Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Hình thức giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.8 KB, 22 trang )

Hình thức giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành
Chương I. Khái quát chung về GDDS
1.1.

Khái niệm, đặc điểm pháp lý của GDDS

Khái niệm
Khái niệmgiao dịchdân sự đượcquy định trong Điều121Bộluậtdân sự
2005:
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Từ khái niệm giao dịch dân sự được quy định tại điều luật này có thể xác định: Hậu
quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân
sự là một sự kiện pháp lý (hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương – một bên
hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lý. Tùy từng giao dịch cụ thể mà làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch là hành vi có ý
thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là
hành vi mang tính ý chí của chủ thể tha gia giao dịch, với mục đích và động cơ
nhất định.
Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Ý
chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người mà nội dung
của nó được xác đinh bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân họ. Ý chí
phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác
có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia vào một giao dịch dân sự cụ thể.
Bởi vậy, giao dịch dân sự phải là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chỉ. Thiếu sự
thống nhất này, giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố là vô hiệu hoặc sẽ vô hiệu.
Điều này không chỉ đúng với cá nhân mà còn đúng với cả pháp nhân, hộ gia đình,


tổ hợp tác. Bởi khi xác lập giao dịch dân sự các chủ thể này đều thông qua người


đại diện. Người đại diện thể hiện ý chí của pháp nhân, gia đình, tổ hợp tác trong
phạm vi thẩm quyền đại diện.
Đặc điểm
Thứ nhất, phải thể hiện được ý chí của các bên tham gia. Khi tham gia giao
dịch chủ thể đều muốn đạt được mục đích nhất định nhằm thoả mãn nhu cầu
sản xuất, kinhdoanh, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó, các chủ thể phải thể
hiện được ý chí của mình.
Thứ hai, các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Đây là sự phản ánh thống nhất
ý chí của các bên, vì vậy nó là một nguyên tắc quan trọng để thiết lập nên giao
dịch.
Thứ ba, chế tài trong giao dịch dân sự mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất
linhhoạt. Phần lớn, các nước trên thế giới hiện nay đều xây dựng các chế
định của giao dịchdân sự dựa trên nguyên tắc tự do thoả thuận, tự do cam
kết và xây dựng chế tài. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật dân sự nói chung,
của giao dịch dân sự nói riêng.
Thứ tư , nội dung của giao dịch không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Bởi
lẽ, pháp luật bên cạnh là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện cho giao kết trở thành
hiện thực, còn phải đặt ra những quy phạm pháp luật khác bảo vệ lợi ích chung
của xã hội, trong đó có lợi ích của người tham gia.
1.2.

Khái niệm về hình thức GDDS

Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch.
Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội
dung của giao dịch đã được xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn


tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 122 BLDS 2005: “Hình thức giao dịch dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”
Hình thức giao dịch dân sự được quy định tại điều 124 BLDS 2005:
“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu
được coi là giao dịch bằng văn bản .
2.

Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện
bằng văn bản , phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép thì phải tuân theo các quy định đó.”

Cùng với quy định hiện hành này này, BLDS 2015 (có hiệu lực vào 1/1/2017) cũng
đưa quy định gần như tương tự. Điều 119 BLDS 2015 quy định như sau:
“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu
theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn
bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có
công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”


Có thể thấy rằng, BLDS 2015 đã kế thừa gần như toàn bọ quy định về hình thức
GDDS của BLDS 2005. Sự khác biệt có chăng chỉ là việc thu gọn về mặt câu chữ,
còn nội hàm của quy định được giữ nguyên.
Tham chiếu các quy định của pháp luật, có thể đi tới kết luận rằng: Giao dịch dân
sự có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức: lời nói, văn bản (bao gồm cả giao
dịch điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu) hoặc bằng hành vi cụ thể. Người

xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số
trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể
phải tuân thủ theo hình thức (lập văn bản, có công chứng, chứng thực..)
Chương II. Hình thức giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành
1. Các hình thức giao dịch dân sự

Hình thức miệng (lời nói): hình thức miệng được coi là hình thức phổ biến nhất
trong xã hội hiện nay mặc dù hình thức này có độ xác thực thấp nhất. Hình thức
miệng thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và chấm
dứt ngay sau đó (mua bán trao tay) hoặc giữa các chủ thể có quan hệ mật thiết, tin
cẩn, giúp đỡ lẫn nhau (bạn bè, người thân cho vay, mượn tài sản…). Nhưng cũng
có trường hợp giao dịch dân sự nếu được thể hiện bằng hình thức miệng phái bảo
đảm tuân thủ những điều kiện luật định mới có giá trị (di chúc miệng – điều 652
BLDS 2005)
Hình thức văn bản:
+ Văn bản thường: Được áp dụng trong trường hợp các bên tham gia giao dịch dân
sự thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch phải thể hiện bằng hình thức văn
bản. Nội dung giao dịch được thể hiện trên văn bản có chữ ký xác nhận của acsc
chủ thể cho nên hình thức này là chứng cứ xác định chủ thể đã tham gia vào một


giao dịch dân sự rõ ràng hơn so với trường hợp giao dịch được thể hiện bằng lời
nói
+ Văn bản có công chứng, chứng thực: Được áp dụng trong những trường hợp
pháp luật quy định hình thức của giao dịch dân sự bắt buộc phải lập thành văn bản
hoặc các bên có thỏa thuận phải có chứng nhận, chứng thực, có đăng ký hoặc xin
phép thì khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó (mua bán
nhà, chuyển quyền sử dụng đất…)
Hình thức giao dịch bằng hành vi: Giao dịch dân sự có thể được xác lập thông qua
những hành vi nhất định theo quy ước định trước. Ví dụ: mua nước ngọt bằng máy

tự động, gọi điện thoại tự động… Đây là hình thức giản tiện nhất của giao dịch.
Giao dịch có thể được xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có
sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên tại nơi giao kết. Hình thức này càng ngày
càng trở nên phổ biến, nhất là tại các quốc gia có nền công nghiệp tự động hóa phát
triển.
2. Điểm tiến bộ trong quy định về hình thức GDDS của Bộ luật Dân sự

2015 so với Bộ luật dân sự 2005
Điểm thay đổi tích cực nhất của BLDS 2015 so với BLDS 2005 thể hiện tại điều
129 về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân theo quy định về hình thức:
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu,
trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn
bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất


hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa
án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các
bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”
Quy định trước đây về việc xử lý các quy định hợp đồng không tuân thủ về
hình thức được thể hiện tại BLDS năm 2005 được đánh giá là không rõ ràng, khó
hiểu ý đồ của nhà làm luật và dễ dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất. Theo quy
định tại Điều 122, Điều 410, Điều 134 BLDS năm 2005:
“Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của
một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc

các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời
hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”
Trường hợp pháp luật quy định hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu
lực mà các bên không thực hiện đúng thì các bên sẽ có một thời hạn nhất định để
khắc phục, hợp đồng chỉ vô hiệu khi hết thời hạn mà Tòa án, cơ quan có thẩm
quyền khác đã quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình nhưng các bên
vẫn chưa thực hiện. Vấn đề ở đây là BLDS năm 2005 chưa có quy định nào khẳng
định một cách rõ ràng một hoặc một số loại hợp đồng nhất định bị coi là vô hiệu
nếu không tuân thủ điều kiện về hình thức; khoản 2 Điều 124, khoản 2 Điều 401
mới chỉ dừng lại ở quy định trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự


phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký thì
phải tuân theo hình thức đó.
Cách quy định "lưng chừng" này làm các bên giao kết, các chủ thể có liên
quan không hiểu được hệ quả pháp lý là hợp đồng sẽ có hiệu lực hay vô hiệu nếu
không tuân thủ quy định về hình thức. Bởi vậy nhiều ý kiến cho rằng BLDS cần có
quy định rõ ràng một số loại hợp đồng phải tuân thủ yêu cầu về hình thức mới
được coi là có hiệu lực.
Bên cạnh đó, theo quy định pháp luật hiện hành, hầu hết các hợp đồng liên
quan đến đối tượng là bất động sản đều phải thể hiện thành văn bản, được công
chứng/ chứng thực, đăng ký. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia pháp luật cho rằng quy
định này của pháp luật chưa thể hiện được mục đích là phục vụ công tác quản lý
nhà nước hay là điều kiện có hiệu lực hợp đồng. Từ đó dẫn đến tình trạng khi có
tranh chấp, hầu hết các hợp đồng liên quan đến bất động sản sẽ bị vô hiệu nếu
không đảm bảo yêu cầu về hình thức.
Quy định tại Điều 134, Điều 136 BLDS năm 2005 còn được đánh giá là vô
tình ủng hộ sự bội ước trong quan hệ hợp đồng khi bên thiếu thiện chí trong quan
hệ hợp đồng chỉ cần trì hoãn, phớt lờ việc thực hiện các công việc để hoàn thiện
hình thức của hợp đồng đã giao kết, sau một thời hạn nhất định, hợp đồng sẽ bị

tuyên vô hiệu1. Và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được Điều 136 BLDS
năm 2005 quy định rằng “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận”. Như vậy, sự tồn tại Điều 134 BLDS và xa hơn là khoản 2

1Thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự tại TAND cho thấy nhiều hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị
tuyên vô hiệu do vi phạm quy định về hợp đồng, nguyên nhân chính của tranh chấp là giá đất sẽ có biến động tăng
giá so với thời điểm các bên chuyển nhượng, dẫn đến việc một bên không muốn thực hiện tiếp hợp đồng và yêu cầu
TA tuyên hợp đồng vô hiệu.


Điều 122 BLDS cũng như khoản 2 Điều 124 BLDS, khoản 2 Điều 401BLDS
không có nhiều ý nghĩa.
Quy định tại Điều 134 BLDS, đoạn 2 khoản 2 Điều 401 tưởng chừng sẽ hạn
chế các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức, đảm bảo sự ổn
định trong giao lưu dân sự nhưng thực tế đã không phát huy hiệu lực vì những lý
do sau:
Thứ nhất, trên thực tế việc khắc phục về mặt hình thức các giao dịch mà
pháp luật yêu cầu phải công chứng không thực hiện được, vì các bên không thể yêu
cầu công chứng viên bổ sung lời chứng, chứng nhận vào hợp đồng đã được ký kết
trước đó mà các bên chỉ có thể ký kết lại hợp đồng mới trước mặt công chứng
viên2.
Thứ hai, với những hợp đồng không đảm bảo yêu cầu về hình thức, theo
hướng dẫn của TAND tối cao, các Tòa án địa phương thường ra quyết định buộc
các bên phải đi công chứng hợp đồng trong thời hạn 30 ngày, quá thời hạn đó mà
không thực hiện mới xét xử và tuyên hợp đồng vô hiệu. Trên thực tế, các tranh
chấp đã đến mức độ cần Tòa án giải quyết thường là trường hợp xung đột ở mức
độ cao, lợi ích của các bên trái ngược nhau, một bên mong muốn hoàn tất điều kiện
về hình thức, ngược lại một bên chẳng những không mong muốn hoàn tất điều kiện
về hình thức mà mong muốn tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bởi vậy, việc yêu
cầu khắc phục vi phạm về hình thức hợp đồng làm kéo dài việc giải quyết vụ án vì

hầu hết trường hợp các bên không chịu ký kết bằng văn bản hoặc không công
chứng hợp đồng (dù Tòa án có yêu cầu).

2Điều 41 Luật Công chứng quy định “Người yêu cầu công chứng, người làm chứng phải ký vào văn bản công
chứng trước mặt công chứng viên”


Thứ ba, theo số liệu thu được từ Báo cáo số liệu của Tòa án các tỉnh, thành
phố trực thuộc thì có không ít vụ việc Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức. Đặc biệt là tại các tỉnh thành mà giao dịch dân sự
diễn ra sôi động như tỉnh Long An, TP Đà Nẵng, TP Hà Nội. Ví dụ, năm 2007 tại
tỉnh Long An, có tới 75 vụ việc Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy
định về hình thức, năm 2008, con số này tại Long An là 65 vụ việc. Đáng chú ý là
trong 2 năm 2010 và 2011, số vụ việc Tòa án tuyên vô hiệu tại 4 tỉnh/thành phố
(Đà Nẵng, Hà Nội, Long An và Phú Yên) đều có xu hướng tăng lên3
Thứ tư, từ sự thiếu rõ ràng trong các quy định pháp luật dẫn đến trên thực tế
Tòa án chưa chú trọng đến ý chí đích thực của các bên trong hợp đồng mà
thường vận dụng pháp luật tương đối cứng nhắc, đánh đồng quy định về hình thức
hợp đồng chính là “điều kiện có hiệu lực của hợp đồng” và tuyên vô hiệu với các
hợp đồng không tuân thủ về quy định về hình thức (lập văn bản, công chứng, xin
phép hoặc đăng ký)
Hơn nữa, thực tiễn khảo sát cho thấy, không ít trường hợp kết quả giải quyết
của Tòa án có xu hướng có lợi cho bên "bội ước", bên thiếu thiện chí trong giao
dịch. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều vụ việc tranh chấp liên quan đến hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất trong đó hai bên đã thống nhất các nội
dung cơ bản của hợp đồng, đã viết giấy tay và bên mua đã đặt cọc, trả tiền đợt đầu.
Với các tài sản có giá trị lớn như nhà, đất, thông thường bên mua phải thu xếp và
thanh toán làm nhiều đợt với thời gian khá dài. Các bên chưa làm thủ tục công
chứng vì bên mua chưa thanh toán xong cho bên bán. Sau đó, bên bán không muốn
bán nữa vì giá nhà đất tăng so với thời điểm giao kết hợp đồng và yêu cầu Tòa án

tuyên hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ điều kiện về hình thức.
3 Báo cáo đánh giá tác động Bộ Luật Dân sự sửa đổi, Bộ Tư Pháp


Có thể nói, việc quy định về hình thức của giao dịch dân sự và hậu quả của
giao dịch dân sự do không tuân thủ quy định về hình thức đã trở thành một “công
cụ pháp lý” để cho bên không thiện chí lạm dụng để bội ước, gây thiệt hại cho bên
đối tác, gây mất ổn định trong quan hệ dân sự nói chung và trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh nói riêng. Mặt khác, cũng tạo ra sự cứng nhắc trong giải quyết
các vụ việc có liên quan của cơ quan có thẩm quyền, dẫn tới tình trạng tuyên bố
giao dịch vô hiệu do vi phạm hình thức một cách tùy tiện, nhất là đối với trường
hợp sự sai sót về hình thức chỉ là vấn đề kỹ thuật hợp đồng hoặc các bên đã thực
hiện xong và không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba.
Chính vì vậy, điều 129 BLDS 2015 đã khắc phục về cơ bản bất cập của
BLDS 2005 và thể hiện một trong những điểm sửa đổi quan trọng trong phần này
của tư duy lập pháp là việc hạn chế các trường hợp giao dịch dân sự bị Tòa án
tuyên vô hiệu về hình thức để một mặt bảo đảm tôn trọng sự thỏa thuận và ý chí
của các bên, mặt khác bảo đảm sự ổn định của các giao dịch dân sự phát sinh trong
đời sống.
Chương III. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hình thức
GDDS của BLDS 2005
3.1 Những bất cập trong thực tiễn áp dụng
Về hình thức của giao dịch, việc quy định hình thức của giao dịch là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định đã làm phát sinh
rất nhiều bất cập trong thực tiễn áp dụng, xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Theo
kinh nghiệm pháp luật của nhiều nước, hình thức bắt buộc của giao dịch có thể vẫn
được quy định nhưng thường gắn với mục đích chủ yếu là để minh bạch hóa giao
dịch (đảm bảo quyền lợi của người thứ ba) hoặc mục tiêu quản lý hành chính (quản



lý, thống kê của cơ quan Nhà nước), còn mục tiêu xác định hiệu lực của giao dịch
giữa các bên chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức đặc biệt.
Cách quy định hiện hành có thể dẫn tới hoặc pháp luật chuyên ngành lạm
dụng ràng buộc hiệu lực của giao dịch với hình thức của giao dịch hoặc các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành pháp luật lại hiểu theo hướng khi pháp luật
quy định hình thức bắt buộc của giao dịch thì đó là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch. Thực tế, mặc dù các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ quy định về các
trường hợp giao dịch phải đáp ứng các yêu cầu về hình thức (ví dụ bằng văn bản,
phải đăng ký, công chứng, chứng thực), không quy định cụ thể hình thức đó là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch. Tuy nhiên, trong áp dụng pháp luật, nhiều chủ thể,
trong đó có Tòa án, thường hiểu theo hướng, giao dịch khi không tuân thủ hình
thức bắt buộc có nghĩa là đã vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch, trong
trường hợp không thể khắc phục thì giao dịch bị tuyên bố vô hiệu.
Quy định về giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do vi phạm hình thức
còn cứng nhắc, chưa thực sự phù hợp thực tiễn, chưa tính đến những giao dịch mặc
dù vi phạm về hình thức nhưng các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ giao
dịch, mục đích tham gia giao dịch của họ cũng đã đạt được. Việc tuyên vô hiệu
trong trường hợp này có thể không bảo đảm quyền, lợi ích của các bên, làm mất
ổn định trong giao lưu dân sự;4

4 Theo Tòa án nhân dân tối cao, việc quy định tuân thủ các quy định về hình thức đối với giao dịch mua bán nhà,
đất, hiện nay, Nhà nước ta thực hiện chưa tốt công tác quản lý nhà, đất; thủ tục sang tên trước bạ còn phải qua nhiều
khâu rườm rà; việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn
lỏng lẻo, chưa chặt chẽ… Vì vậy, việc thực hiện quy định về hình thức đối với hợp đồng mua bán nhà là rất khó
khăn, phức tạp. Mặt khác, có trường hợp lại xuất phát từ yếu tố chủ quan của các bên, chẳng hạn khi mua bán hai
bên hoàn toàn tự nguyện, nhưng khi làm thủ tục giá nhà biến động nên vì lợi ích kinh tế một trong hai bên đã yêu
cầu hủy bỏ hợp đồng (thường là bên bán); hoặc trường hợp nhà, đất là tài sản của đồng sở hữu khi bán tất cả các
đồng sở hữu đều đồng ý bán nhưng khi làm thủ tục thì một trong các đồng sở hữu lại không đồng ý bán… Do đó,
nảy sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với những trường hợp này nếu khi giải quyết Tòa án lại tuyên
bồ hợp đồng vô hiệu là không công bằng. Đó là còn chưa kể đến hiện nay việc giải quyết hậu quả của giao dịch mua

bán nhà vô hiệu còn nhiều bất cập.


Thực tiễn cho thấy hàng năm Tòa án giải quyết một số lượng khá lớn tranh
chấp dân sự liên quan đến giao dịch, trong đó tranh chấp về giao dịch vô hiệu
chiếm tỷ lệ không nhỏ.Hình thức của hợp đồng, trong một số trường hợp cụ thể và
thường là trong những trường hợp mà giá trị của hợp đồng lớn hoặc rất lớn (mua
bán nhà ở chẳng hạn, pháp luật dân sự quy định là điều kiện bắt buộc để hợp đồng
dân sự đó có hiệu lực).Từ một quy định của pháp luật nặng về “hình thức” và trong
nhiều trường hợp bất cập với thực tiễn như vậy, đã và đang tạo ra không ít sự “tuỳ
nghi” trong đường lối xét xử và cách phán xử của Toà án. Sự bất cập, hạn chế kể
trên thực tế cũng đang cho phép một trong các bên đương sự đang lợi dụng tính
“hình thức” của pháp luật để từ chối thực hiện nghĩa vụ hợp đồng vì như thế sẽ có
lợi hơn nhiều. Cách giải quyết đó, về nhận thức chủ quan, người Thẩm phán cũng
biết rằng, nó đã không phản ánh đúng bản chất của sự việc và đã đi ngược lại với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, đã không bảo vệ được quyền, lợi ích
chính đáng, hợp pháp của công dân. Tính “hình thức” trong một số phán quyết giao
dịch dân sự vô hiệu của Toà án khi giải quyết tranh chấpcó nguyên nhân sâu xa từ
tính “hình thức” trong quy định về “điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự” của
Bộ luật Dân sự 2005
Điều 134 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình
thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân
theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”
Theo quy định này hình thức của giao dịch là một điều kiện bắt buộc để giao
dịch đó có hiệu lực trong những trường hợp băt buộc. Nếu không tuân thủ hình
thức do luât định thì có thể bị tuyên bố vô hiệu. Có những quan điểm cho rằng,
việc quy định như vậy là nhà nước đã can thiệp quá sâu vào giao dịch và xâm



phạm tới nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên khi tham gia giao dịch, làm cản
trở ý chí tự do của các bên
Có quan điểm lại cho rằng, không nên quy định hình thức là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch, thậm chí nên bỏ quy định về hình thức.Quan điểm này coi nhẹ
hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Việc coi yếu tố hình
thức không là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong nhiều trường hợp có thể
dẫn đến việc thiếu căn cứ để bảo vệ quyền lợi của các bên yếu thế hơn trong quan
hệ giao dịch, thiếu chứng cứ để chứng minh sự tồn tại của giao dịch, khó đảm bảo
trật tự công cộng cũng như an toàn pháp lý cho các bên và người thứ ba. Do đó,
đây là vấn đề hiện đang nảy sinh nhiều bất cập và bị lợi dụng. Bởi nếu một bên
không thiện chí hoặc không trung thực có thể yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô
hiệu với lý do là giao dịch không tuân thủ về hình thức nhằm thu lợi cá nhân. Nếu
vậy phải chăng quy định này đã ủng hộ cho sự bội ước gây ảnh hưởng xấu đến việc
thực hiên giao dịch
Tùy theo tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của nhà nước mà
pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức của giao dịch. Đối với
các giao dịch đáp ứng cho nhu cầu vật chất và tinh thần hàng ngày của cuộc sống
và thông thường giá trị tài sản không lớn thì chỉ cần các bên thể hiện bằng lời nói,
có sự tự nguyện, thống nhất ý chí của các bên là giao dịch đó có hiệu lực. Tuy
nhiên, có loại giao dịch không đòi hỏi phải có sự thống nhất ý chí của hai bên mà
chỉ cần 1 bên bày tỏ ý chí bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể ví dụ như viết di
chúc. Song có những loại giao dịch pháp luật bắt buộc hai bên phải thể hiện bằng
văn bản và còn có trường hợp phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có
thẩm quyền khác. Theo quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005
thì chỉ trong những trường hợp có quy định của pháp luật về loại giao dịch nào đó
phải tuân theo những hình thức nhất định và hình thức đó là điều kiện có hiệu lực


của giao dịch thì hình thức của giao dịch mới trở thành một điều kiện bắt buộc để

giao dịch đó có hiệu lực. Có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất cho rằng khi pháp luật đã quy định hình thức của giao
dịch là một điều kiện bắt buộc thì khi các bên vi phạm điều kiện về hình thức thì
giao dịch sẽ vô hiệu. Trong trường hợp này nếu các bên không yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch đó vô hiệu về hình thức Toà án cũng có quyền tuyên bố giao
dịch đó vô hiệu, có như vậy mới bảo đảm được yêu cầu quản lý của Nhà nước và
sự nghiêm minh của pháp luật. Bởi chính khoản 2 Điều 124 đã quy định rõ là
“Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng
văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó”. Đây là một quy định mệnh lệnh dứt khoát, bắt buộc
chứ không phải là một quy định tuỳ nghi. Hơn nữa Điều 127 Bộ luật Dân sự cũng
quy định: “giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại
Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Như vậy ba điều kiện về nội dung là điều
kiện cần và điều kiện về hình thức là điều kiện đủ để cho một giao dịch dân sự có
hiệu lực pháp luật. Do đó, không có lý do gì khi giao dịch đã vi phạm điều kiện
này mà Toà án phải chờ một bên hoặc các bên có yêu cầu mới tuyên bố giao dịch
vô hiệu, còn đương sự không có yêu cầu thì không xem xét là không hợp lý, không
phù hợp với tinh thần, lời văn của điều luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng các quy định tại Điều 122, khoản 2 Điều 124,
Điều 127 Bộ luật Dân sự là những quy định chung, mang tính nguyên tắc, không
nhất thiết giao vi phạm điều kiện về hình thức là vô hiệu. Tại khoản 2 điều 124
BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải
được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép thì phải tuân theo quy định đó”. Nhưng cũng chính tại đoạn hai khoản 2 Điều


401 BLDS cũng đã quy định: “hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi
phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Vậy hiểu quy định này như thế nào? nếu theo quan điểm một thì khi pháp luật
đã quy định một loại giao dịch nào đó phải tuân theo một hình thức nhất định mà vi

phạm điều kiện về hình thức đều vô hiệu thì quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 401
Bộ luật Dân sự sẽ trở thành vô nghĩa. Việc quy định nhập nhằng như vậy gây khó
khăn cho người đọc về vấn đề vô hiệu giaoa dịch dân sự do không tuân thủ về hình
thức
Tuy nhiên, có một số nhà làm luật lại không tán thành hai quan điểm trên, mặc
dù cũng cảm thấy quy định tại đoạn hai khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự dễ gây
cảm giác như có mâu thuẫn với các quy định tại khoản 2 Điều 122, Điều 127, Điều
134 và Điều 136 Bộ luật Dân sự dẫn đến có cách hiểu khác nhau. Nếu như Bộ luật
Dân sự năm 1995 coi vi phạm điều kiện về hình thức là rất nghiêm trọng giống như
với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, như khoản 2 Điều 145 Bộ luật Dân sự
năm 1995 đã quy định: “2- Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều
137, Điều 138 và Điều 139 của Bộ luật này, thì thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố
giao dịch vô hiệu không bị hạn chế”. Như vậy, bất cứ lúc nào các bên đương sự
cũng có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều
kiện về hình thức; còn theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì các giao
dịch dân sự vi phạm điều kiện về hình thức không phải đương nhiên vô hiệu. Dù
giao dịch dân sự có vi phạm điều kiện về hình thức mà các bên không khởi kiện
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức thì Toà án không
xem xét; nếu trường hợp đương sự yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu do vi
phạm về hình thức thì theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự, thời gian tuyên
bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức chỉ có hai năm kể từ ngày


giao dịch dân sự được xác lập, quá thời hạn này đương sự mới yêu cầu thì Toà án
không chấp nhận yêu cầu đó. Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Dân sự thì giao
dịch dân sự là hợp đồng dân sự, nên các vụ án về hợp đồng dân sự đương nhiên áp
dụng Điều 136 Bộ luật Dân sự.
Vấn đề cuối cùng liên quan đến các trường hợp vô hiệu do vi phạm điều kiện
về hình thức của giao dịch dân sự liên quan đến quy định tại Điều 139 BLDS. Điều

139 BLDS quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự vô
hiệu, nếu không được thể hiện bằng văn bản, không được Công chứng nhà nước
chứng nhận, không được chứng thực, đăng ký hoặc cho phép, thì theo yêu cầu của
một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc
các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời
hạn đó mà không thực hiện, thì giao dịch vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô
hiệu phải bồi thường thiệt hại”.Trên thực tế đang tồn tại hai quan điểm trái ngược
nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng đây thuộc trường hợp giao dịch
dân sự vô hiệu tương đối bởi những lý do: Giao dịch vô hiệu “theo yêu cầu của
một hoặc các bên”
Giao dịch chỉ bị coi là vô hiệu khi quá thời hạn Toà án buộc thực hiện các quy
định về hình thức mà các bên vẫn không thực hiện các quy định đó. Lý do thứ nhất
là không hợp lý, bởi vì “yêu cầu của một hoặc các bên” ở đây không phải là yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, mà là yêu cầu cho phép các bên có
thể sửa chữa những sai phạm về hình thức của giao dịch, hoàn thiện các thủ tục về
hình thức mà pháp luật quy định, nhằm mục đích làm cho giao dịch trở nên có hiệu
lực. Từ đó suy ra lý do thứ hai cũng không mang tính thuyết phục. Bởi lẽ khi hết
thời hạn đó mà các bên không thực hiện các quy định về hình thức thì khi đó giao
dịch vẫn bị coi là vô hiệu (chứ không được hiểu là chỉ khi đó giao dịch mới vô
hiệu), các bên phải thực hiện các nghĩa vụ là hậu quả của giao dịch vô hiệu.


Quan điểm thứ hai, và cũng là quan điểm mang tính đúng đắn hơn, cho rằng giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định về hình thức là thuộc trường hợp vô
hiệu tuyệt đối. Bởi lẽ các trường hợp giao dịch phải tuân thủ theo hình thức nhất
định được pháp luật quy định rất cụ thể và mang tính chất bắt buộc đối với các bên
của giao dịch. Cũng chính vì tính chất vô hiệu tuyệt đối mà pháp luật không hạn
chế thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Khoản 2 Điều 145
BLDS). Còn đối với các trường hợp vô hiệu tương đối thì thời hạn khởi kiện được
quy định là 1 năm (khoản 1 Điều 145 BLDS). Khoản 5 Điều 403 BLDS khẳng

định thêm một lần nữa quan điểm này khi quy định rằng đối với các hợp đồng phải
có chứng nhận của Công chứng nhà nước, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép, thì
chỉ có hiệu lực từ thời điểm được chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép.
Điều đó có nghĩa rằng khi các bên chưa thực hiện các quy định về hình thức văn
bản có công chứng, chứng nhận, chứng thực hoặc đăng ký thì hợp đồng chưa có
hiệu lực pháp luật.
Ngày 23/4/1996, anh Đặng Xuân Bằng nhận chuyển nhượng của ông Ngô Đức
Hiền 1 thửa đất có kích thước 112,5m2 với giá 13 triệu đồng. Thửa đất này nằm ở
đội 5, thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, Thanh Trì, Hà Nội. Hai bên đã viết giấy chuyển
nhượng, anh Bằng đã trả đủ tiền, nhận quản lý và sử dụng đất.
Ngày 27/3/2002, anh Bằng đã thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất trên cho anh
Phạm Văn Triển với số tiền 30 triệu đồng.Anh Triển đã trả trước 10 triệu đồng và
thống nhất khi nào hai bên làm xong giấy tờ sẽ trả nốt tiền và giao đất.
Tháng 5/2003, Anh Bằng lại chuyển nhượng thửa đất nói trên cho vợ chồng bà
Vũ Thị Thu Hà và ông Đặng Bá Thường với số tiền 30 triệu đồng.
Tháng 7/2003 anh Triển đề nghị UBND xã Duyên Hà giải quyết nhưng không
có kết quả.


Tháng 2/2008, anh Triển khởi kiện đề nghị Tòa án hủy hợp đồng giữa anh và
anh Bằng, buộc anh Bằng trả lại 10 triệu đồng và bồi thường thiệt hại.
Anh Bằng thừa nhận “ Giấy biên nhận” chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
anh và anh Triển do anh viết và đã nhận 10 triệu đồng nhưng đó là tiền đặt cọc.
Nay anh Bằng chấp nhận trả lại 10triệu đồng nhưng không chấp nhận bồi thường.
Theo biên bản định giá thì mảnh đất nằm trong ngách hẻm nhỏ và trong vùng
thoát lũ của khu vực, thuộc vị trí số 4 xã Duyên Hà, giá tại thời điểm xét xử là
900.000 đồng/ m2.
=>Vì giao dịch giữa anh Đặng Xuân Bằng và ông Phạm Đức Triển bằng “ giấy
biên nhận” bị tòa án tuyên bố vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức.
Theo điều 122 Bộ luật dân sự 2005, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự,

có thể nhận thấy rằng, giao dịch dân sự giữa anh Bằng và anh Triển là giao dịch
được xác lập giữa những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, mục đích và nội
dung của giao dịch hợp pháp, hai bên đều hoàn toàn tự nguyện khi tham gia giao
dịch. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì
phải tuân theo các quy định đó (khoản 2 Điều 401 BLDS). Luật Đất đai 2003 có
quy định cụ thể hơn: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng
nhận của công chứng nhà nước, trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của
công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi có đất (điều127).Như vậy, giao dịch giữa anh Triển và anh Bằng chưa có chứng
thực nên vô hiệu vì vi phạm về mặt hình thức.
Hậu quả pháp lý mà giao dịch giữa anh Bằng và ông Triển như sau:


Diện tích của thửa đất mà anh Bằng thỏa thuận chuyển nhượng cho anh Triển là
112,5m2 với giá 30 triệu đồng.Anh Triển đã trả trước cho anh Bằng 10 triệu đồng,
tương ứng với 1/3 giá trị của hợp đồng, tức 37,5m2 đất. Tại thời điểm xét xử sơ
thẩm, 1m2 đất có giá 900.000 đồng, 37,5m2 đất tương đương với 33.750.000đồng.
Nếu trừ đi số tiền gốc thì thiệt hại thực tế phải là 23.750.000đồng. Tuy nhiên anh
Triển cũng có lỗi khi không cùng anh Bằng hoàn thành hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất hoặc không thực hiện đến nơi đến chốn, dẫn tới giao dịch dân
sự vô hiệu, anh Triển cũng phải chịu hậu quả 30%, tức 7.125.000 đồng. Như vậy,
anh Bằng phải trả anh Triển 10 triệu đồng và bôi thường thiệt hại cho anh Triển
16.625.000đồng.Tổng cộng là 26.625.000đồng (hai mươi sáu triệu sáu trăm hai
mươi lăm ngàn đồng).
3.2 Nguyên nhân của bất cập
Việc quy định về hình thức của giao dịch và giải quyết hậu quả của giao dịch
không tuân thủ hình thức còn chủ yếu dựa trên những khía cạnh sau:
- Việc quy định hình thức trong nhiều trường hợp còn xuất phát từ mục đích

lấy hình thức của giao dịch để hạn chế việc trốn tránh các nghĩa vụ tài chính đối
với nhà nước hoặc phục vụ cho công tác quản lý nhà nước đối với những giao dịch
có chủ thể hoặc đối tượng đặc thù. Do đó, nếu gắn mục đích này để công nhận hay
bác bỏ sự thể hiện ý chí các bên chỉ vì không tuân thủ hình thức mà nhà nước
mong muốn là không công bằng với các chủ thể trong quan hệ dân sự;
- Không làm rõ được hai vấn đề: bản chất của giao dịch là sự thể hiện ý chí
của các bên; còn hình thức chỉ là phương tiện cho các bên biểu đạt ý chí của mình.
Một giao dịch không tuân thủ hình thức không có nghĩa là sự thể hiện ý chí giữa
các bên là không cóhiệu lực. Tuy nhiên, xét dưới góc độ khách quan, việc thể hiện
ý chí theo một hình thức nhất định chính là nhằm công khai hóa ý chí của các bên
trong giao dịch đối với người thứ ba và đối với nhà nước. Việc không tuân thủ hình


thức đồng nghĩa với việc các chủ thể của giao dịch mất đi quyền được bảo vệ trước
người thứ ba hoặc trước nhà nước. Làm rõ được hai vấn đề này sẽ bảo đảm được
hài hòa lợi ích của các bên trong giao dịch với lợi ích của người thứ ba và lợi ích
của xã hội.
Chương IV. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về hình thức GDDS
Tuy BLDS 2015 đã có những tiến bộ nhất định so với BLDS 2005 tuy nhiên ý kiến
cá nhân người viết vẫn cần làm rõ một số điểm sau:
-

Về tính khả thi:

Với những quy định hiện hành về hình thức của giao dịch dân sự, nhà làm luật
không quy định cụ thể về những loại giao dịch có tính chát, đặc điểm gì thì phải
tuân thủ quy định về hình thức và khi nào hình thức là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch. Các nhà làm luật đang đi theo hướng để cho người thực hiện luật phải tự
“mày mò”, tìm kiếm và tự tổng kết chúng từ vô vàn các văn bản luật chuyên ngành
như: Luật Nhà ở, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh bất động sản, luật

Đấtđai…
-

Cần tiếp tục nghiên cứu vấn đề không tuân thủ về hình thức là điều kiện
tuyên bố giao dịch vô hiệu:

Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và BLDS 2015, chúng ta quy định hình thức là
điều kiện bắt buộc trong một số loại giao dịch dân sự nhất định là không hợp lý. Bởi
lẽ, hình thức giao dịch chỉ là sự thể hiện ý chí của các bên khi tham gia giao dịch dân
sự; còn việc công chứng Nhà nước chứng nhận hay chứng thực, đăng ký hoặc cho
phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực chất là xác nhận sự kiện pháp lý
giữa các bên. Khi có tranh chấp xảy ra, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xác định
có hay không có sự kiện này.


Như vậy, có thể khẳng định rằng với quy định như Điều 134 Bộ luật dân sự năm
2005 không thiết thực trong quá trình giải quyết hợp đồng dân sự vô hiệu.
Quy định này hiện nay đang gây nhiều tranh cãi và thực tế không bảo vệ được
lợi ích hợp pháp của những người ngay tình, đôi khi tạo ra kẽ hở cho một số đối
tượng lợi dụng để yêu cầu tuyên bố giao dân sự vô hiệu nhằm phục vụ các lợi ích,
mục đích cá nhân một bên chủ thể.
Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2005 "Trong trường hợp pháp luật
quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các
bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức
của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch
vô hiệu". Quy định này trên thực tế chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cả hai bên chủ
thể của giao dịch đều có thiện chí mong muốn tiếp tục thực hiện giao dịch. Tuy
nhiên, trường hợp này hầu như khó có thể xảy ra, bởi việc tuyên bố vô hiệu là do
yêu cầu của một trong các bên, do đó, khi họ đã nộp đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu

có nghĩa là họ mong muốn giao dịch đó không được tiếp tục thực hiện nữa.
Theo đó, chúng ta cần bổ sung quy định tại điều 134 BLDS 2005 theo hướng
xác định rõ: khi các bên có thảo thuận hoặc pháp luật có quy định hình thức là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì tùy trường hợp mà tòa án xem xét để công
nhận hoặc tuyên bố giao dịch đó vô hiệu , nếu xét thấy cần thiết, công bằng và có
căn cứ
-

Cần bổ sung thêm các tiêu chuẩn cụ thể để tòa án có căn cứ pháp lý xem xét,
công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự nếu giao dịch đó đã được các bên
xác lập, thực hiện trên thực tế một cách ngay tình, công bằng, để các điều


kiện giao dịch có hiệu lực nhưng hình thức không đúng quy định. Cụ thể
như sau:
+ Trong trường hợp hiệu lực của giao dịch được công nhận mà các bên chưa
thực hiện hoàn tất nghĩa vụ chuyển giao vật thì phải tiếp tục trả khoản tiền còn
thiếu, theo tỷ lệ tương ứng tính theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
-

Cần bổ sung quy định về căn cứ để tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình
thức:

Nếu giao dịch dân sự được xác lập không đúng hình thức do các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật quy định như trên thì theo yêu cầu của các bên, tòa án hoặc cơ quan
có thẩm quyền khác tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của
giao dịch vô hiệu theo điều 137 BLDS. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
được xem như là giải pháp cuối cùng, trong trường hợp giao dịch không có đủ điều
kiện cần thiết để được công nhận hiệu lực.




×