Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BÀI TẬP NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MACLENIN 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.46 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TẬP NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MAC-LENIN 2

Giáo viên hướng dẫn: Ts. Lê Ngọc Thông
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Quý
Mã sinh viên:
Lớp:

11064327
EBBA-8A

Hà Nội, tháng 2 năm 2017
1


BÀI TẬP NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 2
Câu hỏi 1: Trình bày sự phân chia lợi nhuận của các tập đoàn Tư Bản. Từ đó rút ra ý
nghĩa và liên hệ với thực tế.
Trả lời:
1. Sự phân chia lợi nhuận của các tập đoàn Tư Bản, bản chất là sự phân chia giá trị thặng
dư giữa các giai cấp bóc lột trong Chủ Nghĩa Tư Bản.
Giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu hiện thành 5 hình thức lợi nhuận như sau:
a) Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
- Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản: Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp
là một bộ phận của tư bản công nghiệp được tách ra và phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa
của tư bản công nghiệp.
Công thức vận động của tư bản thương nghiệp là: T-H-T’
Với công thức này, hàng hóa được đổi chỗ 2 lần:


(1) từ tay nhà tư bản công nghiệp sang tay nhà tư bản thương nghiệp.
(2) từ tay nhà tư bản thương nghiệp sang tay người tiêu dùng.
- Ta có thể thấy, sự ra đời và phát triển của tư bản thương nghiệp đã làm cho lưu thông hàng
hóa phát triển, thị trường được mở rộng, hàng hóa được lưu thông nhanh chóng, do vậy, đẩy
nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản. Từ đó nó cũng thúc đẩy ngược lại sự phát triển của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Lợi nhuận thương nghiệp: là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực
sản xuất và do tư bản công nghiệp nhượng lại cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương
nghiệp thực hiện chức năng lưu thông.
b) Tư bản cho vay và lợi tức cho vay
- Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản: là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ sơ
hữu nó cho người khác sử dụng trong một thời gian nhằm nhận được số tiền lời nhất định, số
tiền lời đó được gọi là lợi tức. Ký hiệu là z.
2


Tư bản cho vay vận động theo công thức T – T. trong đó T' = T + z.
- Lợi lức và tỷ suất lợi tức
+ Lợi tức: chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư
bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản đi
vay sử dụng. Vì là một phần của lợi nhuận bình quân, nên thông thường, giới hạn của lợi tức ở
trong khoảng:0+ Tỷ suất lợi tức: là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay
(thường tính theo tháng, quý, năm...). Nếu ký hiệu tỷ suất lợi tức là z' ta có: z’=(z/(Tổng tư bản
cho vay)).100% Từ giới hạn của lợi tức, có thể suy ra giới hạn của tỷ suất lợi tức cũng phải ở
trong khoảng: 0c) Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng
- Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa.
Tín dụng thương nghiệp: là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua
bán chịu hàng hóa với nhau. Sự vận động của tín dụng thương nghiệp gắn liền với sự vận động

của tư bản hàng hóa, vì đối tượng của tín dụng thương nghiệp là hàng hóa.
Tín dụng ngân hàng: là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm môi giới. Đây là hình thức
tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác
trong xã hội. Sự vận động của tín dụng ngân hàng gắn liền với sự vận động của tư bản tiền tệ,
vì đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ.
-Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng trong chủ nghĩa tư bản là xí nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa
người đi vay và người cho vay.
Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay.
Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi phí về nghiệp vụ
kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh tư bản tiền tệ hình thành nên
lợi nhuận ngân hàng.
3


Trong cạnh tranh, rốt cuộc lợi nhuận ngân hàng cũng ngang bằng với lợi nhuận bình quân, nếu
không sẽ lại diễn ra sự tự do di chuyển tư bản vào các ngành khác nhau.
d) Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán
- Công ty cổ phần: là một loại xí nghiệp lớn được hình thành bằng con đường tập trung vốn
thông qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu.
- Tư bản giả: là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và mang lại thu nhập cho
người sở hữu các chứng khoán đó. Vì là tư bản giả nên sự tăng hay giảm giá mua bán của nó
trên thị trường không cần có sự thay đổi tương ứng của tư bản thật.
- Thị trưòng chứng khoán: là nơi mua bán các chứng khoán (các loại giấy tờ có giá: cổ phiếu,
trái phiếu, giấy tờ cầm cố,..). Thị trường chứng khoán được phân thành hai cấp độ: thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán phát
hành đầu tiên; và thị trường thứ cấp là thị trường đi mua bán lại các chứng khoán và thường
được thông qua sở giao dịch chứng khoán.
e) Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa
- Sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp theo hai con đường:

Thứ nhất, dần dần chuyển nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Ví dụ như ở Đức, Italia, Nga Sa
hoàng. V V..
Thứ hai, thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xỏa bỏ chế độ canh tác ruộng đất theo kiểu
phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp. Ví dụ như ở Pháp, Anh, v.v.
-Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa: là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi
phần lợi nhuận bình quân mà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ. Thực chất,
địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư siêu ngạch hay
lợi nhuận siêu ngạch.
- Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa
+Địa tô chênh lệch: là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế về điều kiện sản
xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị trường, gần đường hơn, hoặc ruộng đất được
4


đầu tư để thâm canh). Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung (được quy định bởi điều
kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất) và giá cả sản xuất cá biệt.
Địa tô chênh lệch = Giá cả sản xuất chung - Giá cả sản xuất cá biệt
+Địa tô tuyệt đối: là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp
cho địa chủ, cho dù ruộng đất là tốt hay xấu. Đây là loại địa tô thu trên mọi thứ đất.
Vậy, địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành
do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong
công nghiệp, nó là so chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và giá cả sản xuất chung.
2. Ý nghĩa và liên hệ thực tiễn:
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư, sự phân chia lợi nhuận của các tập đoàn tư bản
của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất
nước.
+ Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc
lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác

dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta
còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
+ Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong
việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp
doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn
cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những
góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để
điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành
đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính
là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì
5


phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để một mặt, chống thất thu
thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh"
phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng
ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận
dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát
triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
+ Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới
chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh
bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế,
việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là
một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những
quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ
lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện
hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây

dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Câu hỏi 2: Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Từ đó rút ra ý nghĩa và liên
hệ với thực tế.
Trả lời:
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
a, Khái niệm giai cấp công nhân:
- Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của của lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc gián tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo quan hệ xã hội, là lực lượng
chủ yếu của tín trình lịch sử quá độ CNTB lên XHCN giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu, hơn nữa họ còn là giai cấp lãnh đạo xã hội.

6


-Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập
hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy,
một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công
nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của
nền đại công nghiệp đó.
-Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp cơ bản, chủ
yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc
phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người
được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao
động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại
của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao
động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản
chiếm đoạt.

-Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô sản là giai
cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán
sức lao động của mình đế sống”.
-Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc khác nhau như thế
nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ bản để xác định,
phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
+ Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trong
nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các
công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công
nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công
nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.
+Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta phải xem xét trong
hai trường hợp sau:
-Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản hiện đại, không có
tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị toàn thể giai
7


cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm
đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi
là giai cấp vô sản.
-Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền. Nó không
còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu
tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân
cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa.
Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là
nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp công nhân như sau:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có

tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào
quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho
lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
b, Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất "... giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị"
và "Giai cấp vô sán Chiếm lạy chinh quyền nhà nước". Bước thứ hai: "... giai cấp vô sản dùng
sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập
trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước" tiến hành tổ chức xây dựng xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không
thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai
là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định phải tập hợp được
các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, biến thành cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã
hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, và văn hóa, tư tưởng. Đó là một
quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
8


c, Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội khách quan của nó
quy định. Địa vị đó được thể hiện ở những điểm sau đây:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân ra đời
và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất của
lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội
xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà

họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người
chủ của nó (người vô sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận
của nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường làm thuê và phụ
thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị
bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản
chủ nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để
nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện sinh hoạt khách quan
của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại
khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và
được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách
mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả
năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó
là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng
đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ
nghĩa đế quốc.
9


Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp”.
d, Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
-

Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.

-


Có tinh thần cách mạng triệt để.

-

Có tính tổ chức và kỷ luật cao nhất.

-

Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế.

Tóm lại, từ sự phân tích địa vị kinh tế - xã hội và những đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp
công nhân, chủ nghĩa Mác – Leenin đã phát hiện ra rằng giai cấp công nhân là giai cấp có sứ
mệnh lịch sử. Đó là một việc làm hết sức khác quan và khoa học.
Mặc dù hiện nay giai cấp công nhân đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề nhưng
xét về toàn cảnh xã hội thì giai cấp công nhân vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho
việc thực hiện sứ mệnh của mình.
Hiện nay đời sống của một bộ phận không nhỏ công nhân đã được cải thiện, thậm chí có mức
sống trung lưu hóa, song điều đó không có nghĩa là giai cấp công nhân ở những nước đó không
bị bóc lột hoặc bóc lột không đáng kể.
Dù cố tìm mọi cách thích nghi và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản không thể nào
khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Thực tế cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn đang diễn ra với những nội dung da dạng và hình
thức phong phú.
2. Ý nghĩa và liên hệ với thực tế:
-Ý nghĩa: Giai cấp công nhân hiện đại – sản phẩm của nền nền đại công nghiệp hiện đại quy
mô ngày càng lớn, là giai cấp tiên tiến, luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội. Xuất
phát từ địa vị kinh tế - xã hội và đặc điểm chính trị xã hội, giai cấp công nhân trở thành giai cấp
có sứ mệnh lịch sử cao cả thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
10



nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không chỉ ở mỗi quốc gia dân tộc mà trên phạm vi toàn thế
giới. Để đảm đương sứ mệnh lịch sử to lớn đó, dù dưới chủ nghĩa tư bản hay dưới chủ nghĩa xã
hội giai cấp công nhân hiện đại phải không ngừng nâng cao về số lượng, chất lượng và tổ chức;
phải nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp xứng đáng là lực
lượng đi đầu trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
- Liên hệ: thực trạng đời sống của giai cấp công nhân nước ta còn ở mưc trung bình thấp so với
toàn xã hội và không ổn định, môi trường lao động xấu, điều kiện lao động kém,.. vì vậy việc
xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng để có thể
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là vấn đề rất quan trọng.
Trước mắt, cần khẩn trương giải quyết vấn đề việc làm và đời sống cho giai cấp công nhân
nhằm từng bước khắc phục sự thoái hóa, biến chất đang diễn ra hiện nay. Đồng thời, phải tăng
cường bồi dưỡng nâng cao tay nghề, đẩy mạnh công tác giáo dục, ý thức tổ chức kỷ luật cho
công dân để từng bước xây dựng giai cấp công nhân; thể hiện vai trò lực lượng chủ đạo trong
xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Về lâu dài, cần phát triển mạnh mẽ số lượng và trí thức hóa đội ngũ công nhân để nâng cao
trình độ chuyên môn và quản lý của công nhân, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước trong mọi ngành kinh tế quốc dân, trên cơ sở đó xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội và thông qua đó xây dựng đội ngũ công nhân hiện đại. Cùng với sự
nghiệp đào tạo xây dựng đội ngũ công nhân mới, trẻ tuổi với tri thức hiện đại, chúng ta đẩy
mạnh sự nghiệp đào tạo lại và nâng cao đội ngũ công nhân hiện có. Bên cạnh đó chúng ta phải
xây dựng, củng cố Đảng cộng sản vững mạnh, xây dựng cơ chế gắn bó máu thịt giữa Đảng và
Nhà nước, đồng thời thường xuyên bổ xung lực lượng công nhân ưu tú vào đội ngũ lãnh đạo
của Đảng, cơ quan quản lý nhà nước.

11




×