Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Đánh giá kết quả công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất của dự án đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu khu trung tâm văn hóa thể thao tại huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.99 KB, 70 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện khóa luận này tôi đã nhận được sự hướng dẫn
nhiệt tình, chu đáo từ các thầy cô giáo, sự ủng hộ của người thân, bạn bè đồng
nghiệp. Nhân dịp này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn TS. Xuân Thị Thu
Thảo đã trực tiếp giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự đóng góp quý báu của nhiều tập thể,
cá nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của thầy, cô Viện Quản lý
Đất đai và Phát triển nông thôn Trường đại học Lâm nghiệp đã giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn các cán bộ, nhân viên phòng tài nguyên môi trường huyện
Lương Tài đã giúp tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài trên
địa bàn.
Tôi cũng cảm ơn tới gia đình những người thân, cán bộ, đồng nghiệp và
bạn bè đã tạo điều kiện tốt nhất về mọi mặt cho tôi thực hiện đề tài.
Trong quá trình thực hiện khóa luận do chưa có nhiều kinh nghiệm trong
nghiên cứu khoa học nên khóa luận sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và bạn bè.
Tôi xin trân trọng cảm cảm ơn.
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Trần Thị Khánh Linh

1

1


MỤC LỤC


Tên viết tắt
GPMB
KCN
TĐC
GCNQSDĐ
NĐ-CP
TT-BTNMT
CNH-HĐH
UBND
HĐND
BTXM
LUC
PNN

2

Nội dung
Giải phóng mặt bằng
Khu công nghiệp
Tái định cư
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nghị định- Chính phủ
Thông tư-Bộ tài nguyên môi trường
Công nghiệp hóa hiện đại hóa
Ủy ban nhân dân
Hội đồng nhân dân
Bê tông xi măng
Lúa
Phi nông nghiệp


2


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

3

3


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên, là tài sản quốc gia là địa bàn để
phân bố dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; là nguồn
nội lực để xây dựng và phát triển bền vững quốc gia. Đất đai được coi là một
loại bất động sản, là một loại hàng hóa đặc biệt vì những tính chất của nó như:
cố định về vị trí, giới hạn về không gian, vô hạn về thời gian sử dụng.
Nước ta đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, nhiều dự án như các KCN, nhà máy, các khu đô thị mới, khu dân cư đang
được triển khai một cách mạnh mẽ. Do vậy, để thực hiện các dự án phát triển
kinh tế - xã hội Nhà nước phải thu hồi một phần đất của người dân đang sử
dụng. Công tác bồi thường GPMB là một việc hết sức khó khăn, phức tạp và
được xã hội đặc biệt quan tâm.Bởi công tác bồi thường GPMB liên quan đến
một loại tài sản có giá trị rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân. Thực tế, qua nhiều dự án đã cho thấy công tác
GPMB vẫn tồn tại nhiều bất cập.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong các năm gần đây kinh tế
tiếp tục tăng trưởng với tốc độ ổn định, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa

học, xã hội….càng được cải thiện. Sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội
cũng như của đất nước, trước hết đặt ra phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ
thuật, hệ thống giao thông đường bộ, hệ thống thủy lợi, hệ thống lưới điện Quốc
gia… là điều kiện rất cơ bản để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương
mại, dịch vụ, du lịch…. Đến nay cả nước đã có nhiều KCN, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, khu kinh tế, nhiều công trình công cộng phục vụ lợi ích Quốc
gia. Để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành kinh tế, công
nghiệp, giao thông, xây dựng, thương mại, y tế, giáo dục,… Nhà nước phải thu
hồi đất và phải bồi thường cho người bị thu hồi. Việc thực hiện bồi thường giữ
4

4


vị trí hết sức quan trọng, là yếu tố có tính quyết định chủ yếu trong quá trình bồi
thường GPMB.Trong những năm qua, công tác bồi thường GPMB gặp rất nhiều
khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Để khắc phục những
tồn tại đó trong những năm gần đây Nhà nước đã từng bước hoàn thiện pháp luật
về đất đai và ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện công tác bồi
thường GPMB, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất một cách có hiệu quả hơn.
Cùng với sự phát triển của cả nước nói chung và huyện Lương Tài nói
riêng trong những năm gần đây đã có nhiều công trình, dự án được triển khai
nhằm mục đích đẩy mạnh nền kinh tế của huyện, nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân và góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển chung của cả
nước. Để đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án trên địa bàn huyện thì công tác
thu hồi, bồi thường và GPMB phải được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu
quả. Tuy nhiên, trên thực tế thì công tác bồi thường và GPMB còn gặp những
trở ngại, khó khăn dẫn đến việc bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công còn chưa
kịp thời, đầu làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công của các dự án trên địa bàn
huyện.

Hiện nay trên địa bàn huyện Lương Tài đã thực hiện xong dự ánđầu tư
xây dựng hạ tầng thiết yếu... văn hóa thể thao. Trong quá trình thực hiện dự án
đã khắc phục được lợi ích do các hộ dự án của huyện nhưng cũng ảnh hưởng
phần nào đến đời sống của người dân.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài “Đánh
giá kết quả công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất của dự án
đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu khu trung tâm văn hóa thể thao tại
huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh”.
1.2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.
- Đánh giá kết quả công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
của dự án đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu khu trung tâm văn hóa thể thao
huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
5

5


- Phân tích thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng hạ
tầng thiết yếu khu trung tâm văn hóa thể thao huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực hiện dự án đầu tư xây
dựng hạ tầng thiết yếu khu trung tâm văn hóa thể thao huyện Lương Tài, tỉnh
Bắc Ninh.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Phạm vi không gian:
Đề tài được tiến hành trên địa bàn huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh
1.3.2.Phạm vi thời gian:
Từ năm 2014 đến năm 2015

6


6


PHẦN 2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

7

7


2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG, GIẢI PHÓNG
MẶT BẰNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
2.1.1. Khái niệm bồi thường, giải phóng mặt bằng
2.1.1.1 khái niệm bồi thường giải phóng mặt bằng
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu
hồi cho người bị thu hồi đất. Trong đó, giá trị quyền sử dụng đất có thể là: giá trị
bằng tiền, bằng vật chất khác do các quy định của pháp luật điều tiết hoặc do
thỏa thuận giữa các chủ thể đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử
dụng đất xác định.
Theo Điều 3 Luật Đất Đai 2013: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi
cho người bị thu hồi đất”.
2.1.1.2 . Khái niệm hỗ trợ nhà nước thu hồi đất
Theo Khoản 14 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy định: Hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời
sống, sản xuất và phát triển.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất: Trên thực tế, ngoài các khoản bồi thường thiệt hại nói trên thì còn
một hình thức bồi thường khác gọi là hỗ trợ, hỗ trợ tương xứng với với giá trị

hoặc công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể
khác. Hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí
việc làm mới, cấp kinhphíđể di dời đến địa điểm mới.

2.1.1.3 Khái niệm giải phóng mặt bằng
8

8


Giải phóng mặt bằng: Giải phóng mặt bằng là quá trình thực hiện các
công việc liên quan đến việc di dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và
một bộ phận dân cư trên một phần đất nhất định được quy hoạch cho việc cải
tạo, mở rộng hoặc xây dựng một công trình mới (Nguyễn Bá Long, Xuân Thị
Thu Thảo, 2014).
2.1.2. Đặc điểm của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng
Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng bao gồm 2 đặc điểm sau:
- Tính đa dạng: Mỗi một dự án được tiến hành trên một vùng đất khác
nhau với các điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau và trình độ dân trí khác nhau.
Do đó công tác tổ chức bồi thường cũng có những đặc trưng nhất định với từng
vùng đất từng điều kiện sống khác nhau trên khu đất đó. Các tài sản gắn trên đất
cũng mang tính đa dạng cao, đa dạng về mục đích sử dụng đa dạng về hình thức
sở hữu các tài sản đó nên công tác định giá trong công tác bồi thường cũng
mang tính đa dạng cao.Đối với khu vực đô thị, mật độ dân cư cao, ngành nghề
đa dạng, giá trị đât và tài sản trên đất lớn dẫn đến quá trình thực hiện công tác
bồi thường GPMB có những đặc trưng nhất định. Đối với khu vực ven đô, mức
độ tập trung dân cư khá cao, ngành nghề dân cư phức tạp, hoạt động sản xuất đa
dạng: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, buôn bán nhỏ, nông
nghiệp,…quá trình bồi thường GPMB ở đây cũng có đặc trưng riêng, không thể

giống với khu vực đô thị. Còn đối với khu vực nông thôn, hoạt động sản xuất
chủ yếu của dân cư là sản xuất nông nghiệp, đời sống phụ thuộc chính vào nông
nghiệp. Do đó bồi thường GPMB cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng
biệt, khác hoàn toàn so với khu vực đô thị và khu vực ven đô.
- Tính phức tạp: Đất đai là tài sản có giá trị cao có vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội với mọi người dân. Ở các khu vực nông thôn dân
cư sống chủ yếu nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh trên đất nông nghiệp mà đất
đai là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất người dân thấp khả
năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lí của người dân ta là giữ đất
9

9


để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận cao hơn là sản xuất
nhưng họ vẫn không cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn đến công tác tuyên
truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn và việc hỗ trợ
chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau này.Mặt
khác, cây trồng vật nuôi trên vùng đó cũng đa dạng, không được tập trung một
loại nhất định nên gây ra khó khăn cho công tác định giá bồi thường.
Đối với đất ở lại càng phức tạp hơn do những nguyên nhân sau:
+ Đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và sinh hoạt
của người dân mà làm tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở.
+ Do yếu tố lịch sử để lại nên nguồn gốc sử dụng đất rất phức tạp và do
cơ chế chính sách chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế sử dụng đất nên chưa
giải quyết được các vướng mắc và tồn tại cũ.
+ Việc quản lý đất đai chưa chặt chẽ dẫn đến các hiện tượng lấn chiếm,
xây dựng nhà trái phép nhưng lại không được chính quyền địa phương xử lý dẫn
đến việc phân tích hồ sơ đất đai và áp giá phương pháp bồi thường gặp rất nhiều
khó khăn.

+ Thiếu quỹ đất dành cho xây dựng khu TĐC cũng như chất lượng khu
TĐC thấp, chưa đảm bảo được yêu cầu,…
+ Việc áp dụng giá đất ở để tính bồi thường giữa thực tế và quy định của
Nhà nước có những khoảng cách khá xa cho nên việc triển khai thực hiện cũng
không được sự đồng thuận của những người dân (Kiều Thủy Giang, 2015).
Từ các điểm trên cho thấy mỗi dự án khác nhau đều có tính đặc thù riêng
biệt do đó công tác tổ chức thực hiện cũng khác nhau
2.1.3. Mục đích, vai trò của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng
2.1.3.1. Mục đích
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, GPMB là một trong những công
việc quan trọng phải làm trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Theo đó, chúng ta đang rất cần triển khai xây dựng nhiều công trình cơ sở
10

10


hạ tầng, nhiều khu kinh tế, KCN, khu công nghệ cao, cùng với đó là các cơ sở
văn hóa giáo dục, thể dục thể thao cũng cần được phát triển, tốc độ đô thị hóa
cũng diễn ra nhanh chóng. Công tác GPMB mang tính quyết định tốc độ của
mọi dự án. Tiến triển của dự án phụ thuộc rất lớn vào công tác GPMB.
2.1.3.2.Vai trò đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
- Đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng:
+ Về mặt tiến độ hoàn thành của dự án: Tiến độ thực hiện các dự án phụ
thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như: tài chính, lao động, công nghệ, điều
kiện tự nhiên, tập quán của người dân trong diện bi giải tỏa…. Nhìn chung nó
phụ thuộc nhiều vài thời gian tiến hành GPMB. Khi GPMB tiến hành đúng tiến
độ sẽ tiết kiệm được thời gian và việc thực hiện dự án có hiệu quả. Ngược lại,
GPMB kéo dài gây ảnh hưởng đến tiến độ thi công các công trình cũng như
chiphis cho dự án, có khi gây ra thiệt hại không nhỏ trong đầu tư xây dựng.

+ Về mặt kinh tế của dự án: công tác GPMB thực hiện tốt sẽ giảm tối đa
chi phí cho việc giải tỏa, bồi thường, có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho các
công trình khác. GPMB kéo dài dẫn đến chi phí bồi thường lớn, không kịp hoàn
thành tiến độ dự án dẫn đến quay vong vốn chậm gây khó khăn cho các nhà đầu
tư. Đặc biệt, các nhà đầu tư trong nước có nguồn vốn hạn hẹp thì việc quay vòng
vốn là rất cần thiết để đảm bảo tận dụng cơ hội đấu thầu của các công trình khác.
+ Về bồi thường thiệt hại: Điều tra khảo sát và lập phương án bồi thường
hợp lý đảm bảo giải tỏa nhanh chóng. Tuy nhiên, dù thực hiện theo hình thức
nào thì Nhà nước cũng phải quan tâm, quản lý chặt chẽ các hoạt động cũng như
tiến độ thực hiện của dự án, tránh sự tham nhũng trong quá trình thực hiện. Nhà
nước cần đề ra mức bồi thường thiệt hại cụ thể đối với từng dự án. Tránh trường
hợp các dự án của doanh nghiệp muốn đẩy nhanh tiến độ GPMB họ thường chi
trả bồi thường cao hơn các dự án có vốn ngân sách gây ra sự suy bì của người
dân có đất bị thu hồi trong các dự án gây khó khăn cho công tác GPMB.

11

11


- Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Sự phát triển cơ sở hạ tầng của
một Quốc gia phản ánh trình độ phát triển kinh tế cũng như phong tục tập quán
và nền văn hóa của Quốc gia đó. Cho nên nhìn vào bộ mặt đô thị người ta có thể
đánh giá nền kinh tế của Quốc gia này mạnh hay yếu. Nếu công tác bồi thường
GPMB không được thực hiện tốt sẽ xảy ra hiện tượng “treo” công trình làm cho
chất lượng công trình bị giảm, các mục tiêu ban đầu không thực hiện được, từ đó
gây lãng phí rất lớn cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác, khi giải quyết không
thỏa đáng quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi sẽ dễ dàng nổ ra
những khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể làm cho tình hình chính
trị - xã hội mất ổn định (Nguyễn Bá Long, Xuân Thị Thu Thảo, 2014).

2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thườnggiải phóng mặt bằng.
2.1.4.1. Yếu tố giá đất
Giá đất là cầu nối giữa mối quan hệ đất đai - thị trường - sự quản lý của
Nhà nước. Nhà nước điều tiết quản lý đất đai qua giá hay nói một cách khác thì
giá đất là công cụ kinh tế để quản lý và người sử dụng đất tiếp cận với cơ chế thị
trường, đồng thời cũng là căn cứ để đánh giá sự công bằng trong phân phối đất
đai, để người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ của mình và Nhà nước điều chỉnh
các quan hệ đất đai theo pháp luật. Như vậy giá đất do Nhà nước quy định chỉ
nhằm để giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và người sử dụng đất.
Giá bán quyền sử dụng đất được hình thành trong các giao dịch dân sự là do các
bên tự thỏa thuận và giá này được gọi là “giá đất thực tế” hay “giá đất thị
trường”. Như vậy trên thực tế có hai loại giá đất là giá do Nhà nước quy định và
giá đất thị trường, hai giá này đều có mặt trong việc xử lý quan hệ đất đai (trực
tiếp hoặc gián tiếp) giữa Nhà nước với người sử dụng đất.
2.1.4.2. Yếu tố chính sách bồi thường, hỗ trợ
Chính sách bồi thường, hỗ trợ là yếu tố quan trọng công tác bồi thường
GPMB ở nước ta. Do giá đất thấp, cùng với sự thiếu quan tâm của Nhà nước đến
hậu quả thu hồi đất như vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm…
12

12


đã nảy sinh nhiều khiếu kiện đông người, gây bức xúc và bất ổn định chính trị xã hội.
Cho nên, từ khi Nhà nước có chính sách bồi thường, hỗ trợ theo Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi
Nhà nước thu hồi đất, sau đó đến Nghị định số 84/2007/NĐ- CP ngày 25/5/2007
của Chính phủ về quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực
hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP

ngày 13/8/2009 của Chính phủ, quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá
đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ TĐC; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất thì người dân đồng tình, ủng hộ chủ trương thu hồi đất của Nhà nước
hơn. Bởi lẽ, Nhà nước ngoài việc bồi thường giá trị quyền sử dụng đất theo giá
thị trường còn có chính sách hỗ trợ người sử dụng đất để trợ giúp cho người sử
dụng đất ổn định đời sống, sản xuất; hỗ trợ đào tạo nghề và tìm kiếm việc làm,
hỗ trợ di chuyển. Từ đó, việc triển khai các dự án bồi thường GPMB cho các dự
án được thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn và giảm thiểu các vụ biểu tình, khiếu
kiện đông người ở các địa phương.
Cho nên việc ban hành các chính sách bồi thường, hỗ trợ hợp lí sẽ ảnh
hưởng và quyết định đến sự thành công của các dự án bồi thường GPMB.
2.1.4.3.Yếu tố trong nội dung quản lí nhà nước về đất đai
- Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lí, sử dụng đất
đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó
+ Đất đai là đối tượng quản lí phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển của
nên kinh tế - xã hội. Để thực hiện tốt chức năng quản lí Nhà nước về đất đai đòi
hỏi các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính ổn định cao
và phù hợp với tình hình thực tế.

13

13


+ Ở nước ta, do các đặc điểm lịch sử, kinh tế xã hội của đất nước trong
mấy thập kỉ qua có nhiều biến động lớn, nên các chính sách về đất đai cũng theo
đó không ngừng được sửa đổi, bổ sung. Từ năm 1993 đến năm 2013, Nhà nước
đã ban hành hơn 200 văn bản quy phạm pháp luật về quản lí và sử dụng đất.
Chính sách bồi thường GPMB cũng được Chính phủ không ngừng hoản thiện,

sửa đổi nhằm giải quyết các vướng mắc trong công tác bồi thường GPMB phù
hợp với yêu cầu thực tế triển khai.
+ Tuy nhiên, do tính chưa ổn định, chưa thống nhất của pháp Luật đất đai
qua các thời kì mà công tác bồi thường GPMB đã gặp khá nhiều khó khăn và
cản trở. Thực tiễn triển khai cho thấy việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về quản lí, sử dụng đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến công tác bồi thường
GPMB. Hệ thống văn bản pháp Luật đất đai còn có những nhược điểm như là số
lượng nhiều, mức độ phức tạp cao, không thuận lợi trong sử dụng, nội bộ hệ
thống chưa đồng bô, chặt chẽ gây lung túng trong xử lí và tạo kẽ hở trong thực
thi pháp luật.
- Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất tác động tới chính sách bồi thường trên hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ
quan trọng nhất để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất, mà theo Luật đất đai, việc giao đất, cho thuê đất chỉ được thực hiện
khi có quyết định thu hồi đất đó của người đang sử dụng.
+ Thứ hai, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất là một trong những nhân tố
ảnh hưởng tới giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất, từ đó tác động tới giá đất
tính bồi thường.
- Yếu tốgiao đất, cho thuê đất: Giao đất, cho thuê đất phải căn cứ vào quy
hoạch và kế hoạch sử dụng đất là điều kiện bắt buộc, nhưng nhiều địa phương
chưa thực hiện tốt nguyên tắc này dẫn đến khó khăn cho công tác bồi thường.

14

14


- Yếu tố lập và quản lí hồ sơ địa chính: Lập và quản lí chặt chẽ hệ thống
hồ sơ địa chính có vai trò quan trọng hàng đầu để “quản lí chặt chẽ đất đai”, là

cơ sở xác định tính pháp lí của đất đai. Nên nếu không có hồ sơ địa chính hoặc
hồ sơ địa chính không đầy đủ đồng bộ, không cập nhật, chỉnh lí thường xuyên
thì rất khó khăn để trích lục vùng dự án, khoanh định vùng, xác định diện tích,
vị trí, loại đất, chủ sử dụng đất…
- Công tác đăng ký đất đai và cấp GCNQSDĐ
+ Đăng kí đất đai là một thành phần cơ bản quan trọng nhất của hệ thống
quản lí đất đai, đó là quá trình xác lập hồ sơ về quyền sử dụng đất, bất động sản,
sự đảm bảo và những thông tin về quyền sử dụng đất. Theo quy định của các
nước, đất đai là một trong các tài sản phải đăng kí quyền sở hữu, quyền sử dụng.
Ở nước ta, theo quy định của Luật đất đai, người sử dụng đất phải đăng kí quyền
sử dụng đất với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và được cấp GCNQSDĐ.
Chức năng của đăng kí đất đai là cung cấp những căn cứ chuẩn xác và an toàn
cho việc thu hồi, chấp thuận và từ chối các quyền về đất.
+ Trong công tác bồi thường GPMB, GCNQSDĐ là căn cứ để xác định
đối tượng được bồi thường, loại đất, diện tích đất tính bồi thường. Hiện nay,
công tác đăng kí đất đai ở nước ta vẫn còn yếu kém, đặc biệt công tác đăng kí
biến động về sử dụng đất; việc cấp GCNQSDĐ vẫn chưa hoàn tất. Chính vì vậy,
mà công tác bồi thường GPMB đã gặp rất nhiều khó khăn. Làm tốt công tác
đăng kí đất đai, cấp GCNQSDĐ thì công tác bồi thường GPMB sẽ thuận lợi, tiến
độ GPMB nhanh hơn.
- Yếu tố thanh tra chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý và sử dụng đất
đai: Công tác bồi thường GPMB là một việc làm phức tạp, gắn liền đến quyền
lợi về tài chính nên rất dễ có những hành vi vi phạm pháp luật nhằm thu lợi bất
chính, chính quyền địa p thanh tra, kiểm tra và coi đây là nhiệm vụ thường
xuyên trong quá trình triển khai thực hiện công tác bồi thường GPMB, kịp thời
phát hiện các sai phạm, vi phạm pháp luật để xử lí tạo niềm tin trong nhân dân.
15

15



2.1.4.4. Thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản là một bộ phận của thị trường nói chung trong
nền kinh tế Quốc dân. Việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản góp
phần giảm thiểu việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư (do người đầu tư
có thể đáp ứng nhu cầu về đất đai thông qua các giao dịch trên thị trường); đồng
thời người bị thu hồi đất có thể tự mua hoặc cho thuê đất đai, nhà cửa mà không
nhất thiết phải thông qua Nhà nước thực hiện chính sách TĐC và bồi thường.
Giá của Bất động sản được hình thành trên thị trường và nó sẽ tác động
tới giá đất tính bồi thường. Nếu giá thị trường bất động sản cao hơn giá Nhà
nước thì việc bồi thường theo giá Nhà nước sẽ khó khăn hơn, người dân khó
chấp nhận (Nguyễn Bá Long, Xuân Thị Thu Thảo, 2014).
2.2. VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT
2.2.1. Văn bản pháp luật ban hành trước luật đất đai năm 2003

Hiến pháp 1992 ra đời thay thế Hiến pháp 1980, đã quy định: “Nhà nước
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Và điều 18 quy định: “Các tổ
chức và các nhân được Nhà nước giao đất sử dụng lâu dài và được chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Trên cơ sở Hiến pháp
1992 kế thừa có chọn lọc Luật đất đai năm 1988, Luật đất đai 1993 ra đời. Đây
là văn kiện chính sách quan trọng đối với việc thu hồi đất và đền bù thiệt hại của
Nhà nước, Luật đất đai quy định rõ hơn về quyền của người được giao đất gồm
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp. Đồng thời Chính
phủ quy định khung giá cho từng loại đất, từng vùng và theo thời gian. Sau khi
Luật đất đai 1993 có hiệu lực, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP ngày
17/8/1994 để cụ thể hóa chính sách bồi thường. Nghị định này quy định cụ thể
16


16


các chính sách và phân biệt chủ thể sử dụng đất, cở sở pháp lý để xem xét tính
hợp pháp của thửa đất để lập kế hoạch bồi thường giải phóng mặt bằng theo quy
định khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Tuy nhiên, có thể nói chính sách bồi
thường của nghị định này vẫn còn rất nhiều hạn chế, chưa bù đắp một cách đầy
đủ những thiệt hại gây ra từ việc thu hồi đất, chỉ bồi thường thiệt hại về đất và
tài sản mà chưa có quy định về các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất
và xây dựng các khu tái định cư phục vụ di dân giải phóng mặt bằng. Cho nên,
người bị thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn, không đủ khả năng tái tạo lại cuộc
sống so với trước khi bị thu hồi, quyền và nghĩa vụ của họ chưa được quan tâm
một cách đầy đủ. Đến năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số
22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 về bồi thường hki Nhà nước thu hồi đất sử
dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia , lợi ích công cộng để
thay thế Nghị định số 90/1994/NĐ-CP, Nghị định này đã điều chỉnh đầy đủ, cụ
thể, chi tiết về chính sách đền bù, hỗ trợ và tái định cư theo nguyên tắc đền bù,
hỗ trợ về đất và tài sản...phù hợp với mức thiệt hại thực tế, giải quyết hài hòa
mối quan hệ về lợi ích giữa người bị thu hồi đất với Nhà nước và các bên có liên
quan. Có thể nói, Nhà nước đã đổi mới một bước chính sách đền bù và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất, mở rộng phạm vi bồi thường để bù đắp một phần
nào đó cho người bị thu hồi đất. Đặc biệt người bị thu hồi đất có quyền được lựa
chọn một trong ba phương án bồi thường bằng đất, bằng tiền hoặc bằng đất và
bằng tiền (Nguyễn Đình Bồng,2014). Vì vậy, Nhà nước vẫn chưa đảm bảo hết
thiệt hại mà người sử dụng đất phải chịu. Có thể nói, chính sách đền bù và tái
định cư giai đoạn này đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng bên cạnh
cũng còn nhiều hạn chế, tồn tại cần được hoàn thiện để phù hợp với giai đoạn
CNH-HĐH đất nước, cụ thể: - Công tác đền bù đối với trường hợp đất sử dụng

trước Luật đất đai 1993 chưa được quy định cụ thể; - Giá đền bù thấp hơn nhiều
so với giá thực tế chuyển nhượng trên thị trường . Các địa phương sử dụng hệ số
K để điều chỉnh nhưng giá đất được xác định vẫn không hợp lý; - Quy định cụ
17

17


thể, chi tiết về điều kiện đền bù và không được đền bù thiệt hại về đất, nhưng lại
chưa rõ ràng và chưa gắn kết với trường hợp không đủ điều kiện được đền bù
thiệt hại dẫn đến cách hiểu, cách làm khác nhau.
2.2.2.Văn bản pháp luật ban hành Từ luật đất đai 2003 có hiệu lực đến
trước luật đất đai năm 2013
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ về bồi thường cây trồng;
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về hướng dẫn thi hành
Luật Đất đai;
- Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, TĐC và trình tự, thủ tục
thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất;
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định
bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định
bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
TĐC;
2.2.3. Văn bản pháp luật ban hành sau Luật đất đai 2013 có hiệu lực đến
nay
- Hiến pháp ngày 28/11/2013;
- Luật Đất đai ngày 29/11/2013;

- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
- Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
về giá đất;

18

18


- Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất;
- Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên &
môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất, thu hồi đất;
- Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên &
môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh
bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất;
- Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và
môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi nhà nước thu hồi
đất;
2.3. CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM.
2.3.1. Chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng của một số nước trên thế
giới.
2.3.1.1. Chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng của Australia
Đất đai thuộc sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Quyền và nghĩa vụ của
chủ sở hữu được pháp luật bảo hộ tuyệt đối. Nhà nước có quyền trưng thu đất tư
nhân để sử dụng vào mục đích công cộng, phục vụ phát triển kinh tế xã hội,
đồng thời gắn với việc Nhà nước thực hiện chính sách bồi thường. Cơ quan chức

trách có thể thu hồi lại đất đai bằng hai cách : thỏa thuận tự nguyện và cưỡng
bức.
Về bồi thường, luật quy định chủ sở hữu sẽ được bồi thường thiệt hại do
việc thu hồi đất. Nguyên tắc bồi thường bao gồm :
- Giá thị trường mảnh đất của chủ sở hữu.
- Giá trị đặc biệt dành cho chủ sở hữu cao hơn hoặc trên giá thị trường của
mảnh đất.
19

19


- Những thiệt hại gây ra khi thu hồi đất.
- Thiệt hại về việc gây phiền hà.
- Các khoản chi phí về luật pháp và thẩm định giá.
Bất cứ người nào có quyền lợi trên mảnh đất đó đều có thể khiếu nại về
bồi thường.
Quy định mức bồi thường : khi bồi thường cần xem xét 6 yếu tố :
- Giá trị thị trường của mảnh đất.
- Sự chia cắt đất đai.
- Những phiền nhiễu.
- Các khoản chi phí về chuyên môn hoặc pháp lí hợp lí.
- Người đi thuê, có thể khiếu nại mức bồi thường cho bất cứ tài sản nào bị
ảnh hưởng mà bạn quản lí theo hợp đồng cho thuê.
- Tiền bồi thường về mặt tinh thần.
Than toán bồi thường gồm thanh toán ứng trước và thanh toán cuối cùng :
- Thanh toán ứng trước : Chính phủ sẽ thanh toán cho chủ nhân toàn bộ
khoản bồi thường một khi đơn khiếu nại đã được xem xét. Nếu Chính phủ không
chấp thuận toàn bộ các khoản mục trong đơn khiếu nại thì Chính phủ sẽ thanh
toán trước ít nhất 90% số tiền đã được định ra.

- Thanh toán cuối cùng : Chính phủ sẽ thanh toán đầy đủ số tiền bồi
thường ngay sau khi tổng số tiền cuối cùng đã được chấp thuận (Kiểu Thủy
Giang, 2014).
2.3.1.2. Trung Quốc
Ở Trung Quốc, đất đai thuộc chế độ công hữu, gồm sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể. Đất đai ở khu vực thành thị và đất xây dựng thuộc sở hữu Nhà
nước. Đất ở khu vực nông thôn và đất nông nghiệp thuộc sở hữu tập thể nông
dân lao động. Theo quy định của Luật đất đai Trung Quốc năm 1998, đất đai
20

20


thuộc sở hữu Nhà nước được giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo các
hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất (cấp đất), giao đất có thu tiền sử
dụng đất và cho thuê đất. Đất thuộc diện được cấp bao gồm đất sử dụng cho cơ
quan Nhà nước, phục vụ mục đích công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng và phục
vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh. Đất sử dụng vào mục đích sản suất kinh
doanh thì được Nhà nước giao đất theo hình thức giao đất có thu tiền sử dụng
đất hoặc là cho thuê đất. Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất của người đang
sử dụng để sử dụng vào mục đích công cộng, lợi ích Quốc gia thì Nhà nước có
chính sách bồi thường và tổ chức TĐC cho người bị thu hồi đất.
Về thẩm quyền thu hồi đất : Chỉ có Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương mới có quyền thu hồi đất. Chính phủ có thẩm quyền
thu hồi đất nông nghiệp từ 35 ha trở lên và 70 ha trở lên đối với các loại đất
khác. Dưới hạn mức này thì do chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương ra quyết định thu hồi. Đất nông nghiệp sau khi thu hồi sẽ chuyển từ đất
thuộc sở hữu tập thể thành đất thuộc sở hữu Nhà nước.
Về bồi thường thiệt hại về đất đai, do đất đai thuộc sở hữu Nhà nước nên
không có chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, kể cả đất

nông nghiệp, tùy trường hợp cụ thể, Nhà nước sẽ cấp đất mới cho các chủ sử
dụng bị thu hồi đất.
Về phương thức bồi thường thiệt hại, Nhà nước thông báo cho người sử
dụng đất biết trước việc liệu họ sẽ bị thu hồi đât trong thời hạn một năm. Người
dân có quyền lựa chọn các hình thức bồi thường thiệt hại bằng tiền hoặc bằng
nhà tại khu ở mới. Tại thủ đô Bắc Kinh và thành phố Thượng Hải, người dân lựa
chọn bồi thường thiệt hại bằng tiền và tự tìm chỗ ở mới phù hợp với công việc
nơi làm việc của mình.
Về giá bồi thường thiệt hại, tiêu chuẩn là giá thị trường. Mức giá này cũng
được Nhà nước quy định cho từng khu vực và chất lượng nhà, đồng thời được
điều chỉnh rất linh hoạt phù hợp với thực tế, vừa coi như là Nhà nước tác động
21

21


điều chỉnh lại chính thị trường đó. Đối với đất nông nghiệp, việc bồi thường
thiệt hại theo tính chất của đất và loại đất (tốt, xấu).
Về TĐC, các khu TĐC và các khu nhà ở được xây dựng đồng bộ và kịp
thời, thường xuyên đáp ứng nhu cầu nhiều loại căn hộ với các nhu cầu sử dụng
khác nhau. Các chủ sử dụng phải di chuyển đều được chính quyền chú ý đến
việc làm, đối với các đối tượng chính sách xã hội được Nhà nước có chính sách
xã hội riêng.
Khi di dời thực hiện nguyên tắc chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ. Khu TĐC
được quy hoạch tổng thể (nhà ở, trường học, chợ), cân đối được giao thông động
và tĩnh. Trong quá trình bồi thường GPMB phải lập các biện pháp xử lí đối với
việc sắp xếp bồi thường khi không đạt được thống nhất. Khi không đạt được
thống nhất sẽ xử lí theo phương thức trước tiên là dựa theo trọng tài, sau theo
khiếu tố (Kiều Thùy Giang, 2014.)
2.3.1.3. Thái Lan

Pháp luật đất đai Thái Lan cho phép hình thức sở hữu cá nhân với đất đai,
vì vậy khi Nhà nước hoặc các tổ chức lấy đất thì đều phải có sự thỏa thuận về sử
dụng đất giữa chủ dự án và chủ đang sử dụng khu đất đó trên cơ sở một hợp
đồng.
Năm 1987, Thái Lan ban hành luật về trưng dụng bất động sản áp dụng
cho việc trưng dụng đất phục vụ vào các mục đích xây dựng các công trình công
cộng, an ninh, quốc phòng. Luật BE 2530 quy định những nguyên tắc thu hồi
đất, nguyên tắc tính giá trị bồi thường các loại tài sản được bồi thường, trình tự
lập dự án, duyệt dự án, lên kế hạch bồi thường trình các cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Luật còn quy định thủ tục thành lập các cơ quan, ủy ban tính toán bồi
thường TĐC, trình tự đàm phán, nhận tiền bồi thường, trình tự khiếu nại, giải
quyết khiếu nại, trình tự đưa ra tòa án.

22

22


Về giá đất làm căn cứ bồi thường thì căn cứ mức giá do một ủy ban của
Chính phủ xác định trên cơ sở thực tế giá thị trường chuyển nhượng bất động
sản. Quá trình bồi thường chủ yếu bằng tiền mặt.
Việc chuẩn bị khu TĐC được chính quyền Nhà nước quan tâm đúng mức,
luôn đáp ứng đầy đủ các nhu cầu TĐC, cho nên họ chủ động được công tác này.
Việc tuyên truyền vận động đối với các đối tượng được di dời thực hiện
rất tốt, việc bố trí cán bộ có phẩm chất, năng lực phục vụ công tác bồi thường
GPMB rất được quan tâm, các tổ chức chuyên trách thực hiện công tác này.
Sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành giải quyết, sự phân công nhiệm vụ
rõ ràng, phân cấp rõ về trách nhiệm, sự phối hợp cao trong quá trình giải quyết
vấn đề, cũng góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường GPMB.
(Lê Đức Hạnh, 2014)

2.3.1.4. Hàn Quốc
Luật bồi thường thiệt hại của Hàn Quốc được chia làm hai thể chế:
- Một là: Luật “Đặc lệ” liên quan đến bồi thường thiệt hại cho đất công
cộng đã được quy định theo thủ tục thương lượng của pháp luật.
- Hai là: Luật “Sung công đất” theo thủ tục quy định cưỡng chế của công
pháp.
Với hai thể chế luật trên và trong quá trình thực hiện luật “Đặc lệ” thương
lượng không đạt được thỏa thuận thì luật “Sung công đất” được thực hiện bằng
cách cưỡng chế nhưng nếu như thế thì phải lặp đi lặp lại quá trình này và đôi khi
bị trùng hợp cho nên thời gian có thể bị kéo dài hoặc chi phí bồi thường sẽ tăng
lên. Do đó luật bồi thường thiệt hại của Hàn Quốc mới ra đời và được thực hiện
theo 3 giai đoạn:
- Thứ nhất, tiền bồi thường đất đai sẽ được giám định viên công cộng
đánh giá trên tiêu chuẩn giá quy định không dựa vào những lợi nhuận khai thác
do đó có thể đảm bảo sự khách quan trong việc bồi thường.
23

23


- Thứ hai, pháp luật có quy định không gây thiệt hại nhiều cho người có
quyền sở hữu đất trong quá trình thương lượng chấp nhận thu hồi đất. Quy trình
chấp thuận theo thứ tự là công nhận mục đích, lập biên bản tài sản và đất đai,
thương lượng chấp nhận thu hồi.
- Thứ ba, biện pháp di dời là một điểm quan trọng. Chế độ này được Nhà
nước hỗ trợ tích cực về mọi mặt chính sách đảm bảo sự sinh hoạt của con người,
cung cấp đất đai cho những người bị di chuyển nơi cư trú do thực hiện công
trình công cộng cấp thiết của Nhà nước (Lê Đức Hạnh, 2014).
2.3.2. Tình hình bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam
Ở nước ta, các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC ngày

càng phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng như yêu cầu của các quy luật
kinh tế. Quan tâm tới lợi ích của những người bị thu hồi đấtđặc biệt là sau sự ra
đời của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP đã thể hiện được tính khả thi và vai trò
tích cực của các văn bản pháp luật. Vì thế, công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC
trong thời gian qua đã đạt được các kết quả khá khả quan, thể hiện trên một số
khía cạnh chủ yếu sau:
- Thứ nhất, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, TĐC ngày càng được xác
định đầy đủ chính xác, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, giúp cho
công tác quản lý đất đai của Nhà nước được nâng cao, người nhận bồi thường
cũng thấy thỏa đáng.
- Thứ hai, mức bồi thường hỗ trợ ngày càng cao tạo điều kiện cho người
dân bị thu hồi đất có thể khôi phục lại tài sản bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ đã
được bổ sung và quy định rất rõ ràng, thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng
và Nhà nước nhằm giúp cho người dân ổn định về đời sống và sản xuất.
- Thứ ba, việc bổ sung quy định về quyền tự thỏa thuận của các nhà đầu tư
cần đất với người sử dụng đất đã góp phần giảm sức ép cho các cơ quan hành
chính trong việc thu hồi đất.

24

24


- Thứ tư, trình tự thủ tục tiến hành bồi thường hỗ trợ TĐC đã giải quyết
được nhiều khúc mắc trong thời gian qua, giúp cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện công tác bồi thường, TĐC đạt hiệu quả.
- Thứ năm, các địa phương bên cạnh việc thực hiện các quy định Luật đất
đai năm 2013, các Nghị định hướng dẫn thi hành, đã dựa trên sự định hướng
chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình thực tế tại địa phương để ban hành
các văn bản pháp luật áp dụng cho địa phương mình, làm cho công tác bồi

thường, hỗ trợ, TĐC được thực hiện hợp lý và đạt hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn
như: Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND ngày 15/5/2015 của UBND Thành phố
Hồ Chí Minh ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 09/2013/NQ-HĐND
ngày 27/7/2013 của HĐND thành phố Hà Nội về các biện pháp bảo đảm việc
thực hiện thu hồi đất, GPMB kịp thời, đúng tiến độ đối với các dự án đầu tư
quan trọng trên địa bàn Thủ đô (Theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Thủ
đô)…. Do đã vận dụng các chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC thỏa đáng nên
việc thu hồi đất tiến hành bình thường, mặc dù vẫn còn những khiếu nại nhưng
con số này ít và không gây trở ngại đáng kể trong quá trình thực hiện.
- Thứ sáu, nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn cũng như tính
chất phức tạp của vấn đề thu hồi đất, TĐC của các nhà quản lý, hoạch định
chính sách, của chính quyền địa phương được nâng lên. Chính phủ đã có nhiều
nỗ lực để tạo điều kiện vật chất và kỹ thuật trong việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC.
Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC có năng lực và có nhiều
kinh nghiệm ngày càng đông đảo; sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của công tác
bồi thường, hỗ trợ, TĐC giữa các bộ, ban, ngành có các dự án đầu tư ngày càng
được mở rộng và có hiệu quả. Nhờ những cải thiện về quy định pháp luật về
phương pháp tổ chức, về năng lực cán bộ thực thi GPMB, tiến độ GPMB trong
các dự án đầu tư gần đây đã được rút ngắn hơn so với các dự án cũ, góp phần
giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân cũng như đối với dự án. Việc thực
25

25


×