Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Pháp luật về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.27 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ................................................................................................... 3
I. SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: ............................................... 3
1. Khái niệm: ................................................................................................. 3
2. Đặc điểm: .................................................................................................. 3
3. Chức năng của ngân hàng thương mại: ......................................................... 4
II. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: .................... 6
1. Khái niệm: ................................................................................................. 6
2. Đặc điểm: .................................................................................................. 6
3. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM .................................................... 7
4. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại ............................................. 7
5. Phân loại ................................................................................................... 8
6. Quy trình cho vay ..................................................................................... 10
CHƯƠNG 2: KIỂM SOÁT RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .......................................................................... 12
I. CÁC RỦI RO CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: .................... 12
1. Khái niệm: ............................................................................................... 12
2. Các loại rủi ro trong hoạt động cho vay: ..................................................... 12
3. Tác động rủi ro hoạt động cho vay: ............................................................ 14
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI RỦI RO CHO VAY ............................. 15
1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng .............................................................. 15
2. Nguyên nhân từ phía khách hàng: .............................................................. 16
3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh: .................................................... 17
4. Nguyên nhân từ quy định Pháp luật không rõ ràng. ..................................... 17
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM..................................................... 19
I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ....................... 19


1. Quy đinh về tỷ lệ an toàn tối thiểu ............................................................. 19
2. Quy định về giới hạn cho vay .................................................................... 19
3. Quy định về tỷ lệ khả năng chi trả .............................................................. 21


4. Quy định về tỷ lệ cấp tín dụng ................................................................... 21
5. Quy định về xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay: .................... 23
6. Quy định về trích lập dự phòng.................................................................. 24
7. Quy định về bảo đảm tiền vay ................................................................... 24
8. Quy định về kiểm soát nội bộ. ................................................................... 25
II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM: ............................................................................................... 28
1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng và cơ cấu quản lý, giám sát rủi ro
cho vay của ngân hàng thương mại: ............................................................... 28
2. Xây dựng hệ thống văn bản chế độ, quy chế, quy trình, thủ tục cấp tín dụng: . 29
3. Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp ....................................................... 30
4. Xây dựng chính sách khách hàng trong hoạt động tín dụng. ......................... 31
5. Tài sản đảm bảo tiền vay. .......................................................................... 31
6. Đánh giá các rủi ro phát sinh đối với việc phát triển các loại hình sản phẩm tín
dụng mới. .................................................................................................... 32
KẾT LUẬN....................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 34

Trang 2 / 37


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
I. SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:

1. Khái niệm:
Theo Luật TCTD “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện
tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.”
Cụ thể, ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh
doanh tiền tệ, với nghiệp vụ thường niên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch
vụ liên quan đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng nhằm mục tiêu lợi nhuận.
2. Đặc điểm:
Về cấu trúc tài chính và tài sản: là doanh nghiệp có quy mô lớn, hệ số nợ rất
cao và cấu trúc tài sản đặc biệt
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp có quy mô lớn trên cả giác độ vốn chủ
sở hữu và tổng tài sản. Ở Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các Ngân hàng thương mại là
hàng nghìn tỷ đồng. đối với các Ngân hàng thương mại trên thế giới, vốn chủ sở hữu
lên tới nhiều tỷ đô la Mỹ. Mạng lưới các chi nhánh Ngân hàng thường rất lớn và phân
tán rộng về địa lý. Trong khi quy mô về vốn chủ sở hữu đã rất lớn, nguồn vốn của Ngân
hàng thương mại lại chủ yếu là nợ được huy động từ bên ngoài Ngân hàng. Cấu trúc tài
sản của Ngân hàng thương mại đặc biệt hơn so với các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh khác là ở tỷ trọng tài sản tài chính. Phần lớn tài sản của Ngân hàng thương mại
là tài sản tài chính, mang đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản đơn chỉ là giấy
tờ hoặc thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử được lưu giữ trong một thiết bị nhất định. Bên
cạnh đó, Ngân hàng thương mại thường có xu hướng liên tục phát triển các sản phẩm,
công cụ tài chính mới.
Hoạt động của Ngân hàng thương mại luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu
sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống luật pháp
Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp có hệ số nợ cao sẽ dẫn đến
rủi ro trong hoạt động cũng cao. Bên cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu của Ngân hàng
thương mại lại là tiền gửi với đặc trưng có thể bị rút ra trước hạn với khối lượng khó
xác định. Sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng không được hưởng quy chế bảo hộ độc quyền
và mang tính phức tạp, trực tiếp. Hơn nữa, Ngân hàng thương mại tham gia vào nhiều
cam kết trong khi chưa chuyển giao vốn thực sự, tức là hoạt động ngoại bảng phong

phú và đa dạng. điểm này là một đặc trưng khác biệt với các loại hình doanh nghiệp
khác. Vì những lý do này, hoạt động của Ngân hàng thương mại chứa đựng nhiều rủi
ro hơn các ngành kinh doanh khác. Rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
đa dạng, ở mức độ cao, tích luỹ nhanh và dễ lây lan. Rủi ro trong hoạt động của Ngân
hàng thương mại bao gồm các loại rủi ro đặc thù như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản,
rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro đạo đức,…
Trang 3 / 37


Là doanh nghiệp có quy mô lớn, mạng lưới rộng khắp, hoạt động chịu nhiều rủi
ro, ảnh hưởng đáng kể đến nhiều hoạt động kinh tế xã hội, Ngân hàng thương mại chịu
sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống phát luật. Các quy định pháp lý đối với
Ngân hàng thương mại được phổ rộng trên nhiều mặt của hoạt động kinh doanh như:
điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn của người lãnh đạo NH, dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền
gửi, an toàn trong hoạt động, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng vốn tự
có đầu tư cho tài sản cố định,…
Tính liên kết và ổn định của hệ thống Ngân hàng
Hệ thống Ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Hơn bất cứ ngành kinh
doanh nào trong nền kinh tế, rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có tính lan toả rất nhanh.
Hoạt động như một hệ thống các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một ngân hàng
thương mại, dù yếu và nhỏ nhất, gặp khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là khó khăn về
thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ phá sập hệ thống. Thực tiễn đã cho thấy, thanh
khoản được ví như hơi thở của sự sống của hoạt động ngân hàng thương mại. Mọi rủi
ro, tổn thất trong hoạt động của ngân hàng thương mại đều có thể dẫn đến hậu quả cuối
cùng là Ngân hàng mất khả năng thanh toán rồi phá sản.
Hệ thống Ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy cảm với mọi biến
động về kinh tế, kỹ thuật, chính trị và xã hội. Những biến động này thường có tác động
gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính, điển hình là thị trường chứng
khoán, theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ thống Ngân hàng. đối
với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ chế hoạt động, ảnh hưởng

lẫn nhau của các phần tử trong hệ thống tài chính là một trong những vấn đề cốt yếu,
quyết định thành bại.
3. Chức năng của ngân hàng thương mại:
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó. Các chức
năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung
có các chức năng sau:
Chức năng tạo tiền.
Để phục vụ cho lưu thông, giúp cho nền kinh tế phát triển, NHNN đưa một khối
lượng tiền nhất định vào trong lưu thông. Lượng tiền đó phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu
của nền kinh tế, nhưng lượng tiền cung ứng vượt quá nhu cầu của nền kinh tế sẽ gây ra
lạm phát có hại cho nền kinh tế. Với một lượng tiền cung ứng ban đầu, thông qua hoạt
động nhận tiền gửi và cho vay của hệ thống NHTM đã làm tăng lượng tiền cung ứng so
với ban đầu. Đây là chức năng chủ yếu của NHTM, chức năng tạo tiền. Và thông qua
chức năng này của NHTM mà NHNN với những công cụ của mình như dự trữ bắt buộc,
lãi suất chiết khấu… có thể thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia nhằm đưa ra một
khối lượng tiền phù hợp, ổn định được giá trị đồng tiền.
Chức năng trung gian thanh toán.

Trang 4 / 37


Với hoạt động này của mình, NHTM đã tạo điều kiện cho việc thanh toán giữa
các tổ chức cá nhân… được thuận tiện và đặc biệt là tiết kiệm được chi phí cho họ cũng
như tiết kiệm chi phí cho xã hội. Bởi vì việc thanh toán qua ngân hàng được thực hiện
tập trung, chuyên nghiệp và có công nghệ cao. Và cũng qua hoạt động thanh toán
NHTM thu được những lợi ích nhất định. Ngày nay hoạt động thanh toán ngày càng
phát triển tại các NHTM. Việc thanh toán không dùng tiền mặt được các ngân hàng
khuyến khích.
Hoạt động huy động tiền gửi.
Để có được nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư tín dụng, NHTM đã tiến hành đã

tiến hành huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Việc huy động vốn này giúp
cho NHTM có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu của nền kinh tế. Tạo ra thu nhập cho
người gửi tiền là một lợi ích mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng mang lại. Những
người gửi tiền vào NHTM sẽ được nhận tiền lãi, tạo thu nhập cho những khoản tiền
nhàn rỗi của họ. Ngày nay để huy động được nhiều tiền gửi, NHTM đã phát triển rất
nhiều loại tiền gửi khác nhau: Có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán hoặc
tiền gửi tiết kiệm…
Hoạt động tín dụng.
Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi nó tạo ra thu nhập chính cho NHTM,
duy trì sự tồn tại của NHTM. Đây cũng là hoạt động cơ bản và lâu dài của NHTM.
NHTM dùng những khoản vốn huy động được để cho vay đối với nền kinh tế, nhằm
giúp những người có nhu cầu có được vốn để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh
của mình hoặc đảm bảo các nhu cầu khác. Với việc cho vay này NHTM đã tạo cho sự
phát triển kinh tế được thông suốt và hiệu quả. Bởi nếu không có nguồn vốn vay từ ngân
hàng thì rất nhiều doanh nghiệp không thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh được.
Hầu như mọi doanh nghiệp hiện nay đều vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động
cho vay mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng lãi vay. Càng cho vay được nhiều
thì lãi thu được càng lớn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy việc
nâng cao các khoản tín dụng là mục tiêu hàng đầu, sống còn trong hoạt động kinh doanh
của mình để vừa đảm bảo có thu nhập cao vừa an toàn, hiệu quả.
Tài trợ hoạt động ngoại thương
ngày nay khi mà hoạt động thương mại quốc tế ngày một phát triển, xuất nhập
khẩu giữa các nước đã diễn ra mạnh mẽ thì đòi hỏi việc thanh toán quốc tế cũng như
những hộ trợ khác cho thanh toán ngày càng nhiều. Việc đảm bảo thanh toán cho các
doanh nghiệp giữa các nước đòi hỏi một tổ chức đứng ra phải có đủ khả năng và uy tín
như NHTM mới đảm trách được. Các NHTM giúp cho các doanh nghiệp có hoạt động
đối ngoại thực hiện việc thanh toán được hiệu quả, an toàn và đặc biệt là giảm được chi
phí cho họ. Ngoài ra NHTM còn có hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ giúp cho các doanh nghiệp
có thể thực hiện một cách thuận lợi và an toàn các hoạt động ngoại thương. Cụ thể ngân
hàng thực hiện các nghiệp vụ mở L/C, séc chuyển tiền, hối phiếu…


Trang 5 / 37


Hoạt động bảo lãnh.
Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn mà đòi hỏi về vốn và uy tín
vượt qua khả năng tài chính của mình, nhưng dự án đó là có hiệu quả. Vì vậy các doanh
nghiệp này rất cần một tổ chức đứng ra bảo lãnh cho họ để họ ký kết hoạt động thực
hiện dự án. Ngân hàng chính là người bảo lãnh tốt cho các doanh nghiệp bởi NHTM có
tiềm lực về vốn và uy tín. Mặt khác, NHTM có thể tư vấn cung cấp tiền tệ, nghiệp vụ
giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt dự án. Hiện nay, việc NHTM bảo lãnh cho các doanh
nghiệp là khách hàng của mình ngày càng phổ biến, điều đó mang lại lợi ích cho cả hai
bên: NHTM và doanh nghiệp.
Ngoài ra NHTM còn có nhiều chức năng khác như: Dịch vụ uỷ thác, bảo đảm an
toàn vật có giá…
II. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Khái niệm:
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.1
2. Đặc điểm:
2.1 Hoạt động cho vay của TCTD là giao dịch hợp đồng.
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được thực hiện theo
thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật.2
Trong hoạt động của ngân hàng thì cho vay là hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập chính
cho ngân hàng. Chính vì vậy mỗi ngân hàng sẽ có một chiến lược kinh doanh riêng biệt
trong hoạt động cho vay. Quan hệ cho vay có sự tham gia của hai chủ thể ngân hàng
thương mại và khách hàng, mối quan hệ này được thiết lập nên dựa trên nền tảng của
sự thỏa thuận giữa các chủ thể trong khuôn khổ luật định.
2.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro

Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ, trong đó ngân hàng sử dụng số vốn huy
động được từ nền kinh tế để cho vay đối với khách hàng. Trong các hoạt động của ngân
hàng thì tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, tuy nhiên đây
cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Nói đến vay tức là nói về rủi ro cao. Đa
phần những rủi ro tín dụng đều bắt nguồn từ những khoản vay của NHTM. Đối với
những khoản vay càng lớn thì rủi ro càng cao. Có thể nói cho vay là một nghiệp vụ phức
tạp, độ an toàn thấp và rủi ro cao.

Khoản 1 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng
2 Khoản 1 điều 4 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng
1

Trang 6 / 37


Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh
doanh của các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế càng tăng cao. Để đáp
ứng nhu cầu đó NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa hoạt động cho vay, các loại hình cho
vay ngày càng được mở rộng hơn. Chính điểu này đã làm tăng thêm tính rủi ro cho hoạt
động cho vay.
3. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM
3.1. Vai trò đối với nền kinh tế
Thể hiện vai trò trung gian tài chính của mình Ngân hàng thương mại thực hiện
hoạt động cho vay. Ngân hàng thương mại và ngân hàng nói chung đóng vai trò là cầu
nối vốn cho nền kinh tế, giữa người thừa vốn và người cần vốn để đầu tư. Chính vì vậy
nó góp phần giải quyết được các vấn kinh tế - xã hội như tăng trưởng, phát triển kinh
tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động…
Việc vay vốn của các tổ chức, cá nhân đều xuất phát từ nhu cầu mở rộng sản xuất

hoặc đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất lao
động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
3.2. Vai trò đối với người đi vay
Như ta đã biết, hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động cung ứng tiền cho
tất cả các khách hàng có yêu cầu để phục vụ mục đích sản xuất và tiêu dùng. Người đi
vay , rõ hơn là khách hàng vay tiền của ngân hàng rất đa dạng, từ doanh nghiêp cho đến
những cá nhân bình thường.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có nhiều kỳ hạn khác nhau như:
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với các mức lãi suất thỏa thuận linh hoạt. Vì thế khách
hàng có thể tùy ý lựa chọn kỳ hạn vay và thỏa thuận về mức lãi suất vay với ngân hàng
phù hợp với mục tiêu kinh doanh hoặc tiêu dùng của mình.
Điều này giúp khách hàng tập trung được vốn, giảm chi phí huy động đối với
kinh doanh. Bên cạnh đó, những thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng về gia hạn
hợp đồng cho vay khi hết hợp đồng cho vay giúp cho khách hàng giải quyết được các
khó khăn tạm thời về vốn để tiếp tục kinh doanh và tránh được nguy cơ phá sản doanh
nghiệp. Đối với tiêu dùng có thể đảm bảo cung cấp tiền nhanh chóng an toàn, trong một
thời gian ngắn huy động được số tiền cần thiết. Có thể nói hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại đóng vai trò quan trọng và thiết yếu.
3.3. Vai trò đối với ngân hàng.
Tiền tệ chính là đối tượng kinh doanh của ngân hàng nói chung và ngân hàng
thương mại nói riêng và hoạt động cho vay là một hoạt động thiết yếu, quan trọng bật
nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Lãi suất từ hoạt động cho
vay mang lại lợi nhuận chính cho ngân hàng. Hoạt động cho vay là hoạt động chứa
nhiều rủi ro tiềm ẩn tuy nhiên vẫn không thể làm giảm vai trò của cho vay.
4. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại
Trang 7 / 37


4.1. Nguyên tắc thứ nhất: Nguyên tắc quản lý mục đích tiền vay.
Theo nguyên tắc này mặc dù người đi vay phải thế chấp tài sản để được vay tiền,

nhưng người cho vay (ngân hàng thương mại) có quyền kiểm tra việc sử dụng vốn vay
đối với người vay. Người vay phải xây dựng dự án, phương án xin vay vốn và phải có
trách nhiệm thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký với ngân hàng. Ngân hàng chỉ chấp
nhận thỏa thuận vay vốn với khách hàng khi đã năm đẩy đủ thông tin về mục đích vay
tiền của khách hàng.
Mục đích của việc đề ra nguyên tắc này là đảm bảo tính hoàn trả của đồng vốn
đồng thời quản lý vốn đầu tư theo đúng định hướng và cơ cấu đầu tư. Quản lý vốn đầu
tư đúng định hướng từ đó đảm bảo tính cân đối trong nền kinh tế.
4.2 Nguyên tắc thứ hai: Nguyên tắc hoàn trả
Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng sau thời gian vay vốn.
Thời gian vay vốn là khoảng thời gian kể từ khi người vay lĩnh tiền vay lần đầu tiên đến
khi trả hết nợ gốc và tiền lãi.
Ngân hàng thương mại có quyền, kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của
khách hàng trong thời gian vay và kiểm tra trong việc trả nợ của khách hàng.3
Nguyên tắc hoàn trả thể hiện ở hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là số lượng hoàn
trả Số lượng hoàn trả sẽ bằng tổng số tiền gốc của khoản vay và số lãi phát sinh trong
quá trình vay vốn. Khía cạnh thứ hai là thời gian hoàn trả. Thời gian hoàn trả phải thực
hiện theo thoả thuận giữ hai bên được ghi trong hợp đồng vay tiền.
Ngoài ra nếu đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy
đủ nợ gốc và lãi hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận, thì khách hàng phải trả thêm một
khoản lãi phát sinh cho ngân hàng, gọi là lãi suất trả chậm 4
5. Phân loại
Căn cứ vào mục đích, căn cứ vào thời hạn cho vay, căn cứ vào mức độ tín nhiệm
đối với khách hàng, căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng …. Ta có thể xem xét một
số hình thức phân loại sau:
5.1 Phân loại dựa vào thời hạn cho vay5.
Cho vay ngắn hạn:
Loại cho vay này có thời hạn cho vay tối đa là một năm, được sử dụng để bù đắp
thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá


3 Khoản 3 Điều 94 Luật tổ chức tín dụng
4 Khoản 4 điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
5 Điều 10 thông tư 39/2016/TT-NHNH quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
Trang 8 / 37


nhân. Tại các NHTM Việt Nam hiện nay thì tín dụng ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng cao
nhất.
Cho vay trung hạn:
Loại cho vay này có thời hạn từ trên 1 năm và tối đa là 5 năm. được sử dụng chủ
yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở
rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi
vốn nhanh. Trong công nghiệp thì chủ yếu là cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối
tượng: máy cày, bơm nước, xây dựng các vườn cà phê, điều ..
Cho vay dài hạn:
Đây là loại vay có thời hạn trên 5 năm, là loại tín dụng cung cấp để đáp ứng các
nhu cầu dài hạn như xây nhà ở, xây dựng các xí nghiệp mới, mua sắm các thiết bị,
phương tiện vận tải với quy mô lớn.Hiện nay các NHTM đang cố gắng nâng cao tỷ
trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Mặc dù độ rủi ro gặp
phải là rất lớn nhưng bù lại lãi suất cho vay rất cao, có khả năng đem lại lợi nhuận lớn
cho ngân hàng.
5.2. Phân loại dựa trên mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Cho vay không có đảm bảo:
Là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của
người thứ ba mà việc cho vay được thực hiện chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách
hàng. Đối với khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh,
quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể tin tưởng sẵn sàng cấp tín dụng mà không cần
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Hình thức cho vay này sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho

ngân hàng nếu như có sự nhầm lẫn, sơ ý trong việc đánh giá, phân tích, thẩm định hồ
sơ khách hàng.
Cho vay có bảo đảm:
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải đi
kèm theo tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân
hàng có sự đảm bảo này nhằm củng cố niềm tin vào khách hàng. Đây cũng là căn cứ
pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ
nhất nếu như xảy ra một sự cố nào đó trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
5.3 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Cho vay sản xuất kinh doanh:
Cho vay sản xuất kinh doanh là loại cho vay mà tiền vay tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình bỏ vốn mua các yếu tố
sản xuất sau đó thực hiện quá trình lao động để kết hợp các yếu tố sản xuất thành sản
phẩm và tiêu thụ, sau đó tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đối với cho vay sản xuất kinh

Trang 9 / 37


doanh có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Thông thường đối với lĩnh vực
lưu thông hàng hoá các ngân hàng thường cho vay ngắn hạn.
Cho vay tiêu dùng:
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay mà mục đích là để sử dụng vào tiêu dùng.Khác
với cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng vốn vay bị tiêu dùng dần không tạo
ra sản phẩm hàng hoá, vì vậy cho vay tiêu dùng phải có nguồn thu nợ độc lập với dự
án, như nguồn tiền lương, nguồn thu từ bán các tài sản khác của người vay…
6. Quy trình cho vay
Quy trình cho vay của các ngân hàng cụ thể tùy thuộc vào tổ chức và nghiệp vụ
của từng ngân hàng. Nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như phương thức, hình
thức vay, v.vv. Tuy nhiên thông thường diễn ra qua 5 bước cơ bản sau:
6.1. Hướng dẫn khách hàng làm thủ tục xin vay vốn:

Nếu lần đầu xin vay thì khách hàng phải cung cấp cho ngân hàng những tài liệu
chứng minh tính pháp lý của mình.
Gửi đơn xin vay, trong đó điền đầy đủ những thông tin cần thiết . Ngoài ra, người
xin vay phải nộp kế hoạch sản xuất kinh doanh để xác định nhu cầu, cung cấp cho ngân
hàng những hợp đồng kinh tế liên quan đến việc thực hiện kế hoạch, dự án để xác định
tính khả thi của dự án. Nộp báo cáo tài chính kinh doanh hiện tại của khách hàng, kèm
theo những tài liệu chứng minh về đảm bảo an toàn tiền vay như : giấy tờ sở hữu, cầm
cố, thế chấp, bảo lãnh. Những tài liệu này nhằm chứng minh khách hàng đầy đủ các
điều kiện vay vốn theo quy định của Pháp luật.
6.2. Ngân hàng tiến hành thu thập thông tin
Căn cứ vào các tài liệu trên thì ngân hàng tiến hành kiểm tra về tính pháp lý của
các tài liệu, uy tín của khách hàng, khả năng sinh lời của dự án, quyền sở hữu tài sản để
xem khách hàng có đảm bảo đủ độ tin cậy hay không. Ngân hàng có thể kiểm tra bằng
rất nhiều cách và nghiệp vụ riêng của ngân hàng. Một số cách thông thường là:
Phỏng vấn người xin vay.
Kiểm tra sổ sách của ngân hàng về hoạt động vay vốn của khách hàng trước đó.
Điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Điều tra qua việc thẩm định các báo cáo tài chính.
6.3. Ra quyết định cho vay
Khi ra quyết định cho vay thì ngân hàng sẽ ấn định mức cho vay căn cứ vào nhu
cầu xin vay vốn của khách hàng và khả năng có thể đáp ứng được của ngân hàng, xác
định thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ và mức trả nợ của những kỳ hạn. Những điều này
thể hiện trên hợp đồng cho vay được ký kết giữa ngân hàng với khách hàng.

Trang 10 / 37


6.4. Giải ngân
Việc tiến hành cho vay diễn ra căn cứ vào mức cho vay đã được xác định. Ngân
hàng mở tài khoản xin vay vốn của khách hàng. Rồi tiền hành chuyển tiền cho khách

hàng một lần hoặc nhiều lần theo thỏa thuận.
6.5. Kiểm tra giám sát khách hàng
Sau khi trao tiền vào tay khách hàng, ngân hàng vẫn phải tiếp tục thường xuyên
theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để đảm bảo được tính hoàn trả
trong hoạt động cho vay của mình, đề phòng và hạn chế rủi ro cũng như thu lãi suất và
lợi nhuận từ hoạt động cho vay.

Trang 11 / 37


CHƯƠNG 2: KIỂM SOÁT RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. CÁC RỦI RO CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Khái niệm:
Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay cụ thể thì trong hoạt động đó luôn
hàm chứa rủi ro tiềm ẩn, rủi ro này nó sẽ làm giảm khoản thu nhập của ngân hàng. Do
đó trong hoạt động quản lý toàn bộ ngân hàng luôn xác định một tỷ lệ tổn thất dự kiến
nhằm hạn chế mức tối thiểu các thiệt hại về tài sản do các rủi ro cho vay gây ra.
Rủi ro trong hoạt động cho vay là một hiện tượng tất yếu khách quan, có thể phát
sinh trong bất kỳ qui trình của quá trình cho vay ro từ lúc xem xét quyết định cho vay
cũng như trong suốt thời gian vay do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan.
Vấn đề quan trọng là các nhà quản trị ngân hàng phải có nhận thức đúng đắn và đầy đủ
về nó để đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro một cách có hiệu quả. Sự thực hiện tốt các
biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay là điều kiện quan trọng cho thị trường
tín dụng phát triển, là cơ sở để ngân hàng bảo toàn và phát triển hoạt động cấp tín dụng
của mình.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động cho vay:
Ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý nó không

còn mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng đồng thời hoạt động trong môi
trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc thù và quản lý nó đang là vấn đề cấp bách
trong hệ thống ngân hàng cả nước. Bộ máy quản lý ngân hàng kém năng động, rủi ro
càng dể phát sinh. Khiến nó không thể hiện được hết khả năng vốn có của mình, thiệt
hại cho nền kinh tế sẽ xẩy ra.
Rủi ro ngân hàng không những là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một nước
mà còn là nổi ám ảnh chung của hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn
xẩy ra ngay cả đối với các ngân hàng có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm
nhất cũng khó lường trước được rủi ro.
2.1. Rủi ro về mặt tài chính bao gồm:
Rủi ro thanh toán tiền vay: Khi người đi vay không thanh toán hoặc không thanh
toán đầy đủ tiền vay khi đến hạn do tình hình kinh doanh gập khó khăn, dẫn đến mất
khả năng thanh toán tạm thời hoặc vỉnh vng. Ngược lại khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, sức mua
bị giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng điều này ảnh hưởng tới các khoản nợ của các ngân
hàng. Ngoài ra, các chính sách kinh tế vĩ mô nó tác động tới hoạt động của ngân hàng.
Chính phủ sẽ ưu tiên hơn về luật pháp, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực chính phủ
khuyến khích đầu tư phát triển và ngược lại. Do những chính sách kinh tế của chính phủ
nó đã làm giảm bớt khách hàng đến với ngân hàng từ các lĩnh vực mà nhà nước không
khuyến khích phát triển.
3.2. Môi trường chính trị, xã hội:
Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư phát
triển. Đây cũng là điều kiện để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp. Ngược lại nếu môi
trường chính trị, xã hội không ổn định thì các doanh nghiệp không thể yên tâm mà phát
triển và luôn đặt trong rủi ro có thể ập tới bất kì lúc nào đối với doanh nghiệp cũng như
ngân hàng.
4. Nguyên nhân từ quy định Pháp luật không rõ ràng.
Nếu như một đất nước xây dựng được một hành lang pháp lý thông thoáng và có
hiệu lực sẽ thu htú được đông đảo các nhà đầu tư vào đầu tư phát triển đây là điều tất
yếu của nền kinh tế thị trường. Và ngược lại nếu hành lang pháp lý lỏng lẻo tạo ra nhiều

khe hở, gây nên tình trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau từ đó nó ảnh
hưởng tới khả năng thanh toán cho ngân hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng
vốn của ngân hàng. Như vậy trong nền kinh tế thị trường, do những biến động của thị
trường, những nguyên nhân khác nhau của nền kinh tế tác động tới hoạt động của doanh
nghiệp và chính bản thân ngân hàng làm nảy sinh các biến cố trong quan hệ tín dụng
làm cho các quan hệ tín dụng vận động theo những chiều hướng xấu, không có lợi cho
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là điều không thể tránh khỏi hay
Trang 17 / 37


nói cách khác: Rủi ro xảy ra là điều tất yếu khách quan trong hoạt động kinh doanh tín
dụng của ngân hàng thương mại, rủi ro thường xuyên đưa ngân hàng gặp rất nhiều khó
khăn cả về tài chính lẫn các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Vì vậy cần phải phòng tránh rủi ro. Loại bỏ rủi ro là điều không thể có nhưng
phòng ngừa và hạn chế nó thì các nhà kinh doanh Ngân hàng hoàn toàn có thể làm được.
Việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro giúp cho Ngân hàng Thương mại hoàn toàn được
vốn, tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh và tăng thu nhập, hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao được uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, nhờ
đó Ngân hàng có thể mở rộng kinh doanh và phát huy được vai trò của mình đối với sự
phát triển của nền kinh tế.

Trang 18 / 37


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI
RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1. Quy đinh về tỷ lệ an toàn tối thiểu
Theo Basel 1, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) là một thước đo độ an toàn về
vốn của ngân hàng. Nó được tính theo tỷ lệ % của tổng vốn cấp một và vốn cấp hai so
với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng.
CAR =[(Vốn cấp I + Vốn cấp II)/(Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] x 100%
Theo pháp luật Việt Nam TCTD phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% (tỷ
lệ an toàn vốn riêng lẻ)"6. Ngoài ra đối với các TCTD mà tiến hành hợp nhất thì sau khi
hợp nhất phải duy trì cũng phải duy trì tỷ lệ nêu trên (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất)"7.
Thông tư 41/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài phân hệ số rủi ro đối với tài sản "Có" nội bảng thành 6 nhóm là: 0%, 20%,
50%, 100%, 150% và 250% thêm 2 nhóm là 150%, 250% so với Quyết định
457/2005/QĐ - NHNN, hệ số chuyển đổi đối với tài sản "Có" ngoại bằng qui định theo
những tỷ lệ chi tiết hơn tùy theo vào tình chất của tài sản "Có". Đối với các NHTM Việt
Nam, việc thực thi các qui định vê tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Thông tư 41/2016/TT
NHNN là một vấn đề không đáng lo ngại như:hệ số CAR của Ngân hàng Đầu tư và phát
triển (BIDV) năm 2009 là 7,55% (theo chuẩn mực VN CAR đạt 9,53%). Hệ số rủi ro
của khoản vay kinh doanh chứng khoán, khoản vay của công ty chứng khoán và kinh
doanh bất động sản được qui định ở mức cao nhất là 250% có thể do thực tế tình hình
của thị trường chứng khoán, bất động sản tại Việt Nam cũng như từ thông lệ chung đối
với một số quốc gia trên thế giới.
Chính vì vậy, cần hoàn thiện các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu.
Cụ thể như, cần qui định hệ số rủi ro đối với một số loại tài sản "Có" nội bảng bao gồm
cho vay kinh doanh bất động sản, các khoản vay của công ty chứng khoán và cho vay
kinh doanh chứng khoán ở mức là 150% như thông lệ quốc tế8. Đồng thời qui định rõ
ràng hơn hệ số rủi ro cho từng khoản vay nêu trên cho phù hợp.
2. Quy định về giới hạn cho vay

Điều 6 Thông tư 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
7

Ngân hàng nhà nước (2009), Quyết định 1650/2009/QĐ-NHNN ngày 14/7 về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu của Vụ giám sát ngân hàng, Hà Nội.
8
Điểm d,e Khoản 10 Điều 9 Thông tư 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với
ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
6

Trang 19 / 37


Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất
định mà tổ chức tín dụng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng9. Đối
với một khách hàng giới hạn cho vay không quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Ngoài
ra, pháp luật về tỷ lệ an toàn còn qui định ngân hàng không được cấp tín dụng với những
điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp mà ngân hàng nắm quyền kiểm soát.
Khi ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trên phải tuân theo những hạn
chế sau: Giới hạn cho vay và bảo lãnh đối với một doanh nghiệp không vượt quá 10%
vốn tự có của ngân hàng, đối với các doanh nghiệp không vượt quá 20% vốn tự có của
ngân hàng, giới hạn cấp tín dụng không có bảo đảm tối đa cho công ty cho thuê tài chính
trực thuộc không vượt quá 5% vốn tự có của ngân hàng.
Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định giới hạn cho vay của ngân hàng cho
một khách hàng có thể vượt mức trên 15 % vốn tự có của ngân hàng khi có quyết định
đề nghị của Chính phủ, thống đốc NHNN như trường hợp vay của Tổng công ty xăng
dầu Việt Nam, hay tập đoàn Bưu chính viễn thông vay vốn cho dự án Vinasat 1.
Giới hạn tỷ lệ cho vay trung và dài hạn từ nguồn vốn vay ngắn hạn, hiện nay
NHTM được cho vay trung và dài hạn không quá 30% từ nguồn vay ngắn hạn. Giới hạn
cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá vào kinh doanh chứng khoán không quá 20% vốn tự
điều lệ của ngân hàng.
Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn của NHTM là 60% thay cho giới hạn thấp hơn là 30% tại Thông tư

15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009 quy định về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn
được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với tổ chức tín dụng. Quy định này
giúp cho các NHTM tăng tín dụng trung và dài hạn, thỏa mãn nhu cầu về vốn của khách
hàng, đồng thời lãi suất cho vay trung và dài hạn dần giảm do nguồn vốn huy động ngắn
hạn thường có lãi suất thấp hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh tiềm ẩn khả năng tăng trưởng
nóng của bất động sản, khả năng rủi ro tăng cao khi tín dụng tăng trưởng mạnh nhưng
dựa nhiều vào nguồn vốn huy động ngắn hạn, hơn một năm sau, Thông tư 06/2016/TTNHNN đã quy định điều chỉnh tỷ lệ này theo lộ trình giảm dần. Trên thực tế, việc siết
tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn là phương pháp giảm thiểu rủi ro
chung cho hệ thống ngân hàng, tuy nhiên, việc làm này sẽ chỉ phù hợp khi thị trường tín
dụng phát triển mạnh và tiềm ẩn rủi ro cần kiểm soát. Trong trường hợp tăng trưởng tín
dụng chững lại, việc siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn của NHNN khó có
tính khả thi. Thêm vào đó, chúng ta cũng không thấy được việc NHNN đưa ra các con
số tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn được xác định dựa trên cơ sở
nào, khi tính “linh hoạt” của con số này khá cao, từ 30%, 60% cho tới 50%, 40%? Như
vậy, trong nội hàm những quy định về tỷ lệ này, dường như, cơ quan có thẩm quyền mới
đang hướng đến việc giải quyết những bất cập trước mắt có thể ảnh hưởng đến an toàn
thanh khoản của các NHTM mà chưa tính tới việc đưa ra những quy định mang tính
chính sách, tính ổn định cao để các NHTM tuân thủ.
Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng
9

Trang 20 / 37


3. Quy định về tỷ lệ khả năng chi trả
Tỷ lệ khả năng chi trả dùng để phản ánh mối quan hệ giữa tài sản "Có" và tài sản
"Nợ". Đối các nước trên thế giới, họ không đưa ra một tỷ lệ tối thiểu buộc ngân hàng
phải đáp ứng được mà họ chỉ đưa ra các nguyên tắc chung để các ngân hàng tham khảo
xây dựng các qui định cụ thể về việc đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng mình. Ở

Việt Nam, nhà làm luật hết sức quan tâm đòi hỏi các NHTM phải tuân thủ những qui
định hết sức nghiêm ngặt. NHNN yêu cầu các NHTM phải đáp ứng được các yêu cầu
sau:
Thành lập bộ phận chuyên trách để theo dõi và quản lý tài sản "Nợ", tài sản "Có",
theo dõi và quản lý khả năng chi trả hàng ngày. Ngân hàng phải xây dựng và ban hành
qui định nội bộ về quản lý khả năng chi trả đối với Đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ
theo tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày trong đó tối thiểu phải có các nội dung qui định
của pháp luật. Ngân hàng còn phải có biện pháp đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả cho ngày
hôm sau bảo đảm các tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản "Có" thanh toán ngay
và tổng Nợ phải trả, tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản "Có" và tổng tài sản "Nợ"
đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam
và đồng ngoại tệ theo tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày mà
NHTM phải duy trì với đồng Việt Nam là 50%. Tỷ lệ này được đánh giá là chưa đáp
ứng được tiêu chuẩn của Basel, khi mà Basel III đã tiến tới quy định rất chặt chẽ về quản
trị thanh khoản. Dù rằng Việt Nam hiện nay chỉ đang đặt mục tiêu đáp ứng tiêu chuẩn
Basel II cho tới năm 2018, nhưng vì hạn chế của Basel II là không đề cập tới các chỉ
tiêu liên quan đến thanh khoản, cho nên, ở lộ trình dài hơi hơn, một mặt, về chỉ tiêu an
toàn vốn, chúng ta sẽ dừng lại ở mức theo đuổi tiêu chuẩn Basel II, nhưng mặt khác, về
chỉ tiêu thanh khoản, chúng ta cần thiết phải dựa trên nền tảng tiêu chuẩn của Basel III.
Do vậy, trong thời gian tới, NHNN cần sớm triển khai sửa đổi quy định về tỷ lệ khả
năng chi trả trong 30 ngày theo hướng quy định rõ lộ trình nâng dần tỷ lệ này lên để có
thể rút ngắn khoảng cách giữa quy định của Việt Nam và quy định của Basel, đặc biệt
là Basel III.
4. Quy định về tỷ lệ cấp tín dụng
4.1 Cấm cho vay, hạn chế cho vay đối với một số đối tượng đặc biệt:
Để đáp ứng nhu cầu vay vốn để tài trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng của các tăng lớp cư dân, ngân hàng sẵn sàng cấp tín dụng (cho vay) khi khách
hàng đáp ứng đủ điều kiện cho vay. Tuy nhiên để đảm bảo được tính công bằng, minh
bạch và ngăn chặn những rủi ro không đáng có Luật các tổ chức tín dụng không cho

phép ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho một số cá nhân, tổ chức sau:
Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức
danh tương đương của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, pháp nhân là
cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban

Trang 21 / 37


kiểm soát của tổ chức tín dụng là công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ
sở hữu của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn.
Cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng
thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc
(Phó giám đốc) và các chức danh tương đương.
Ngoài ra Ngân hàng thương mại cũng không được cho những khách hàng nào mà
thực hiện vay vốn dựa trên sự đảm bảo, bảo lãnh của những cá nhân, tổ chức bị cấm cho
vay ở trên. Ngân hàng cũng không được đứng ra bảo lãnh để tổ chức tín dụng khác hoặc
ngân hàng khác tiến hành cấp tín dụng cho những đối tượng bị cấm cấp tín dụng.
Ngoài ra Luật tổ chức tín dụng cũng nêu ra những quy định về hạn chế cho vay
đối với một số cá nhân tổ chức, tức là những đối tượng này vẫn được cấp tín dụng nhưng
không được phép hưởng những ưu đãi vay như lãi suất, thời hạn hay tài sản đảm bảo,vv.
Cụ thể chính là những tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại ngân
hàng. Những thanh tra đang thực hiện thanh tra ngân hàng thương mại, những người
thực hiện công tác thẩm định, xét duyệt cấp tín dung trong ngân hàng và đặc biệt là kế
toán trưởng của ngân hàng. Những cổ đông lớn, cổ đông sáng lập. Những doanh nghiệp
mà có đối tượng cấm cho vay sở hữu trên 10% vốn điểu lệ.
Mức dư nợ cấp tín dụng tối đa cho các đối tượng đặc biệt cũng được quy định cụ
thể. Mức cho vay tối đa là một tỉ lệ nhất định so với tổng vốn tự có10 của ngân hàng tùy
thuộc vào đối tượng mà tỉ lệ từ 5%, 10% và tổng mức có thể lên đến 20%.11
Việc cấm một số đối tượng này không được cấp tín dụng và hạn chế cấp tín dụng

là một quy định hợp lí. Bỡi lẽ những cá nhân, tổ chức bị cấm này là những thành viên
nòng cốt trong hệ thống nhân sự của ngân hàng. Họ là những người góp vốn, người giữ
chức vụ quản lý nắm giữ phần lớn quyền lực đối với ngân hàng và những người có liên
quan đến họ. Nếu cho phép tổ chức tín dụng cụ thể là ngân hàng thương mại cho những
đối tượng này vay thì sẽ dẫn đến nguy cơ xảy ra những rủi ro khôn lường về mặt con
người. Nhân viên ngân hàng có thể không rõ ràng rành mạch, minh bạch trong quá trình
thẩm định hồ sơ vay vốn của chính những cấp trên của mình dẫn đến sự không công
bằng về nhân thân của những khách hàng đi vay.
Đối với những trường hợp hạn chế cấp tín dụng, ta có thể thấy những đối tượng
này là những người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng của ngân hàng từ khâu
xét duyệt, cho vay đến việc hoạch toán kiểm kê, giám sát và thanh tra hoạt động cấp tín
dụng. Nhằm khắc phục tình trạng xung đột lợi ích giữa một bên là ngân hàng một bên
cá nhân từ đó giảm thiểu rủi ro cho hoạt động cấp tín dụng.
4.2 Không cho vay do không đáp ứng đủ điều kiện cho vay:
Rủi ro trong hoạt động cho vay xuất phát bắt nguồn chủ yếu từ người cho vay.
Trong mối quan hệ tín dụng niềm tin vào khách hàng của ngân hàng rất quan trọng,
người đi vay hứa hẹn chi trả khi khoản nợ đến hạn thanh toán. Tuy nhiên niềm tin này
K10 Đ4 Luật tổ chức tín dụng. Vốn tự có Gồm giá trị thực của vốn điều lệ của tổ chức tín
dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các quỹ dự trữ, một số tài
sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
11
Điều 126 Luật tổ chức tín dụng
10

Trang 22 / 37


là ý chí vô hình phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí người đi vay, điều này dễ dẫn đến thất
thoát vốn là điều không tránh khỏi. Do vậy ngân hàng buộc phải dựa vào các yếu tố
khách quan để có thể thiết lập quan hệ cho vay. Để góp phần kiểm soát và hỗ trợ hoạt

động của ngân hàng, pháp luật đã quy định vể những điểu kiện mà khách hàng phải đáp
ứng để được cấp tín dụng. Pháp luật với mục đích góp phần tạo nên một môi trường hoạt
động ổn định, an tâm cho ngân hàng thương mại yên tâm tiến hành hoạt động đã đưa ra
những uy định về chủ thể và những điều kiện liên quan đến khả năng chi trả, khả năng
tài chính của khách hàng12.
Khách hàng phải là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của
pháp luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Khách hàng phải
đươc xác minh về mục đích sử dụng vốn vay, phương án sử dụng vốn khả thi, hợp pháp,
có khả năng tài chính để trả nợ.
Ngân hàng thương mại không được phép xác lập quan hệ cho vay đối với những
khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu vốn không phù hợp, trái với pháp luật. Cụ
thể là những hợp đồng tín dụng với mục đích sử dụng vốn dùng để đẩu tư, kinh doanh
những ngành nghề pháp luật cấm đầu tư, để thanh toán những chi phí giao dịch phi pháp,
để mua, sử dụng những mặt hàng quốc cấm.
Một trường hợp xét thấy là điểm hơp lí của quy định PL đó là nguyên tắc không
cho vay để trả nợ vay. Chính là trường hợp ngân hàng thương mại không được phép cho
vay Để trả nợ khoản nợ vay tại chính ngân hàng thương mại để trả nợ khoản nợ vay tại
tổ chức tín dụng khác và trả nợ khoản vay nước ngoài. Mặc nhiên để vận dụng linh hoạt
quy định này ngân hàng thương mại vẫn có thể cho vay nếu khoản vay thuộc một trong
những trường hợp ngoại lệ.
Muốn xác định, xác minh những yếu tố này, các ngân hàng buộc phải tiến hành
hoạt động thẩm định cho vay. Thẩm định cho vay sẽ giúp ngân hàng có được những cơ
sở thiết yếu trong quá trính xác lập quan hệ cho vay, từ đó có chính sách, giải pháp để
kiểm soát, ngăn chặn những nguy cơ xảy ra rủi ro. Theo quy đinh tại điểu 94 Luật các
tổ chức tín dụng:
5. Quy định về xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay:
1. Tổ chức tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh
phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn hợp

pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng.
2. Tổ chức tín dụng phải tổ chức xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc phân
định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cấp tín dụng.
3. Tổ chức tín dụng có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay
và trả nợ của khách hàng.
4. Tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu khách hàng vay báo cáo việc sử dụng vốn
vay và chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích vay vốn.

12

Điều 7 Thông tư 39/2016/TT-NHNN
Trang 23 / 37


Tuy nhiên nguyên tắc trong hoạt động cho vay là nguyên tắc thỏa thuận giữa ngân
hàng và khách hàng. Pháp luật ngân hàng không qui định cụ thể vể quy chế thẩm định,
xác định những điểu kiện trên là thẩm định rõ ràng những nội dung gì. Mà theo đó, mỗi
ngân hàng tự quyết định nội dung và tiêu chí riêng cho mình miễn sao không trái với
các quy định của PL ngân hàng và Pl khác liên quan.
Điểu này có mặt tích cực và tiêu cực. Tích cực ở chỗ tạo được sự linh hoạt trong
hoạt động cho vay, Tiêu cực ở chỗ dẫn đến một số khe hở trong quy trình cho vay của
ngân hàng, cũng chính ở giai đoạn quan trọng nhất đối với hoạt động phòng ngừa hạn
chế rủi ro.
6. Quy định về trích lập dự phòng
7. Quy định về bảo đảm tiền vay
Theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay, bảo đảm tiền vay là việc
TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để
thu hồi được các khoản vay cho khách hàng vay. Pháp luật biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản được qui định trong Bộ luật dân sự năm 2015, Nghị định 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm bao gồm:

Thứ nhất, chủ thể giao dịch bảo đảm phải có năng lực.
Thứ hai, các qui định về tài sản bảo đảm tiền vay bao gồm:
Về điều kiện tài sản bảo đảm chỉ cần đáp ứng hai điều kiện là thuộc sở hữu của
bên bảo đảm và được phép giao dịch, qui định về không có tranh chấp đã được bãi bỏ.
Tuy vậy trên thực tế ngân hàng vẫn yêu cầu khách hàng xác nhận tình trạng tài sản
không có tranh chấp để an toàn nhất trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm.
Giá trị tài sản bảo đảm. "Trường hợp bên bảo đảm dùng một tài sản để bảo đảm
thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Dân sự
2015 thì các bên có thể thỏa thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn
tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".
Thứ ba, các qui định về biện pháp bảo đảm gồm: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt
cọc, ký cược, ký quỹ và bảo đảm bằng tín chấp. Đối với quan hệ cho vay, các biện pháp
bảo đảm chủ yếu bao gồm bảo đảm bằng thế chấp tài sản, cầm cố tài sản và bảo lãnh
của bên thứ ba. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng có biện pháp bảo đảm tín dụng bằng
tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản hình thành trong tương lai.
Thứ tư, các qui định về hình thức giao dịch bảo đảm. Các giao dịch bảo đảm phải
lập thành văn bản. Đối với một số trường hợp nhất định pháp luật yêu cầu các giao dịch
bảo đảm phải công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, việc công chứng,
chứng thực có thể do các bên tự thỏa thuận.
Thứ năm, các qui định về đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký giao dịch bảo
đảm nhằm xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và thứ tự ưu tiên thanh toán
giữa những người cùng nhận một tài sản bảo đảm.

Trang 24 / 37


Nghị định 83/2010/NĐ-CP ngày 23/07/2010, qui định các trường hợp phải đăng
ký giao dịch bảo đảm gồm: Thế chấp quyền sử dụng đất; Thế chấp rừng sản xuất là rừng
trồng; Cầm cố tầu bay, thế chấp tàu bay; Thế chấp tàu biển; Thời hạn có hiệu lực của
đăng ký giao dịch bảo đảm được tính "từ thời điểm đăng ký đến thời điểm xóa đăng ký".

Ngoài ra pháp luật cũng qui định phương thức đăng ký giao dịch bảo đảm bằng đăng ký
trực tuyến.
Đối với tài sản hình thành trong tương lai dùng để bảo đảm tiền vay: Nguyên tắc
chung trong giao dịch bảo đảm là tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo
đảm và có giấy chứng nhận quyền sở hữu (đối với loại tài sản pháp luật bắt buộc phải
đăng ký quyền sở hữu), trong khi đó, đối với tài sản hình thành trong tương lai thì quyền
sở hữu của bên bảo đảm chưa được công nhận tại thời điểm xác lập giao dịch, vì vậy,
đây là một loại tài sản bảo đảm mang tính đặc thù, tiềm ẩn rủi ro. Do vậy, điều kiện của
tài sản được tham gia giao dịch bảo đảm, quy trình, thủ tục liên quan đến giao dịch bảo
đảm phải cụ thể hơn, chặt chẽ hơn so với các loại tài sản bảo đảm thông thường khác để
hạn chế các rủi ro và đảm bảo được nguyên tắc của giao dịch bảo đảm là có thể xử lý
được tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
chưa thích hợp. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành cho phép được sử dụng tài sản bảo đảm
là tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, do là tài sản trong tương lai nên không
thể chắc chắn rằng tài sản đó được hình thành để cho ngân hàng xử lý, bù lại mất mát
nếu xảy ra tranh chấp. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các quy định
pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay với các bộ phận pháp luật khác có liên quan
như Bộ luật dân sự, pháp luật đất đai, pháp luật hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh
chấp… là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay. Các khó khăn này không chỉ xảy ra cho khách hàng khi thực
hiện thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng mà còn gây khó
khăn cho chính các tổ chức tín dụng ngay trong quá trình thẩm định và phê duyệt các
khoản vay có bảo đảm. Điều này làm cho tỉ lệ nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày
càng cao, nhất là trong giao đoạn hiện nay, khi mạng lưới tín dụng đang được mở rộng.
8. Quy định về kiểm soát nội bộ.
8.1. Thực trạng môi trường kiểm soát:
Môi trường kiểm soát trong các NHTM hiện còn nhiều vấn đề bất cập như: Hầu
hết các NHTM dù đã ban hành các văn bản nội bộ, các quy định, nhiều văn bản còn
mang tính hình thức. Không phải lúc nào ban giám đốc cũng thận trọng trong việc xây

dựng các ước tính kế toán như trong việc phân loại nợ, trích lập dự phòng…
Về cơ bản, các NHTM hiện nay đã xây dựng cơ cấu tổ chức phù hợp với quy mô
và đặc điểm hoạt động của mình. Tuy nhiên, việc mô tả công việc cụ thể và trách nhiệm
của từng thành viên, đặc biệt là các thành viên chủ chốt chưa được xây dựng rõ ràng.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm chưa được tuân thủ chặt chẽ, đặc biệt ở các chi nhánh nhỏ.

Trang 25 / 37


Các quy định liên quan đến việc tuyển dụng nhân viên có trình độ và đạo đức tốt;
tạo môi trường để phát huy hết năng lực của nhân viên; giữ chân nhân viên giỏi chưa
được cụ thể hóa trong các quy chế của ngân hàng. Việc đề bạt dựa trên đánh giá định kỳ
về hiệu quả công việc thể hiện cam kết của đơn vị trong việc bổ nhiệm những nhân sự
có khả năng vào những trọng trách cao hơn.
Tuy nhiên, các phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá thành tích nhân viên còn
chung chung. Kết quả đánh giá thành tích chưa được phản hồi, trao đổi lại với cán bộ
nhân viên, chưa gắn chặt với chế độ tiền lương, đề bạt làm giảm đi tác dụng của công
tác đánh giá...
8.2. Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro:
Hiện nay, hầu hết NHTM, đặc biệt là 10 NHTM nằm trong nhóm các ngân hàng
được lựa chọn triển khai Basel 213 đã thành lập Ban quản lý rủi ro, khối quản lý rủi ro.
Nhiều NHTM đã xây dựng chính sách quản lý rủi ro liên quan đến các hoạt động tiềm
ẩn nhiều rủi ro như: Chính sách quản lý rủi ro thanh khoản, chính sách quản lý rủi ro lãi
suất, chính sách quản lý rủi ro thị trường…; cũng như các kế hoạch ứng phó khi các sự
cố đó xảy ra.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy hầu hết các NHTM chưa thực sự quan tâm tới các
yếu tố có thể dẫn tới rủi ro như: Có những thay đổi trong môi trường hoạt động, sự xuất
hiện nhân sự mới, đặc biệt là nhân sự cấp cao, áp dụng công nghệ mới và mô hình kinh
doanh mới, thay đổi chính sách kế toán.
Tại một số tổ chức tín dụng, HĐQT và Ban kiểm soát chưa phân công và quy

định cho Bộ phận Kiểm toán nội bộ hoặc Giám sát tuân thủ thực hiện kiểm toán/kiểm
tra đối với các tỷ lệ an toàn được lập bởi các bộ phận nghiệp vụ
Thực trạng hệ thống thông tin và trao đổi thông tin:
Các NHTM đã xây dựng Quy chế về tổ chức công tác kế toán trong ngân hàng
phù hợp với yêu cầu của NHNN, cũng như yêu cầu về quản trị tại ngân hàng: quy định
hệ thống tài khoản kế toán phù hợp với yêu cầu pháp luật, chính sách kế toán, hệ thống
mã phòng ban, mã sản phẩm…
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn còn hiện tượng cán bộ nhân viên vi
phạm quy trình nghiệp vụ kế toán như: nguyên tắc hạch toán kế toán và chuẩn mực kế
toán; đơn vị chưa thực hiện đối chiếu chữ ký và chữ viết của khách hàng trên các chứng
từ giao dịch, chứng từ vay vốn so với chữ ký, chữ viết trên phiếu đăng ký mở tài khoản
trước khi thực hiện giao dịch cho khách hàng…
Ở nhiều NHTM, với đặc điểm quy mô lớn, cơ cấu tổ chức bao gồm nhiều chi
nhánh, phòng giao dịch, nên việc thiết lập các kênh thông tin hiện nay còn nhiều hạn

13

bao gồm Vietcombank, VietinBank, VPBank, Sacombank, MB, Techcombank, ACB
Maritime Bank và VIB
Trang 26 / 37


chế. Các cấp quản lý bên dưới chưa thực sự nắm bắt kịp thời những chỉ đạo của các nhà
quản lý cấp trên.
Các cấp quản lý cao hơn thì việc thu nhận thông tin phản hồi từ các cấp bên dưới
cũng chưa thực sự kịp thời. Tại một số NHTM, thông tin chủ yếu diễn ra theo một chiều
từ trên xuống dưới.
Một số tổ chức tín dụng chưa có quy định và phổ biến rõ ràng về việc bên liên
quan của một cá nhân, bao gồm cả các trường hợp sau: “Tổ chức, cá nhân ủy quyền đại
diện phần vốn góp, cổ phần cho cá nhân đó” và “Cá nhân cùng với cá nhân đó được một

tổ chức ủy quyền đại diện phần vốn góp, cổ phần tại một tổ chức khác” và “cá nhân
được cá nhân đó ủy quyền đại diện phần vốn góp, cổ phần”.
Hầu hết các NHTM đã chú trọng xây dựng hệ thống công nghệ thông tin, phát
triển hệ thống thông tin quản lý nội bộ, nâng cấp ngân hàng lõi phù hợp với quy mô hoạt
động và yêu cầu quản trị điều hành ngân hàng: xây dựng hệ thống dự phòng theo tiêu
chuẩn quốc tế, hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu phát triển sản phẩm dịch
vụ, áp dụng khoa học công nghệ vào quy trình quản lý hiện đại.
Việc xây dựng các quy trình công nghệ thông tin được tiến hành trong NHTM đa
số bởi các chuyên gia công nghệ thông tin. Tuy nhiên, có một số bộ phận chưa đảm bảo
việc thực hiện các quy trình bởi cán bộ có trình độ chuyên môn...
8.3. Thực trạng các hoạt động kiểm soát:
Về cơ bản các NHTM đã ban hành các quy định, nhưng chưa thực sự mô tả đầy
đủ nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chức của mình. Tại một số tổ chức tín dụng có
thành viên của HĐQT tham gia trực tiếp vào việc phê duyệt các giao dịch/quyết định
kinh tế cụ thể.
Một số trường hợp Chủ tịch HĐQT hoặc thành HĐQT đồng thời là thành viên
của Hội đồng tín dụng, Hội đồng đầu tư để tham gia và quyết định phê duyệt các giao
dịch kinh tế cụ thể. Điều này có thể tạo điều kiện cho Chủ tịch HĐQT hoặc thành viên
HĐQT vừa tham gia điều hành kinh doanh hàng ngày vừa giám sát hoạt động, nhưng
vai trò giám sát của HĐQT sẽ bị giảm hiệu lực.
Các NHTM đã xây dựng quy trình nghiệp vụ đầy đủ, thiết lập các chốt kiểm soát
nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý các sai phạm nhưng tính hiệu lực của các hoạt động
kiểm soát phụ thuộc rất nhiều vào sự tuân thủ các quy định từ phía cán bộ nhân viên.
Vẫn còn xảy ra nhiều sai phạm trong các hoạt động của ngân hàng, khi nhân viên lợi
dụng điểm yếu, những lỗ hổng trong hệ thống KSNB.
Nghiệp vụ tín dụng là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của các NHTM, đây
là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro, cũng như sai phạm. Sai phạm của các NHTM
thường liên quan đến việc không tuân thủ quy định về lưu trữ hồ sơ; làm giả hồ sơ, giấy
tờ, chữ ký...
Ngoài ra, quy trình cấp tín dụng, giám sát thực hiện hợp đồng tín dụng cũng chưa

được tuân thủ đầy đủ: Cấp tín dụng không đúng đối tượng khách hàng, chấm điểm tín
Trang 27 / 37


dụng chưa chính xác, áp dụng sai mã sản phẩm…; không thực hiện đầy đủ quy trình
kiểm tra, giám sát khoản vay…; thực hiện giao dịch vượt thẩm quyền...
Các NHTM chưa chú trọng đến hoạt động kiểm soát môi trường hoạt động công
nghệ thông tin qua chiến lược phát triển phát triển công nghệ thông tin, thủ tục thiết lập
và phát triển chương trình; thủ tục sử dụng báo cáo bất thường, thiết lập đường dây nóng
để kịp thời phát hiện và xử lý các vấn đề bất thường, các sai sót do gian lận và nhầm
lẫn; thủ tục yêu cầu các cấp quản lý trung gian báo cáo ngay với lãnh đạo mọi trường
hợp gian lận, nghi ngờ gian lận, vi phạm nội quy, quy định của ngân hàng cũng như các
quy định pháp luật làm giảm uy tín và gây thiệt hại về kinh tế cho ngân hàng...
8.4. Thực trạng giám sát các kiểm soát:
Các nhà quản lý cấp cao chưa thực sự quan tâm tới việc kiểm soát thường xuyên,
trong quá trình hoạt động thường chỉ khi có những sự kiện bất thường xảy ra thì mới
thực hiện kiểm soát.
Hiện nay, bộ phận kiểm toán nội bộ về cơ bản đều được thành lập ở tất cả các
NHTM. Tuy nhiên, cán bộ thuộc bộ phận này thường không đảm bảo số lượng phù hợp
với quy mô của ngân hàng. Hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ đã tiến hành kiểm
tra một số hoạt động, một số đơn vị tại ngân hàng và phát hiện tồn tại, thiếu sót và kiến
nghị các biện pháp khắc phục.
Số đơn vị được kiểm toán so với mạng lưới hoạt động của NHTM cho thấy hoạt
động kiểm toán còn mỏng, chưa kiểm tra được nhiều đơn vị trong hệ thống và nội dung
kiểm tra chưa toàn diện, nên chưa đánh giá tổng quát được hoạt động của ngân hàng,
chưa ngăn chặn kịp thời các vi phạm, tồn tại.
Các NHTM đã có quy định về thực hiện đánh giá hệ thống KSNB nội bộ định kỳ
nhưng báo cáo chưa đi sâu đánh giá các nguyên tắc căn bản của hệ thống KSNB mà chủ
yếu mô tả cơ cấu tổ chức của ngân hàng, tóm tắt tình hình thực hiện kế hoạch kiểm toán
trong năm; rà soát hệ thống các văn bản, quy định nội bộ…; vai trò của các đơn vị trong

hệ thống quản trị rủi ro còn hạn chế...
II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM:
1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng và cơ cấu quản lý, giám sát rủi
ro cho vay của ngân hàng thương mại:
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động cho vay, theo khuyến cáo của Ủy
ban Basel và tuân thủ các thông lệ quốc tế, bộ máy tổ chức hoạt động tín dụng và quản
lý rủi ro tín dụng phải được tách bạch. Chức năng quản lý rủi ro cho vay sẽ được giao
cho một bộ phận hoạt động độc lập với các đơn vị kinh doanh của ngân hàng và sẽ không
tham gia vào hoạt động tạo ra rủi ro.
1.1. Cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng:

Trang 28 / 37


Đối với cơ cấu tín dụng của đa số các ngân hàng thì bộ phận tiếp thị đồng thời
là bộ phận xử lý khoản vay, giải ngân, theo dõi giám sát, thu nợ… từ khâu khởi tạo đến
kết thúc khoản vay đều do cán bộ phụ trách tín dụng thực hiện mà không qua bộ phận
giám sát độc lập điều này dễ dẫn đến tình trạng tiêu cực, chủ quan, duy ý chí gây nhiều
rủi ro trong công tác cho vay.
Để hạn chế rủi ro cho vay thì phải cơ cấu tổ chức hoạt động các cấp của ngân
hàng cần được xây dựng theo nguyên tắc: xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân có liên quan đến quá trình thẩm định, phê duyệt tín
dụng, theo dõi, quản lý, thu hồi nợ.
Mô hình tổ chức cho vay phải được xây dựng theo hướng: tách bạch chức năng
ra quyết định tín dụng với chức năng quản lý tín dụng trên cơ sở thẩm định trách nhiệm
và chức năng rõ ràng giữa các bộ phận thẩm định, phê duyệt tín dụng, quản trị tín dụng,
quản lý rủi ro tín dụng.
1.2. Cơ cấu giám sát và quản lý rủi ro cho vay:

Để có thể quản lý được rủi ro cho vay một cách hệ thống và có hiệu quả, ngân
hàng nên hoàn thiện bộ máy quản lý và giám sát rủi ro cho vay theo cơ cấu như sau:
Hội đồng quản lý rủi ro: chịu trách nhiệm trong việc rà soát và phê duyệt khuôn
khổ pháp lý rủi ro của ngân hàng bao gồm các chính sách an toàn, các hạn mức rủi ro
và biện pháp quản lý rủi ro tín dụng.
Ban điều hành và các cấp quản lý : có trách nhiệm trong việc xác định và đánh
giá những rủi ro đối với những hoạt động của ngân hàng và thực hiện các quy trình kiểm
soát rủi ro có hiệu quả.
Ban kiểm tra nội bộ : là công cụ của Ban điều hành, chịu trách nhiệm trực tiếp
chỉ đạo và thực hiện công tác kiểm tra nội bộ trong ngân hàng về các mặt nghiệp vụ
trong đó có nghiệp vụ tín dụng
2. Xây dựng hệ thống văn bản chế độ, quy chế, quy trình, thủ tục cấp tín dụng:
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh rủi ro tín dụng thuộc về
chủ quan của ngân hàng cho vay trong việc xây dựng hệ thống văn bản chế độ, quy trình
thủ tục cho vay thiếu đồng bộ, không chặt chẽ. Để hạn chế rủi ro, ngân hàng cần xây
dựng một hệ thống văn bản đồng bộ tạo hành lang cho hoạt động tín dụng.
Xây dựng quy chế cho vay của ngân hàng trên cơ sở quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng do ngân hàng Nhà nước ban hành.
Ban hành, hướng dẫn đầy đủ, kịp thời các văn bản chế độ có liên quan đến hoạt
động tín dụng để áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống.
Hệ thống văn bản chế độ, quy chế, quy định liên quan đến hoạt động tín dụng
phải được tổ chức nghiên cứu, tập huấn và quán triệt để đảm bảo mọi cán bộ có liên
quan đến công tác tín dụng đều phải nắm vững văn bản chế độ và thực thi tác nghiệp
đầy đủ, chính xác.
Trang 29 / 37


Xây dựng và thường xuyên bổ sung, hoàn thiện quy trình cho vay, bảo lãnh và
các quy trình hỗ trợ khác theo đúng yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng ISO
Thường xuyên rà soát các văn bản đã ban hành liên quan đến công tác tín dụng

để đảm bảo tính tuân thủ trong ban hành văn bản, tính hiệu lực cũng như sự phù hợp về
nội dung giữa các văn bản đang còn hiệu lực.
3. Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp
3.1. Chủ động tìm đến khách hàng.
Điều này rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro cho ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay
ra được thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Khi chủ động tìm đến khách hàng là ngân hàng đã chủ động thẩm
định trước về khách hàng để lựa chọn, tìm kiếm khách hàng tốt, loại những khách hàng
có tình hình tài chính yếu kém. Điều đó sẽ tránh được sự phân tán vào các thông tin do
khách hàng chủ động cung cấp bởi vì các thông tin này thường đã được điều chỉnh có
lợi cho khách hàng để được vay vốn. Đồng thời cũng không bị giới hạn bởi thời gian
thẩm định trong trường hợp khách hàng chủ động tìm đến ngân hàng.
3.2. Xác định thị trường và các lĩnh vực cho vay.
Căn cứ các phân tích kinh tế vĩ mô, xu hướng phát triển, tiềm lực tài chính và rủi
ro ngành của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Ngân hàng cần nhận diện thị trường
mục tiêu bằng cách nhận diện các phân đoạn kinh doanh có thể chấp nhận trong phạm
vi toàn bộ thị trường. Cần nhận biết các yếu tố sau :
Những rủi ro nội tại xuất phát từ bản thân hàng hoá, môi trường kinh doanh, sự
lỗi thời.
Vị thế của ngành trong nền kinh tế, ngành nghề này có được ưu đãi phát triển
hay không?
Triển vọng của ngành cần tham khảo báo cáo của các chuyên gia trong ngành,
xác định vị trí, sự cạnh tranh, các nhân tố bên ngoài.
Vị trí trong chu kỳ ngành : ngành đang trong giai đoạn tăng trưởng, bão hoà hay
suy thoái.
Căn cứ chiến lược kinh doanh và khả năng chấp nhận rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Căn cứ vào các đặc điểm, thế mạnh, hạn chế và nguồn lực hiện có của ngành
hàng về vốn, cơ sở vật chất, trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Ngân hàng xem xét, quyết định lựa chọn các đối tượng tín dụng trong từng giai

đoạn để tập trung mở rộng tín dụng theo các tiêu chí sau :
Theo ngành, chuyên ngành hoặc sản phẩm mũi nhọn.
Theo vùng lãnh thổ.

Trang 30 / 37


×