Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH hội NHẬP KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.87 KB, 25 trang )

Đề tài:
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM......................4
1. Lý luận chung về nguồn nhân lực.......................................................................4
i. Khái niệm..........................................................................................................................4
1.2 Đặc điểm và vai trò nguồn nhân lực Việt Nam.............................................................4
1.3 Yêu cầu đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực.........................................................6

2. Mối quan hệ giữa nguồn nhân lực và hội nhập Kinh tế quốc tế.......................7
ii. Nguồn nhân lực tác động đến hội nhập kinh tế..............................................................7
1.2 Hội nhập kinh tế tác động đến nguồn nhân lực............................................................8

3. Chủ trương của Đảng về phân tích nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Hội
nhập Kinh tế............................................................................................................. 9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM......................12
1. Thực trạng chung nguồn nhân lực Việt Nam...................................................12
1.1 Quy mô, cơ cấu nguồn nhân lực Việt Nam.................................................................12
1.2 Chất lượng nguồn nhân lực........................................................................................13
1.3 Thành tựu đạt được....................................................................................................14

2. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam.................................16
2.1 Lợi thế và cơ hội nguồn nhân lực...............................................................................16
2.2 Hạn chế và thách thức của nguồn nhân lực Việt Nam...............................................17

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC VIỆT NAM..............20
1. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế..........................................................................20


2. Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực..........................20
3. Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực....................................21
4. Đổi mới giáo dục và đào tạo..............................................................................22
5. Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.............23
1


KẾT LUẬN................................................................................................................ 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................25

2


LỜI MỞ ĐẦU
Nhân lực là nhân tố quyết định quan trọng nhất đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia. Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu
đối với sự cường thịnh của một đất nước. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều
rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực. Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia
nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt
được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba thập kỷ. Vì thế, chúng em đã lựa
chọn đề tài “Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập
quốc tế”.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện
nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, phát triển
nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô
hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời, phát triển nhân lực trở
thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát

triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây
dựng những định hướng cụ thể, đánh giá được những lợi thế, hạn chế cũng như
cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực nước nhà để từ đó đề ra mục tiêu và
giải pháp phát triển thích hợp cho giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã
hội trong nước và quốc tế.

3


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
1. Lý luận chung về nguồn nhân lực
i. Khái niệm
- Nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực
lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh
nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của
đất nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế nước ta với các nền
kinh tế khác trên thế giới với mục tiêu xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
1.2 Đặc điểm và vai trò nguồn nhân lực Việt Nam
a. Đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam
Nguồn nhân lực được đánh giá là một nhân tố vô cùng quan trọng đối với
sự phát triển của một đất nước. Cùng với những chuyển biến tích cực của nền
kinh tế Việt Nam, nguồn nhân lực cũng có những bước tiến bộ quan trọng cả về
số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận một số hạn chế
của nguồn nhân lực Việt Nam. Bốn đặc điểm dưới đây cũng là những nét đặc
trưng nhất khi nhắc tới nguồn nhân lực Việt Nam:
-


Nguồn nhân lực dồi dào

Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến năm 2014 dân
số việt nam gần đạt ngưỡng 90 triệu người. Về lực lượng lao động, cả nước có
53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, chiếm 59% tổng dân
số. Trong đó lực lượng lao động của khu vực nông thôn chiếm đến 70,3%.
-

Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, trình độ chuyên môn hạn chế

Tuy nhiên, số người trong độ tuổi lao động đông không có nghĩa là thị
trường lao động Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp.
Bởi số lao động có tay nghề, có chất lượng của nước ta đang còn rất hạn chế.
Trong tổng số lao động chỉ có gần 7,8 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,4%.
Sự chênh lệch về chất lương nguồn lao động được thể hiện rõ nhất là ở khu vực
nông thôn và thành thị. Ở thành thị lao động đã được đào tạo chiếm 30,9%, trong
khi ở nông thôn chỉ có 9%. Sự chênh lệch này là quá lớn, ảnh hưởng không nhỏ
tới sự phát triển kinh tế chung của nước. Trong khi đó, lượng lao động từ nông
thôn đến thành thị tìm việc là rất lớn. Như vậy, lao động Việt Nam chỉ mới đáp
ứng được nhu cầu về số lượng, chứ chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng.
Điều này không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và còn khiến cho người
lao động tự làm mất cơ hội việc làm cho bản thân.
-

Sự kết hợp giữa nguồn nhân lực từ các tầng lớp, giai cấp chưa tốt
4



Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân,
trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dù ở thời kì phát triển nào của
đất nước thì liên minh công nhân – nông dân – trí thức cũng đóng vai trò quyết
định thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế, tuy nhiên, hiện nay, liên minh này chưa phát
huy tối đa được tác dụng vì sự phân bổ nguồn lực còn chưa hợp lý, đồng đều,
tinh thần đoàn kết suy thoái cũng như thiếu đi mối quan hệ tương hỗ cho nhau để
tạo thành một bộ máy hoàn chỉnh trong nền kinh tế hội nhập.
-

Nguồn nhân lực chưa được quan tâm và khai thác đúng mức

Nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa
được tổ chức đầy đủ. Hiện có từ 80 đến 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và
những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất
lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn
đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản
xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp.
Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp)
hiện đang còn là hình thức. Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm
cho một bộ phận lao động ở nông thôn dư thừa ra, không có việc làm. Hàng năm
theo ước tính, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để
phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị. Chính vì nguồn nhân lực trong nông
thôn chưa được khai thác, đào tạo, cho nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn
không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là
các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực
lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều, chất lượng lao động rất thấp.
b. Vai trò của nguồn nhân lực Việt Nam
-


Nguồn nhân lực là động lực quan trọng tác động tới sự phát triển

Nguồn nhân lực là nguồn lực mang tính chiến lược: Trong điều kiện xã hội
đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, thì các nhân tố công nghệ, vốn, nguyên vật
liệu đang giảm dần vai trò của nó. Bên cạnh đó, nhân tố tri thức của con người
ngày càng chiếm vị trí quan trọng: Nguồn nhân lực có tính năng động, sáng tạo
và hoạt động trí óc của con người ngày càng trở nên quan trọng. Xã hội không
ngừng tiến lên, nền kinh tế ngày càng phát triển và nguồn lực con người là vô
tận, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ
phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả .
Nếu biết khai thác nguồn lực này đúng cách sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất cho
xã hội, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Ngày nay một quốc gia
có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi
nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu nguồn
nhân lực được đầu tư và phát triển đúng đắn. Như vậy để xã hội thực sự phát
triển thì động lực lớn nhất, quan trọng nhất đó chính là năng lực của con người.
Chính vì vậy cần phải sử dụng và khai thác hợp lý sao cho nguồn nhân lực thực
sự là động lực to lớn, hữu ích cho sự phát triển.
- Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
5


Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ
biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công
nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng
suất lao động cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Khi đất nước ta đang bước vào giai

đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta
đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững.
1.3 Yêu cầu đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực
a. Bối cảnh trong nước
Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực đang đứng
trước những yêu cầu:
-

Bảo đảm nguồn nhân lực phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu

Bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ
chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, tăng
cường ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện
tái cấu trúc nền kinh tế, tăng nhanh hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế, tăng năng suất lao
động, tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực.
-

Giải quyết vấn đề việc làm và đào tạo nghề nghiệp

Nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả về
số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, do quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của những

ngành, nghề mới. Hiện nay, Việt Nam có lực lượng lao động khá lớn (khoảng
52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước
vào tuổi lao động), một mặt, tạo cơ hội cho nền kinh tế có bước phát triển mạnh
mẽ, mặt khác, tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm và đào tạo nghề nghiệp.
-

Phát triển nguồn lực cân bằng giữa các vùng miền

Sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng hơn
giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh, quốc phòng để phát triển đất nước. Nếu có sự chênh lệch quá nhiều về số
lượng cũng như chất lượng nguồn lực giữa các vùng miền thì sẽ không tận dụng
được triệt để lợi thế cạnh tranh của mỗi địa phương, từ đó dẫn đến sự phát triển,
phân bố ngành nghề không đồng đều, mất cân bằng.
6


b. Bối cảnh quốc tế

Từ bối cảnh quốc tế, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những
yêu cầu:
-

Phải đủ nhân lực tham gia vận hành các chuỗi giá trị toàn cầu

Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào quá trình vận
hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đoàn xuyên quốc gia có
ảnh hưởng ngày càng lớn. Nhân lực phải được trang bị đủ những kiến thức, kĩ
năng cần thiết để cạnh tranh với lao động nước ngoài trong xu thế hội nhập hóa
kinh tế quốc tế.

- Phải có năng lực thích ứng với sự thay đổi công nghệ, tương quan kinh
tế giữa các khu vực
Nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài nguyên
thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính (do
tác động và hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới), có khả năng đề ra các giải
pháp gia tăng cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của các thế
hệ công nghệ, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực
-

Đào tạo nhân lực có thể cạnh tranh với cộng đồng quốc tế

Nhân lực nước ta phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở
nước ngoài do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy
lợi thế của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng
đồng quốc tế giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực .
2. Mối quan hệ giữa nguồn nhân lực và hội nhập Kinh tế quốc tế
ii. Nguồn nhân lực tác động đến hội nhập kinh tế
Theo tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), nhóm yếu tố lao động là một
yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia,
động lực của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực lại khẳng định mạnh mẽ hơn vai trò của mình
đến sự thịnh vượng của một quốc gia. Điều này được thể hiện rõ nét hơn qua hai
phương diện:
a. Nhân lực quyết định tính chủ động, tích cực, từ đó tạo ưu thế trong hội nhập
Theo chủ trương của Đảng, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” là một
nội dung trọng tâm trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, với mục tiêu
thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững, đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy
chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh,
tích cực tham gia sâu và rộng vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Chắc chắn

rằng, để thực hiện được điều đó, nguồn nhân lực là yếu tố then chốt. Bởi trong
tiến trình hội nhập, sẽ có rất nhiều hiệp định mới được kí kết và điều khoản mới
với yêu cầu cao hoặc có một số điểm khác biệt với phong tục, tập quán riêng của
Việt Nam. Nếu nguồn nhân lực chủ động tìm hiểu, tích cực tham gia và nhanh
nhạy trong việc đón đầu những xu hướng mới, chúng ta sẽ đáp ứng những yêu
7


cầu đó trong thời gian ngắn, từ đó tận dụng được những điểm tích cực của hội
nhập cũng như giành được ưu thế cạnh tranh trên trường quốc tế.
b. Nguồn nhân lực quyết định tính hiệu quả khi hội nhập
Khi đã chủ động tích cực tham gia vào tiến trình hội nhập, nguồn nhân lực
lại một lần nữa là yếu tố quyết định tính hiệu quả của xu thế chung này. Bởi trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ
thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi trường pháp
lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị- xã hội ổn định. Cụ thể, khi tham
gia vào Cộng đồng Kinh tế chung AEC, không chỉ dòng hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư, vốn di chuyển tự do mà đồng thời còn có sự di chuyển tự do lao động có kỹ
năng giữa 10 quốc gia thành viên ASEAN. Thị trường lao động khu vực tác động
tích cực đến sự vận hành thị trường và mạng lưới sản xuất của các nền kinh tế
thành viên. Việc di chuyển lao động tạo khả năng mang lại lợi ích cho lực lượng
lao động như tiền lương, việc làm và sự ổn định cuộc sống. Từ đó có thể thấy rõ,
nguồn nhân lực quyết định tính hiệu quả khi tham gia hội nhập kinh tế, việc phân
bổ, phát triển nguồn nhân lực phản ánh một cách rõ nét trình độ mở cửa thị
trường lao động cũng như năng lực quản lý lao động của các quốc gia thành viên.
1.2 Hội nhập kinh tế tác động đến nguồn nhân lực
a. Hội nhập kinh tế đặt ra yêu cầu, động lực để phát triển nguồn nhân lực
mang tính cạnh tranh
Thời kỳ hội nhập sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm với nhiều yêu cầu cao
hơn đối với người lao động, với tiêu chí tuyển dụng cao hơn đòi hỏi nguồn nhân

lực phải có nhiều kỹ năng khác ngoài kiến thức chuyên môn như: khả năng giao
tiếp, sử dụng vi tính, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng báo cáo, kỹ năng tìm
hiểu và xử lý thông tin. Việc tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là điều
kiện thuận lợi phát triển thị trường lao động Việt Nam hoàn thiện quá trình đào
tạo và nâng cao nguồn lực lao động. Vấn đề chuẩn bị nguồn nhân lực gia nhập
kinh tế quốc tế đã được các cơ quan Nhà nước, các cơ quan nghiên cứu xã hội nhân lực phân tích nhiều, Đảng và Nhà nước cũng đã xác định các chủ trương,
chỉ đạo cụ thể để phát huy ưu thế khắc phục hạn chế hướng đến nguồn nhân lực
chất lượng cao, nhân lực trình độ cao đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chúng ta có
thể nhận thấy rõ trong quá trình hội nhập, hiện nay và những năm tới, thị
trường lao động tiếp tục phát triển theo chiều hướng đổi mới công nghệ, nâng
cao quản lý, phát triển quy mô sản xuất kinh doanh, quy mô doanh nghiệp tạo
nhiều chỗ làm mới thu hút lao động với nhiều ngành nghề đa dạng, đặc biệt nhu
cầu việc làm chất lượng cao.
b. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ, góp phần
thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Hội nhập kinh tế tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản
thân người lao động và các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác,
chuyển giao công nghệ với các nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế còn tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và
nâng cao chất lượng nhân lực cho lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ
thuật trình độ cao, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác,
8


hội nhập kinh tế tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực thông
qua các dự án hợp tác đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam tạo
ra các nguồn tài chính dồi dào hơn. Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc
đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động theo định hướng thị trường, từ đó tạo điều kiện
cho nhân lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng hơn vào phân công và hợp
tác lao động quốc tế. Đặt nền móng cho việc tạo việc làm một cách ổn định và

bền vững.
3. Chủ trương của Đảng về phân tích nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
Hội nhập Kinh tế
Trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang bước vào thời kì đổi mới với
cục diện quốc tế có nhiều thay đổi, hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng trở
nên thiết yếu đối với sự phát triển của đất nước và là một trong những vấn đề
được Đảng ta hết sức chú trọng. Một trong những yếu tố quan trọng nhất góp
phần tạo nên hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng chính là yếu tố con người.
Đảng ta đã sớm nhận ra vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với công cuộc
hội nhập quốc tế của đất nước và đã có nhiều chủ trương, chính sách để có thể
phát huy hiệu quả nguồn lực to lớn này phục vụ cho công cuộc đổi mới và hội
nhập.
Ngay từ Đại hội VI (12 -1986), Nghị quyết Đại hội đã nêu rõ "Muốn kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự
phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là mở mang quan hệ phân
công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia, với các nước khác trong
cộng đồng xã hội chủ nghĩa”. Sự tham gia vào phân công lao động quốc tế đòi
hỏi phải phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ nguồn nhân lực, nâng cao chất
lượng và năng suất lao động trên nhiều mặt. Đảng bước đầu cũng đã có những
chính sách nhằm đổi mới nguồn lực con người và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trên nhiều lĩnh vực.
Tại Đại hội VIII (6-1996), vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được
Đảng ta chú trọng, coi đây là động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố
quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở
nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế muốn phát triển đất nước bền
vững không thể không chăm lo phát triển con người. Đảng ta khẳng định: “con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”. Nguồn lực cơ bản, to
lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có
thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đại hội VIII nêu rõ: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn

của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa và Hội nhập”.
Trong Nghị Quyết 07/NQ-TW (2001), Đảng ta đã chỉ rõ sự cấp thiết cần có
kế hoạch cụ thể để đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực “vững vàng về
chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh
thần kỷ luật cao.” Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung
của thế giới, Đảng cũng nhấn mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh
doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt
9


nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm
được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Nghị quyết 07/NQ-TW
cũng chỉ ra sự cần thiết phải coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ
tay nghề cao. Bên cạnh đó, cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực, cần phải có
chính sách thu hút, bảo vệ và sử dụng nhân tài; bố trí, sử dụng cán bộ đúng với
ngành nghề được đào tạo và với sở trường năng lực từng người.
Tới Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), Đảng ta cũng đã
chỉ ra “Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất
nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” và cũng đã
khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền
vững đất nước”. Việc đào tạo nguồn nhân lực cũng phải đáp ứng yêu cầu đa
dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề.
Nguồn nhân lực cho công cuộc hội nhập quốc tế đòi hỏi phải đủ số lượng, cân
đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Đại hội XI đã xác định cần phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để thực hiện chiến lược này,

Đảng ta đưa ra nhiều giải pháp: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam; đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là
khâu then chốt”, “xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức
khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”. Đảng ta nêu rõ 4 định hướng chiến lược về
phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập: gắn phát triển nguồn nhân lực
với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội; gắn việc phát triển nguồn
nhân lực với quá trình dân chủ hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có
hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại; nâng cao chất lượng sử
dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ; có chiến lược phát triển con
người trên cơ sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Giải quyết tốt các vấn đề này sẽ tạo
được yếu tố nội sinh của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho phát triển và hội
nhập. Trong đó, một trong vấn đề mấu chốt được Đảng nêu ra là: “Đổi mới
chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài,
kể cả người Việt Nam ở nước ngoài”. Nghị quyết khẳng định: Việt Nam chỉ có
thể đi tắt đón đầu sự phát triển trên thế giới trong thời kỳ hội nhập bằng cách đầu
tư vào yếu tố con người.
Trong bối cảnh đất nước ta vừa kí kết nhiều hiệp định thương mại quan
trọng, đặc biệt là việc tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN và kí kết Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, phát triển nguồn lực con người đang
là một trong những yêu cầu tối quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với việc
hội nhập toàn diện và sâu rộng. Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao việc phát triển
nguồn nhân lực một cách nhanh chóng và hiệu quả để có thể khai thác được
những tiềm năng con người lao động Việt Nam cũng như tranh thủ những lợi ích
có được khi tham gia hội nhập quốc tế. Những chính sách của Đảng đã góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên nhiều mặt và chuẩn bị một lực lượng
10



lao động chất lượng cao sẵn sàng tham gia vào xu hướng chuyển dịch lao động
giữa các quốc gia trên thế giới.

11


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
1. Thực trạng chung nguồn nhân lực Việt Nam
1.1 Quy mô, cơ cấu nguồn nhân lực Việt Nam
a. Quy mô lao động
Theo số liệu của tổng cục thống kê, dân số Việt Nam năm 2014 là 90.728
triệu người, lực lượng lao động của Việt Nam tính từ 15 đến 60 tuổi hiện nay là
53.7 triệu người chiếm 59% tổng dân số cả nước.
b. Cơ cấu

- Theo độ tuổi: Cơ cấu lực lượng lao động trẻ.
Việt Nam có “cơ cấu dân số vàng” từ 2007. Giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”
sẽ kéo dài trong khoảng 30-35 năm. Cơ cấu dân số vàng tức là ít nhất có 2 người
trong tuổi lao động “nuôi” 1 người trong độ tuổi phụ thuộc. Lực lượng lao động
trẻ góp phần to lớn cho công cuộc sản xuất, xây dựng đất nước. Theo số liệu của
tổng cục thống kê Việt Nam năm 2014, lực lượng lao động độ tuổi 15-24 là 7.585
triệu người, lực lượng lao động độ tuổi 25-44 là 32 triệu người. Như vậy lực
lượng lao động trẻ ở độ tuổi 15-44 ở nước ta chiếm 73.9% tổng lực lượng lao
động cả nước. Lực lượng lao động dồi dào là ưu thế hàng đầu của nước ta trong
thời gian hiện nay.

- Theo ngành nghề:
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản chiếm 46.6% tổng số (năm 2012 là 47.4%; năm 2013 là 46.8%); khu vực

công nghiệp và xây dựng chiếm 21.4% (năm 2012 và 2013 cùng ở mức 21.2%);
khu vực dịch vụ chiếm 32.0% (Năm 2012 là 31.4%; năm 2013 là 32%).

Nguồn: Tổng Cục Thống kê
12


1.2 Chất lượng nguồn nhân lực
a. Trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa đồng đều, còn hạn chế
Nguồn nhân lực của Việt Nam trẻ và dồi dào nhưng trình độ chuyên môn kỹ
thuật thấp. Năm 2013, lực lượng lao động qua đào tạo chiếm gần 18%, năm 2015
tỷ lệ này là 12,5%. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đang rất
thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao, ảnh hưởng đến
năng suất và chất lượng lao động. Đây là một thực trạng rất đáng lo ngại. Học
vấn thấp, kỹ năng nghề nghiệp chưa cao là một trong các nguyên nhân dẫn đến
năng suất lao động của lao động Việt Nam nói chung và lao động thanh niên nói
riêng còn thấp. Về học vấn, vẫn còn trên 15% số lao động chưa tốt nghiệp tiểu
học, trong đó chưa biết chữ chiếm gần 4%.
Cũng có sự chênh lệch về chuyên môn kĩ thuật của lao động trẻ ở nông thôn
và thành thị. Ở nông thôn, số lao động trong độ tuổi từ 15- 34 có chuyên môn kĩ
thuật chiếm 3.36% (trong đó nhóm tuổi 15-24 chiếm 1.98% và nhóm 25-34
chiếm 5.07%); Trong khi đó ở thành thị, số lao động trong nhóm tuổi 15-34 có
chuyên môn kĩ thuật chiếm 13.36% (trong đó, nhóm 15-24 chiếm 7.2% và nhóm
25-34 chiếm 20.16%).
Vì vậy, đây là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay trong thị trường
lao động trẻ ở nước ta, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và chất
lượng lao động là vũ khí mạnh mẽ để cạnh tranh có hiệu quả.

b. Nhân lực phổ thông chiếm số đông so với nhân lực chất lượng cao
Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực

chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay không
phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao. Theo số liệu thống kê
năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao
động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ
13


sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và
chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công
nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so
với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt
Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB)
trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94...
c. Số lượng nhân lực được đào tạo có xu hướng tăng
Nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả về
số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, do quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của những
ngành, nghề mới. Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh.
Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào
tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao
đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường
trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người.
d. Năng suất lao động còn thấp, nhưng có xu hướng ngày càng tăng
Theo cách tính năng suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 01
năm, năng suất lao động năm 2005 là 21.4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44.0
triệu đồng/người, năm 2012 là 63.1 triệu đồng/người, năm 2013 là 68.7 triệu
đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã

được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như
bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công
nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân
Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh
doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.
1.3 Thành tựu đạt được
a. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực
Thực hiện định hướng cơ bản trên đây của Đảng và Nhà nước về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sau hơn 20 năm
đổi mới, chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật. Cơ cấu kinh tế ngành
chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm, thủy sản, tăng tỷ
trọng nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và nhóm ngành dịch vụ trong tổng sản
phẩm quốc nội (GDP). Trong đó, tỷ trọng nông, lâm, thủy sản giảm liên tục từ
46,3% năm 1988 xuống còn18,4% năm 2014; còn tỷ trọng công nghiệp, xây
dựng tăng từ 23,96% năm 1998 lên 38,3% năm 2014; tỷ trọng dịch vụ tăng từ
29,74% năm 1988 43,3% năm 2014.

Khu vực

1990

1995

2000

2005

2010

2012


2014
14


Kinh tế
Nông,lâm
nghiệp và
thủy sản

38,1

27,7

24,5

19,3

19,0

19.7

18,4

Công
nghiệp và
xây dựng

22,7


28,8

36,7

38,1

38,2

38,6

38,3

Dịch vụ

38,6

44,5

38,8

42,6

42,8

41,7

43,3

Khu vực
sản xuất

vật chất
(CN+NN)

60,8

56,5

61,2

57,4

57,2

58,3

56,7

Khu vực
phi công
nghiệp
(CN+DV)

61,3

73,3

75,5

80,7


81,0

80,3

81,6

b. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng

Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động
qua đào tạo tăng từ 30% lên 38% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo cách
tiếp cận và cách tính của Bộ lao động- Thương binh và Xã hội). Lao động
qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị
trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt nam đã làm chủ
được khoa học- công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc
phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia
nước ngoài.
c. Kí kết nhiều hiệp định quan trọng về lao động trong nhiều ngành du
lịch, xuất nhập khẩu
Kể từ khi đổi mới, đất nước ngày càng phát triển, giao lưu buôn bán với các
nước trong khu vực và quốc tế ngày một nhiều hơn, lượng hàng hóa trao đổi
cũng tăng nhanh, GDP của nước ta năm 2015 đạt 170 tỷ USD, xuất khẩu, du lịch
là một trong những nhân tố chính giúp tăng GDP của nước ta trong thời kì hiện
nay. Vì vậy Đảng và Nhà nước đã kí kết nhiều hiệp định quan trọng về lao động
trong nhiều ngành du lịch và xuất nhập khẩu
Năm 2009, Việt Nam đã ký Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN
về nghề du lịch (MRA-TP), làm cơ sở cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch
ASEAN và tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động trong khu vực. Du lịch Việt
Nam đã chủ động xây dựng các tài liệu hướng dẫn triển khai MRA-TP (2013).
15



Hiện nước ta đang kí các hiệp định thương mại tự do (FTA): 6 FTA ký kết
với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 5 FTA giữa ASEAN và các đối
tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và New Zeland)
 4 FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập (gồm FTA với các đối
tác: Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á Âu)
 Vừa hoàn tất đàm phán 2 FTA (gồm FTA với Liên minh Châu Âu và
Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương - TPP).
 Đang tiếp tục đàm phán 3 FTA, gồm: FTA ASEAN – Hồng Kông (Trung
Quốc), FTA với Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA), Hiệp định đối tác kinh
tế toàn diện khu vực (RCEP).
 Ngày 4/02/2016, nước ta ký hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), hội nhập sâu rộng với toàn thế giới.
Để kí được những hiệp định này, nước ta đã phải hết sức nỗ lực, chứng
mình với các đối tác nước ngoài nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng được các yêu
cầu, đòi hỏi của thị trường quốc tế.
2. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam
2.1 Lợi thế và cơ hội nguồn nhân lực
a. Lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam
-

Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động “trẻ”

Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, chiếm 59% tổng dân số. Trong số lực lượng lao động,
trên 51,0% có độ tuổi từ 15-39 tuổi, trong đó nhóm tuổi trẻ (15-29 tuổi) chiếm
đến 26,7% và nhóm tuổi thanh niên (15-24 tuổi) chiếm gần 15%. Đây là nhóm
tuổi có tiềm năng tiếp thu được những tri thức mới, kỹ năng mới để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động của Việt Nam.
-


Cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực

Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực
công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực dịch vụ là 32,1%, suy ra Việt Nam
chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế công nghệ hiện
đại. Số lượng lao động hưởng lương trong các ngành phi nông nghiệp như sản
xuất, xây dựng và dịch vụ tăng, trong khi, số lượng lao động có thu nhập từ nông
nghiệp giảm.
-

Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên

Ngân hàng Thế giới đánh giá cao những nỗ lực giáo dục kiên trì của nước ta
và nhận định "Trình độ học vấn đang tăng lên qua mỗi nhóm tuổi. Tỷ lệ dân số
có trình độ dưới bậc tiểu học đã giảm mạnh theo thời gian, và những người sinh
trong giai đoạn sau Đổi mới có trình độ học vấn cao hơn bất kỳ thế hệ nào trước
đây trong lịch sử Việt Nam”. Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp
tăng nhanh. Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong
lĩnh vực đào tạo nhân lực.
16


b. Cơ hội đối với nguồn nhân lực Việt Nam
-

Hội nhập sâu rộng hơn đi kèm với chuyển dịch lao động trong khu vực

Trong những năm tới, Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn với thế giới. Cùng với
việc tham gia AEC, Việt Nam đã ký các Hiệp định như Hiệp định Thương mại

Tự do Việt Nam - EU và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Khi
hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ dòng hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn di
chuyển tự do mà đồng thời còn có sự di chuyển tự do lao động có chuyên môn,
tay nghề cao. Thị trường lao động khu vực tác động tích cực đến sự vận hành thị
trường và mạng lưới sản xuất của các nền kinh tế thành viên. Như đã nêu trên, sự
ra đời của AEC trong năm 2015 sẽ tạo ra tăng trưởng việc làm thêm 10,5% vào
năm 2025. Khi ra đời, AEC có quy mô GDP 2.200 tỷ USD; thu nhập bình quân
đầu người 3.100 USD/năm, nhưng chênh lệch rất lớn, từ 1.000 USD/người
(Campuchia, Myanmar) đến 40.000 USD/người (Singapore). Chênh lệch quá lớn
về thu nhập có thể là một trong những nguyên nhân thúc đẩy di chuyển lao động
trong khối.
-

Tăng trưởng cơ cấu việc làm

Trong bối cảnh một thị trường chung, người lao động Việt Nam không
những có nhiều cơ hội nghề nghiệp trong nước mà còn mở rộng ra các thị trường
khu vực. Người lao động có cơ hội tương tác và nâng cao kinh nghiệm, kỹ năng
chuyên ngành ở các nước tiên tiến trong khu vực. Người lao động Việt nam sẽ
được “cọ sát” khi làm việc ở nhiều nơi, làm tăng tính linh hoạt, khả năng thích
ứng với môi trường làm việc đa văn hóa - vốn dĩ là một điểm chưa mạnh của Việt
Nam sẽ được nâng cao và cải thiện đáng kể.
- Phát triển nhân lực trong nhiều ngành trọng điểm như sản xuất gạo, xây
dựng, vận tải, dệt may và chế biến lương thực
Theo dự báo của Tổ chức lao đôn, ở Việt Nam sự gia tăng cơ hội việc làm
mạnh mẽ ở những ngành như sản xuất gạo, xây dựng, vận tải, dệt may và chế
biến lương thực. Trong giai đoạn 2010 - 2025, nhu cầu đối với việc làm cần tay
nghề trung bình nói chung sẽ tăng nhanh nhất, ở mức 28%, lao động có trình độ
kỹ năng thấp là 23% và lao động có kỹ năng cao sẽ tăng 13% và sẽ có thêm
nhiều cơ hội cải thiện cuộc sống của hàng triệu người.

2.2 Hạn chế và thách thức của nguồn nhân lực Việt Nam
a. Hạn chế của nguồn nhân lực Việt Nam
-

Tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp

Do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, cùng
với trình độ hạn chế không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu của thị trường lao
động, do vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn
thấp, đạt khoảng 30%.
- Chất lượng và cơ cấu lao động, vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu
phát triển và hội nhập
Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu hết chưa qua đào
tạo. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta đang rất thấp, là một trong những “điểm
17


nghẽn” cản trở sự phát triển (Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải, 2013). Theo số
liệu của Tổng cục thống kê (2013), trong Lực lượng lao động đang làm việc
trong nền kinh tế, lao động phổ thông, không có chuyên môn kỹ thuật chiếm
81,8%; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 5,4 %; lao động có trình độ
trung cấp chuyên nghiệp là 3,7%; và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở
lên chiếm 9,1%. Nếu tính theo cách tính của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, lao động qua đào tạo (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi
chính quy, dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng
38% tổng lực lượng lao động.
- Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và còn khoảng cách
khá lớn so với các nước phát triển trong khu vực
Lao động có kỹ năng chưa có nhiều, do đó, những người sử dụng lao động
nước ta cho biết họ gặp trở ngại đáng kể trong hoạt động do khó tìm được những

người lao động có kỹ năng phù hợp. Vì vậy, dù Việt Nam chưa phải lo về cầu lao
động nhưng kỹ năng và khả năng sẵn sàng làm việc của các ứng viên là một
thách thức rất lớn trong quá trình tuyển dụng lao động. Do đó, Ngân hàng Thế
giới WB nhận định " Ở Việt Nam, thiếu hụt kỹ năng là một vấn đề nghiêm trọng
với các ứng viên tìm kiếm việc làm trong các lĩnh vực kỹ thuật, chuyên môn và
quản lý" và ngay trong các ngành nghề giản đơn, cũng xảy ra tình trạng" thiếu
hụt lao động có tay nghề".
b. Thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam
- Cạnh tranh giữa lao động trong nước và lao động từ các nước bạn khi
Việt Nam chính thức tham gia vào AEC
Gia nhập AEC và các tổ chức thế giới khác sẽ cho phép Việt Nam cạnh
tranh được trên thị trường toàn cầu trên cơ sở tăng năng suất và kỹ năng của
người lao động. Khi chính thức thành lập, AEC sẽ thực hiện tự do luân
chuyển năm yếu tố căn bản: vốn, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động lành
nghề. Các chuyên gia cho rằng, sự “tự do” này vừa là cơ hội cho thị trường lao
động Việt Nam, đồng thời cũng là thách thức không nhỏ khi một lượng lớn lao
động từ các nước AEC vào Việt Nam sẽ tạo nên cuộc cạnh tranh với lao động
trong nước. Ngoài ra, khi tham gia AEC, ngoài việc có kỹ năng nghề nghiệp giỏi,
người lao động còn cần có ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác để có cơ hội
tham gia làm việc tại các quốc gia của AEC. Nếu người lao động Việt Nam
không ý thức được điều này thì sẽ thua ngay trên “sân nhà” bởi chúng ta khó
cạnh tranh về trình độ tay nghề, chuyên môn với nhiều quốc gia trong AEC. Để
thích ứng với hoàn cảnh mới, người lao động phải hỏi hỏi, cập nhật kỹ năng mới.
- Lực lượng lao động chủ yếu của Việt Nam vẫn làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp
Gần 50% lực lượng lao động Việt Nam vẫn làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp, với năng suất và thu nhập thấp. Khoảng 3/5 lao động Việt Nam hiện đang
làm các công việc dễ bị tổn thương. Nhìn chung, năng suất và mức tiền lương
của Việt Nam khá thấp so với các nền kinh tế ASEAN khác, như Malaysia,
Singapore và Thái Lan.

18


- Nguồn nhân lực có chất lượng thấp và năng lực cạnh tranh chưa cao
Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là công tác đào tạo
hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế. Nguồn nhân lực Việt
Nam tuy giàu về số lượng nhưng nghèo về kiến thức, kĩ năng, năng lực cạnh
tranh so với lao động nước bạn là còn thấp. Vì vậy, tuy nguồn lao động dồi dào
nhưng tại nước ta, tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao và các doanh nghiệp luôn trong tình
trạng “khát” nhân lực chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.
- Hệ thống thông tin của thị trường lao động còn nhiều yếu kém và hạn chế
Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động còn nhiều yếu kém và
hạn chế. Trong đó, hệ thống bị chia cắt giữa các vùng, miền, khả năng bao quát,
thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị
trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ
thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, đầy
đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện
trạng của cung – cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong
nước.
- Chảy máu chất xám
Nền kinh tế hội nhập quốc tế mở cửa cũng dẫn đến một hệ quả đó là “chảy
máu chất xám”, đây là một hiện tượng mang tính toàn cầu, tuy nhiên đối với các
nước còn kém phát triển như Việt Nam, còn có khoảng cách giàu nghèo lớn so
với các cường quốc thì đây được coi là một vấn nạn đáng báo động. Tầng lớp tri
thức đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế, vì
vậy để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao này quay trở lại quê hương cũng là
một thách thức đối với Đảng và Chính phủ.

19



CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC VIỆT NAM
1. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế
-

Chủ trương của Nhà nước: Quyết định số 579/QĐ-TTg (24/11/2011)

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam được thể hiện rất rõ trong
Quyết định số 579/QĐ-TTG (24/11/2011) trong đó nhấn mạnh sự đổi mới về
nhận thức về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực. Trong đó, cần tập trung vào
việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới phương pháp quản
lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát
triển nhân lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển nhân lực (bao
gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo
hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý
các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải tiến và
tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát triển
nhân lực.
- Các tổ chức, ban, ngành xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng
bộ với kế hoạch chung của đất nước
Nhân lực Việt Nam hội đủ các yếu tố cần thiết về thái độ nghề nghiệp, có
năng lực ứng xử (đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong làm việc, kỷ luật
lao động, tinh thần hợp tác, tinh thần trách nhiệm, ý thức công dân…) và tính
năng động, tự lực cao, đáp ứng những yêu cầu đặt ra đối với người lao động
trong xã hội công nghiệp. Cùng với việc tập trung phát triển nhân lực trình độ
cao đạt trình độ quốc tế, tăng cường phát triển nhân lực các cấp trình độ đáp ứng
yêu cầu phát triển của các vùng, miền, địa phương.
-


Hiện thực hóa các chiến lược bằng hành động cụ thể

Chiến lược này là Chiến lược tổng hợp cấp quốc gia để định hướng, làm cơ
sở cho việc lập, trình duyệt và triển khai thực hiện các quy hoạch, chương trình
và đề án phát triển nhân lực của các ngành, chuyên ngành, tổ chức và các địa
phương. Các Bộ, ngành, các địa phương và đơn vị, tổ chức (cơ quan, doanh
nghiệp…) căn cứ vào Chiến lược này tổ chức xây dựng quy hoạch, đề án phát
triển nhân lực thuộc phạm vi quản lý của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị,
lồng ghép các mục tiêu, quan điểm và giải pháp phát triển của Chiến lược vào
quy hoạch, chương trình và đề án phát triển nhân lực của ngành, địa phương và
đơn vị, tổ chức thực hiện cụ thể hóa Chiến lược vào các kế hoạch 5 năm và hàng
năm của ngành, địa phương và tổ chức với các mục tiêu và giải pháp bám sát nội
dung của Chiến lược này.
2. Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
-

Hoàn thiện bộ máy quản lý nhân lực các cấp

Phát triển nhân lực phải dựa trên nhu cầu nhân lực của các ngành, các địa
phương. Do đó, phải tiến hành quy hoạch phát triển nhân lực của các ngành và
20


các địa phương thời kỳ 2011-2020, tạo cơ sở để đảm bảo cân đối nhân lực cho
phát triển kinh tế - xã hội các địa phương và đất nước.
- Đổi mới phương pháp quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động phát
triển nguồn nhân lực
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục và đào
tạo theo hướng: hoàn chỉnh các quy định quản lý nhà nước về điều kiện thành lập
và chuẩn mực chung về hoạt động của các cơ sở giáo dục, về đánh giá chất lượng

của các cơ sở giáo dục, về nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục
của Chính phủ, các Bộ và Ủy ban nhân dân các địa phương, xây dựng chính sách
phát triển giáo dục và đào tạo ở các vùng khó khăn, cho con em người dân tộc,
khuyến khích phát triển nhân tài…Đẩy mạnh phân cấp, thực hiện quyền tự chủ,
nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nhân lực trên cơ sở quản lý
của nhà nước và giám sát của xã hội. Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh nhằm
chuyển mạnh hệ thống đào tạo sang hoạt động theo cơ chế đào tạo đáp ứng nhu
cầu của xã hội, tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo
- Thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài
Tăng cường, ưu tiên đào tạo nhân lực các dân tộc thiểu số và các vùng đặc
biệt khó khăn bằng các hình thức phù hợp (tiếp tục chính sách cử tuyển, lồng
ghép đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số trong Đề án đào tạo cán bộ, công
chức cấp cơ sở, đào tạo cán bộ y tế cho tuyến xã, các dự án đào tạo của Chương
trình xóa đói, giảm nghèo, khuyến nông, khuyến lâm …); mở rộng đào tạo nghề
cho các đối tượng chính sách, người nghèo, cận nghèo và quan tâm đào tạo nghề
phù hợp cho những người tàn tật.
3. Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
-

Phân bổ ngân sách hợp lý cho hoạt động phát triển nhân lực

Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia.
Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà
nước theo hướng tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án
đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát
triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa, cho các đối tượng là người dân tộc thiểu
số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng
ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho các đơn vị cung ứng

sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm công bằng giữa các cơ
sở công lập và ngoài công lập.
- Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động nguồn vốn cho phát triển
nhân lực
Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân
đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư
xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể tha o, góp vốn,
hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế,
21


chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát
triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng…
-

Tạo cơ chế thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho
phát triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ
trợ phát triển nhân lực (ODA), thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho
phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh
viện, trung tâm thể thao…)
4. Đổi mới giáo dục và đào tạo
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt
Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Trước mắt,
chúng ta cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập
Thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây
dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng lưới giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống

giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy
hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng, miền và địa phương.
-

Đổi mới chương trình đào tạo

Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào
tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo,
tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng
người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học,
cấp học, giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các
phương thức đào tạo. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động
tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng
lực người học.
- Đổi mới phương pháp dạy và học
Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách
mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào
tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định,
đánh giá theo kết quả đầu ra của giáo dục và đào tạo.
- Đổi mới chính sách quản lý giáo dục
Cải tiến các chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nâng cao
chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào
tạo. Đặc biệt chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách
đối với các trường sư phạm trên phạm vi cả nước.

22


5. Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

-

Thường xuyên cập nhật thông tin về hệ thống phát triển nguồn nhân lực

Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không
trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký
kết, cam kết thực hiện.
- Xây dựng các chương trình giáo dục, đào tạo theo xu hướng hội nhập
quốc tế
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây
dựng nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định
hướng phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam, tăng cường quan hệ liên
thông chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt
Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn nhau chương trình đào tạo giữa các cơ
sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới; thỏa thuận về việc công
nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước.
-

Tham gia các chương trình trao đổi, liên kết giáo dục giữa các quốc gia

Nhà nước tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên trong nước tham gia các
chương trình trao đổi, liên kết giáo dục giữa các quốc gia để tạo cơ hội cho du
học sinh được tiếp cận nền giáo dục mới, phát triển bản thân, từ đó với mục tiêu
gia tăng chất lượng nguồn nhân lực nước nhà. Ngoài ra, nhà nước cũng nên tích
cực tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo, đánh giá và quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi giáo dục và đào tạo đại học, sau
đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo
dục đại học Việt Nam và Thế giới.
-


Thực hiện tích cực các cam kết về lao động đã kí kết với quốc tế

Nếu Việt Nam chủ động phê chuẩn các công ước cơ bản, các cam kết về lao
động với quốc tế thì người lao động sẽ hài lòng hơn về chế độ ưu đãi, cơ chế bảo
hiểm, thể hiện sự tạo điều kiện của Nhà nước luôn đứng ra bảo vệ lợi ích người
lao động. Trong năm vừa qua, Việt Nam đã chủ động kí kết rất nhiều công ước,
cam kết về lao động với các tổ chức quốc tế như Tổ chức Lao động quốc tế ILO
hay TPP, thể hiện sự mong muốn phát triển nguồn nhân lực theo hướng đúng đắn
nhất, từ đó tăng trưởng kinh tế nhanh chóng mà bền vững.
- Chủ động học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia có hệ thống quản lý nhân
lực tốt
Bên cạnh việc thu hút đầu tư nước ngoài để xây dựng các trường học đạt
chuẩn quốc tế, Nhà nước cũng luôn nỗ lực thu hút các trường đại học, dạy nghề
có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động, tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước
ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại
học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục Đại học tại Việt
Nam. Các chương trình đào tạo cũng được xây dựng theo chuẩn quốc tế, các giáo
viên cũng được làm việc, liên kết với một số chương trình giáo dục quốc tế để
mở mang, tiếp cận nền giáo dục quốc tế hiện đại.
23


KẾT LUẬN
Bài tiểu luận xin được kết thúc tại đây, với hy vọng sẽ đem lại một cái
nhìn rõ nét hơn về phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình hội nhập quốc tế ,
một vấn đề vô cùng bức thiết và quan trọng đối với sự phát triển của nước ta,
cũng như đưa ra một số giải pháp khả dụng trong việc từng bước nâng cao, cải
tiến nguồn nhân lực trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thế

giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong
xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực ngày càng thể
hiện vai trò thiết yếu bậc nhất, vì vậy nếu Việt Nam có những giải pháp phát
triển nguồn nhân lực kịp thời, đúng đắn thì nguồn nhân lực sẽ trở thành nền
tảng phát triển bền vững cho nền kinh tế và là nhân tố quyết định thúc đẩy
mạnh mẽ lợi thế cạnh tranh quốc gia. Một lần nữa, bài viết không thể tránh khỏi
nhiều sai sót do sự hạn chế về nhận thức và hiểu biết của người viết, nhóm em
xin chân thành mong cô, các bạn đọc và đóng góp ý kiến để bài tiểu luận về vấn
đề này được hoàn thiện hơn.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài viết “Hội nhập kinh tế quốc tế - Những tác động tới lao động Việt
Nam”
/>2. Bài viết “Vì sao phải phát triển nguồn lực con người trong quá trình
CNH-HĐH đất nước?”
/>3. Bài viết “Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
/>
25


×