trong hoạt động nào đó. Tác giả chỉ
ra các mức độ của năng lực, phân loại năng lực… Trên cơ sở lý luận về năng lực,


9

tác giả phân tích những điều kiện xã hội của phát triển năng lực. Theo đó, sự phát
triển năng lực gắn liền với sự phân chia lao động (hoạt động lao động), với các
quan hệ xã hội (hình thái giao tiếp của cá nhân) và sự phát triển của nền văn hóa
xã hội [2, tr.250, 262-266].
Tác giả Lê Thị Bừng và Nguyễn Thị Vân Hương trong sách “Mỗi người
tiềm ẩn một tài năng”, cũng cho năng lực là “tổng hợp những thuộc tính độc đáo

của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định,
nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy” [10,
tr.10]. Tác giả cho rằng năng lực là mặt tài trong cấu trúc nhân cách con người. Dựa
theo các góc độ nghiên cứu mà có các cách phân loại năng lực khác nhau: theo
nguồn gốc phát sinh thì có năng lực tự nhiên và năng lực xã hội; theo mức độ
chuyên nghiệp của năng lực thì có năng lực chung, năng lực riêng, năng lực học tập,
nghiên cứu, năng lực sáng tạo.
Dưới góc độ giáo dục học, vấn đề năng lực được gắn với năng lực hành
động, là khả năng đạt được hiệu quả trong hành động. Việc phát triển năng lực đã
được quan tâm triển khai áp dụng trong dạy học ở các mặt: phát triển năng lực tư
duy, năng lực sáng tạo, năng lực thích ứng nghề, năng lực tự học, năng lực giải
quyết vấn đề… cho đối tượng cụ thể như học sinh trung học phổ thông, hay sinh
viên các trường đại học, cao đẳng. Việc phát triển năng lực theo quan niệm giáo dục
học thông qua dạy học được hiểu đồng nghĩa với phát triển năng lực hành động.
Bùi Thị Hường trong bài “Kích thích năng lực tư duy người học” cho rằng,
năng lực là “khả năng bên trong của mỗi con người, khả năng tạo ra một sức mạnh
vượt trội với nhóm, với cộng đồng, biết làm chủ bản thân và lôi cuốn người khác
vào hoạt động đạt hiệu quả cao” [51, tr.186]. Theo tác giả, năng lực người học là
một khái niệm không đơn giản. Đó là một tổ hợp cấu trúc đa tuyến có thể kể đến
các thành tố trong cấu trúc đó như sau: Năng lực là trình độ người học đạt đến một
học vấn nhất định; Năng lực là khát vọng, ý chí vươn lên của người học sẵn sàng
đón nhận kiến thức mới; Năng lực là khả năng biến Tri thành Hành tức là biết dùng
vốn tri thức đã thu nạp được để giải quyết các yêu cầu thực tiễn theo luật tối ưu.
Trong hai nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuấn với chuyên đề bồi
dưỡng sư phạm “Tài liệu học tập về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp”
[134, tr.7-10] và tác giả Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường với “Một số vấn đề


10


chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông” đều sử dụng
chung một cơ sở lý luận dựa theo Chương trình dạy học định hướng phát triển năng
lực. Theo đó, “Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều
yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách
nhiệm”; và năng lực là: “khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành
động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống khác nhau thuộc các
lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và
kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động” [24, tr.28].
Ngoài ra, trong một số công trình như “Phát triển năng lực độc lập sáng tạo
của sinh viên đại học kĩ thuật thông qua dạy học Hoá hữu cơ” của Đinh Thị Hồng
Minh [77] và “Năng lực thích ứng nghề của sinh viên sư phạm - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Dương Thị Nga [79] cũng nhấn mạnh quan niệm năng lực
dưới góc độ giáo dục học được thể hiện ở kết quả hoạt động của cá nhân. Năng lực
là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động, giải quyết các
nhiệm vụ, vấn đề thuộc lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong những tình
huống khác nhau trên cơ sở kết hợp sự hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm, và,
việc phát triển năng lực thông qua dạy học được hiểu đồng nghĩa với phát triển
năng lực hành động;...
Khác với các cách tiếp cận trên, dưới góc độ triết học, năng lực, phát triển
năng lực lại được coi như một mặt, một yếu tố trong phát triển con người; một
yếu tố cấu thành nên phẩm chất hay nhân cách của con người. Do vậy, phát triển
năng lực được xem xét ở nhiều đối tượng cụ thể khác nhau, trong các lĩnh vực
khác nhau...
Đề cập đến năng lực như là một yếu tố cấu thành nhân cách, phẩm chất con
người, có thể kể đến Phạm Văn Nhuận. Trong bài viết “Một cách tiếp cận về cặp
phạm trù điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan” của Phạm Văn Nhuận đề cập
đến năng lực với tư cách là một trong các yếu tố tạo thành phẩm chất của chủ thể.
Theo tác giả, năng lực của chủ thể được phân chia theo nhiều loại, tùy theo các góc
độ khác nhau, có thể chia năng lực gồm: năng lực nhận thức (trí tuệ); năng lực hoạt
động thực tiễn; năng lực sáng tạo hay năng lực tái tạo…; chia năng lực theo các bậc

thang nhận thức có năng lực cảm giác, tri giác, biểu tượng, ghi nhớ; theo phương


11

pháp thao tác lại có năng lực phân tích, năng lực tổng hợp, trừu tượng, khái quát
[84, tr.59], v.v..
Cùng cách tiếp cận này, có thể kể đến một số luận án Tiến sĩ Triết học
như: “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam
trong điều kiện đổi mới hiện nay” của Lê Thị Thủy [117]; “Giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu
vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” của Phạm Huy Thành
[109]. Trong đó, các tác giả đã nhấn mạnh tính chủ thể của năng lực, đề cập đến
năng lực như là một bộ phận của nhân cách con người. Chia cấu trúc của năng
lực bao gồm: năng lực xã hội hóa, năng lực chủ thể hóa, năng lực hành động và
năng lực giao tiếp xã hội…
Từ góc độ phát triển con người, nhiều nhà nghiên cứu coi phát triển năng lực
cá nhân là một khía cạnh trong phát triển con người, hướng tới sự phát triển toàn
diện của con người. Tác giả Phạm Thành Nghị trong bài viết “Tiếp cận năng lực
trong phát triển con người” [81, tr.17-22] cho rằng, trong việc tìm kiếm một cách
tiếp cận cung cấp cơ chế chung cho sự phát triển con người trong mọi điều kiện xã
hội và tạo dựng cơ chế bền vững cho phát triển con người, thì tiếp cận năng lực có
ưu thế nổi trội trong giải quyết những bất ổn trong xã hội. Theo tác giả, năng lực ở
đây được hiểu là tổ hợp khả năng thực hiện được các chức năng (sống có đủ dinh
dưỡng, được xóa mù, được mặc ấm, được thỏa mãn nhu cầu văn hóa, giao tiếp xã
hội…). Sự phát triển của con người suy cho cùng là sự phát triển năng lực và tăng
cường năng lực là mở rộng tự do, mở rộng cơ hội lựa chọn của con người. Năng lực
được phát triển không chỉ mang ý nghĩa công cụ giúp đạt được lựa chọn mà còn
mang ý nghĩa tự thân làm mở rộng cơ hội lựa chọn của con người. Việc thực hiện
tiếp cận năng lực chính là tạo điều kiện cho con người thực hiện các chức năng

thông qua tăng cường khả năng của con người thực hiện các chức năng một cách tự
do, con người có cơ hội mở rộng tự do của mình thông qua học tập trong môi
trường giáo dục đúng nghĩa.
Nguyễn Đình Tuấn trong bài viết “Nghiên cứu phát triển con người: quan
điểm, xu hướng và những gợi mở” đã phân tích các quan điểm về phát triển con
người của UNDP đưa ra trong Báo cáo phát triển con người. Tác giả cho rằng, khái


Luận án đủ ở file: Luận án full











×