Tải bản đầy đủ (.doc) (258 trang)

Tài liệu Tâm lý học quân sự dành cho học viên QS đào tạo chuyên ngành Tâm lý học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.22 KB, 258 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Phát huy nhân tố con người là một trong những quan điểm cơ bản, xuyên
suốt của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Cơ sở khoa học để xây dựng và phát huy nhân tố con người do
nhiều khoa học cung cấp, trong đó có khoa học tâm lý. Trong chương trình
đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội, tâm lý học quân sự là môn khoa
học cơ sở chuyên ngành trực tiếp của hoạt động công tác đảng, công tác chính
trị.
Giáo trình là công trình khoa học tập thể của nhiều tác giả thuộc khoa
Tâm lý học quân sự - Trường Sĩ quan Chính trị biên soạn, do Đại tá, Tiến sĩ
Cao Xuân Trung làm chủ biên. Nội dung của giáo trình được kết cấu thành 14
chương đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của tâm lý học quân sự gồm:
những vấn đề chung, tâm lý học nhân cách quân nhân, tâm lý học tập thể quân
nhân và tâm lý học hoạt động quân sự nhằm cung cấp cho người học những
cơ sở khoa học để đi sâu nghiên cứu tìm hiểu đời sống tâm lý của quân nhân
và tập thể quân nhân trong môi trường hoạt động quân sự để nâng cao hiệu
quả giáo dục, huấn luyện, phát huy nhân tố con người đáp ứng yêu cầu xây
dựng quân đội trong tình hình mới.
Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, các tác giả đã kế thừa kết quả
nghiên cứu của các giáo trình Tâm lý học quân sự trước, tiếp thu, bổ sung
những thành tựu mới của khoa học tâm lý học và tâm lý học quân sự nhằm
đáp ứng yêu cầu dạy và học môn tâm lý học quân sự cho đối tượng đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội. Tuy đã có nhiều cố gắng, song khó tránh khỏi
những hạn chế nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến, phê bình của các
nhà khoa học, đồng nghiệp và đông đảo bạn đọc trong và ngoài quân đội để
giáo trình hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ


2


Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CỦA TÂM LÝ HỌC QUÂN SỰ
1.1. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của tâm lý học và tâm lý
học quân sự
1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của tâm lý học
Năm 1879 Tâm lý học mới thực sự trở thành một khoa học độc lập nhưng
từ nền văn minh Cổ đại đã có những lý giải về đời sống tinh thần của con
người. Quá trình hình thành, phát triển của khoa học tâm lý có thể chia thành
các giai đoạn sau:
- Những tư tưởng tâm lý học thời kì cổ đại - trung đại: thời kỳ này, sự
phát triển các tư tưởng tâm lý học nằm trong lòng triết học và gắn liền với
những công trình nghiên cứu của các nhà triết học ở phương Đông và phương
Tây. Ở phương Đông, các tư tưởng tâm lý học gắn với các công trình của
Khổng Tử (551 - 479 TCN), Mặc Gia (479 - 381 TCN), Lão Tử…ở Trung
Quốc và các trường phái như: Vedanta, Yoga, Sămkhia, Mimansa; NiayaVaisêsika, Phật giáo, đạo Jaina ... ở Ấn Độ. Ở phương Tây gắn với các công
trình của các nhà triết học trước công nguyên như: Xôcơrat (469 - 399);
Hêracơrit (530 - 470); Đêmôcrit (460 - 370); Hypôcơrat (460 - 356); Platôn
(437 - 347); Arixtôt (384 - 322)... Nhưng do những hạn chế về của trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và khoa học thời kỳ này nên các nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở việc phát hiện ra một hiện tượng khác biệt với các hiện tượng vật
chất và được gọi bằng cái tên chung là “tâm hồn”, đồng thời tìm hiểu các hiện
tượng “tâm hồn” định khu ở đâu? Nguồn gốc và các yếu tố tạo nên tâm hồn là
gì? So với các hiện tượng của thế giới vật chất, cái nào có trước cái nào có
sau? Thực chất, ở thời kỳ này, đối tượng của tâm lý học chưa được xác định.
Và cũng như triết học, những tư tưởng tâm lý học thời kỳ cổ đại – trung đại
luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy tâm; giữa vô thần và tôn giáo;
giữa quan điểm mang tính nhất nguyên với tính chất đa nguyên.
- Tư tưởng tâm lý học thời kỳ phục hưng và cận đại. Từ thế kỷ XIV XV, ở Tây Âu chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc



3
bắt đầu tan rã, những mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện
và nền văn hóa Phục hưng phát triển rực rỡ. Tiếp theo đó là các cuộc cách
mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, Anh, Pháp mở ra thời kỳ quá độ từ chế độ phong
kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa gắn với nhu cầu phát triển khoa học kỹ thuật. Với những phát
hiện vĩ đại của Nicôlai Côpecnich (1473- 1543) Brunô (1548 - 1600); G.
Galilê (1564- 1642) đã khẳng định trái đất quay quanh mặt trời là một đòn
giáng mạnh vào thần học và thế giới quan tôn giáo. Đồng thời lúc này giai cấp
tư sản là giai cấp đang lên, đã bênh vực các quan điểm duy vật và chống lại
chủ nghĩa duy tâm. Những tiền đề trên đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của
triết học, tâm lý học trong thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Trong thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX các tư tưởng tâm lý học nổi
bật gắn với tên tuổi của các nhà tư tưởng lớn như: R. Descartes (1596 - 1650,
người Pháp), B. Spinoza (1632 -1677, người Hà Lan); H. Thomas (1588-1679
người Anh); John Locke (1632- 1704, người Anh) đã đi sâu nghiên cứu bản
chất, nguồn gốc, nguyên nhân các hiện tượng tâm lý; các quá trình nhận cảm,
liên tưởng; lực lượng thúc đẩy hành vi… Trong thời kì này, khái niệm ý thức
được dùng thay cho khái niệm “tâm hồn”. Nhờ áp dụng các phương pháp
khác nhau mà các hiện tượng tâm lý phức tạp của con người từng bước bị
khám phá và xác định được nguyên nhân nảy sinh, sự vận hành biến đổi của
chúng. Năm 1732 nhà triết học duy tâm người Đức đã chia nhân chủng học
(khoa học về con người) làm 2 loại khoa học là: khoa học về cơ thể
(Stomatologie) và khoa học về tâm lý (Psychologie). Trong tâm lý học, Ông
lại chia làm 2 loại: tâm lý học kinh nghiệm chủ nghĩa (Psychologie
empirique) và tâm lý học lý trí (Psychologie rationnele) và thuật ngữ tâm lý
học lần đầu tiên xuất hiện – Tâm lý học có tên gọi riêng.
- Sự phát triển của tâm lý học hiện đại. Sang nửa đầu thế kỷ XIX, kinh tế
của các nước tư bản châu Âu đạt được những thành tựu đáng kể. Những phát

kiến trong các lĩnh vực khác nhau; đặc biệt là trong sinh lý học, vật lý, hóa
học đã làm chính xác hơn cái nhìn của con người về các hiện tượng tâm lý;
kích thích các nghiên cứu về tâm lý, đồng thời đã tạo ra các thiết bị máy móc


4
bảo đảm cho việc áp dụng phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý người. Những thực nghiệm tâm sinh học các giác quan của các
nhà sinh lý học người Đức Hecman Helmholtz (1821 - 1894) và nhà nghiên
cứu tâm sinh lý người Pháp Dubois Reymond; những nghiên cứu về tâm vật
lý học của G. Fechner (1801 - 1887) và E.Weber (1795 - 1887) người Đức;
những nghiên cứu về thời gian phản ứng của F.K.Đonders (1818 - 1889)
người Hà Lan đã khẳng định sự tồn tại khách quan, có thật của các hiện tượng
tâm lý và hoàn toàn có thể dùng phương pháp khách quan để nghiên cứu, phát
hiện. Những kết quả nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng đưa tâm lý học
trở thành một khoa học độc lập.
Cùng với những thành tựu trên, năm 1879, W. Wundt (1832 - 1920), nhà
tâm lý học người Đức đã tổ chức ra phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế
giới tại thành phố Laixich và công bố cương lĩnh mới về xây dựng tâm lý học thực
nghiệm và tâm lý học xã hội. Sự kiện này đã góp phần quyết định làm thỏa mãn
các điều kiện cần thiết cho sự ra đời của khoa học tâm lý học. Vì vậy, năm 1879
được coi là mốc đánh đánh dấu sự ra đời của tâm lý học với tư cách là một khoa
học độc lập. Tuy nhiên, nền tâm lý học do W. Wundt chủ trương là tâm lý học duy
tâm, coi tâm lý, ý thức là tính thứ nhất còn thực tại là tính thứ hai và phương pháp
nghiên cứu đời sống tâm lý, ý thức là tự mình trải nghiệm để thấu hiểu. Vì vậy,
nền tâm lý học của W. Wundt còn được gọi là nền tâm lý học duy tâm nội quan.
Với những hạn chế trên, bước vào những năm cuối thế kỷ XIX nền tâm lý học do
W. Wundt khởi xướng đã rơi vào bế tắc.
Để khắc phục sự bế tắc của tâm lý học do W. Wundt khởi xướng, đầu thế
kỷ XX các dòng phái tâm lý học khách quan ra đời đó là: Tâm lý học hành vi,

Tâm lý học Gestal, Phân tâm học, Tâm lý học tinh thần và tiếp sau còn có
những dòng phái tâm lý học khác có vai trò nhất định trong sự phát triển tâm lý
học hiện đại như: Tâm lý học nhân văn, Tâm lý học nhận thức. Đặc trưng nổi
bật của các xu hướng này là nghiên cứu thế giới tâm lý con người trong các
mối quan hệ thực giữa tâm lý và môi trường; tâm lý và cơ thể; tâm lý và não
bộ. Chính vì vậy, các dòng phái trên đã đạt được nhiều kết quả, phát hiện được
nhiều sự kiện khoa học có giá trị góp phần đưa tâm lý học lên một trình độ mới


5
và tạo ra phương pháp nghiên cứu tâm lý một cách khách quan. Tuy nhiên, do
những hạn chế lịch sử, các trường phái tâm lý học khách quan đều tìm cách
loại trừ ý thức ra ngoài tâm lý học, biến cái bản năng và hành vi thành đối
tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý. Vì vậy, các dòng phái tâm lý học khách
quan đã không đạt tới mục đích mong muốn, chưa xây dựng được một nền tâm
lý học khách quan thực sự và dẫn đến cuộc khủng khoảng lần thứ hai trong tâm
lý học tư sản hiện đại.
Sau cách mạng tháng Mười Nga (1917), các nhà tâm lý học Xô Viết đã dựa
trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử . Đặc biệt là dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác về hoạt động của con người; quan niệm lịch sử về con người và ý thức
con người để xây dựng Tâm lý học hoạt động (Tâm lý học Mác xít) và đem lại
bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển của khoa học tâm lý.
Hiện nay tâm lý học đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều hướng nghiên
cứu khác nhau cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Các lĩnh vực
nghiên cứu trong tâm lý học cũng được mở rộng hơn và phương pháp nghiên cứu
ngày càng hoàn thiện làm cho tâm lý học ngày càng có vai trò to lớn hơn trong hệ
thống các khoa học hiện đại. Tính đến nay tâm lý học đã có trên 50 ngành khác
nhau như: tâm lý học đại cương, tâm lý học sư phạm; tâm lý học lứa tuổi, tâm lý
học lao động, tâm lý học điều khiển và quản lý; tâm lý học kỹ sư, tâm lý học hàng

không, tâm lý học lứa tuổi, tâm lý học thể dục thể thao, tâm lý học quân sự, tâm lý
học người tiêu dùng... Tâm lý học đã thực sự thâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt
động xã hội.
Sự phát triển mạnh mẽ của tâm lý học bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc
sống và thực tiễn xã hội quy định. Bởi sự tiến bộ mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật, sự biến đổi xã hội làm xuất hiện những quan hệ mới, ngành nghề mới
mà con người là chủ thể trong các lĩnh vực hoạt động đó. Vì vậy, nghiên cứu
tâm lý và hiểu biết tâm lý con người ngày càng có vai trò rất quan trọng trong
mọi mặt đời sống xã hội.
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của Tâm lý học quân sự


6
Quá trình hình thành, phát triển tâm lý học quân sự gắn với điều kiện xã
hội - lịch sử nói chung, lịch sử chiến tranh và nghệ thuật quân sự nói riêng; kế
thừa, phát triển các tư tưởng và thành tựu của khoa học tâm lý. Tư tưởng tâm
lý học quân sự qua các thời đại được hình thành và phát triển qua ba giai
đoạn: những quan sát cá nhân, những mô tả cảm tính thể hiện kinh nghiệm
của người chỉ huy và các tướng lĩnh trong quân đội; khái quát các kinh
nghiệm thực tiễn thành lý luận; hệ thống hóa thành tâm lý học quân sự.
Trong thời kỳ cổ đại, những tư tưởng tâm lý quân sự nổi bật được thể
hiện qua việc đúc rút kinh nghiệm chiến đấu của các nhà quân sự tài ba như:
Tôn Tử (Trung Quốc); Cơxenôphon (Hy Lạp); Phơrôntin, Viegheki (La Mã)
và một số nhà tư tưởng nổi tiếng thời kì này như: Aritxtôt, Platôn. Trong thời
kỳ phong kiến, tư tưởng tâm lý quân sự được thể hiện trong quan điểm về
phát huy sức mạnh tinh thần; sử dụng con người, tuyển chọn binh lính của các
tướng lĩnh, thủ lĩnh quân sự nổi tiếng như: Cliver Crom Well (1599- 1658);
Friedrich Đại đế (1712-1786); Thành Cát Tư Hãn (1155-1257); Trần Quốc
Tuấn (1226-1300); Nguyễn Trãi (1380 -1442). Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất; khoa học kỹ thuật và

nhu cầu mở rộng thị trường, tìm kiếm những miền đất mới đã đặt ra yêu cầu
phải tăng cường xây dựng các đội quân viễn chinh hùng mạnh để thực hiện
mục tiêu xâm lược và bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Để đáp ứng yêu
cầu khách quan của quá trình tổ chức, huấn luyện, chuẩn bị tinh thần, tâm lý
cho quân đội, tâm lý học quân sự tư sản ra đời và trở thành khoa học vào
những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Tâm lý học quân sự tư sản dựa trên những cơ sở phương pháp luận, cơ
sở lý luận quân sự và cơ sở khoa học tâm lý của giai cấp tư sản. Mục tiêu của
tâm lý học quân sự tư sản là phục vụ xây dựng quân đội và tiến hành chiến
tranh. Trong đó tập trung vào các lĩnh vực cơ bản như: xây dựng các quan
điểm về nhân tố chính trị, tinh thần của binh lính và quân đội; tham gia vào
quá trình tuyển chọn và đào tạo sỹ quan và binh lính; phục vụ cho quản lý và
lãnh đạo quân đội; chuẩn bị tâm lý cho người lính; tư vấn cho việc chế tạo, sử
dụng vũ khí, trang bị quân sự.


7
Sau cách mạng tháng Mười Nga, với sự ra đời của các lực lượng vũ
trang cách mạng đã đặt ra yêu cầu khách quan phải huấn luyện chuẩn bị mọi
mặt để bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân vừa giành được. Đặc biệt,
do nhu cầu chuẩn bị mọi mặt cho quân đội sẵn sàng đánh trả cuộc tấn công
của chủ nghĩa phát xít, năm 1941 Bộ quốc phòng Liên Xô đã xác định sự cần
thiết phải phát triển tâm lý học quân sự để xây dựng những cơ sở tâm lý cho
việc huấn luyện chiến đấu, xây dựng quân đội. Từ đó tâm lý học quân sự Xô
Viết trở thành một khoa học độc lập. Đó là nền tâm lý học quân sự hình thành
phát triển trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin hay còn gọi là tâm lý học quân sự Mác xít.
Tâm lý học quân sự Việt Nam ngày nay ra đời trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc những thành tựu của nền tâm lý học quân sự Xô Viết và kế thừa, phát huy
các tư tưởng tâm lý học quân sự Việt Nam suốt mấy nghìn năm dựng nước và

giữ nước. Đó là nền tâm lý học dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu nghiên cứu tâm lý quân nhân, tập thể quân nhân
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động quân sự, hiện nay, tâm lý học
quân sự Việt Nam đã hình thành nhiều hướng nghiên cứu khác nhau như: Tâm
lý học Không quân, Tâm lý học Hải quân; Tâm lý học bộ đội Tăng thiết giáp;
Tâm lý học Y học quân sự, Tâm lý học Kỹ thuật quân sự, Tâm lý học Sư
phạm quân sự…
1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học và tâm lý học quân sự
1.2.1. Đối tượng của tâm lý học
Thuật ngữ Tâm lý học trong tiếng La Tinh, được diễn đạt bằng cụm từ
“Psychologie”. Trong đó, “Psyche” có nghĩa là tâm hồn, tinh thần và “Logos”
là học thuyết, khoa học. Vì thế, “tâm lý học” là khoa học về tâm hồn. Theo
cách hiểu hiện nay: Tâm lý học là khoa học về đời sống tâm lý con người.
Đối tượng của tâm lý học là các hiện tượng tâm lý với tư cách là một
hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh


8
ra gọi chung là các hoạt động tâm lý. Nói một cách đầy đủ tâm lý học nghiên
cứu các hiện tượng tâm lý (cả số lượng, chất lượng), bản chất, quy luật và cơ
chế hình thành, biểu hiện của các hoạt động tâm lý của con người và các
nhóm người, trên cơ sở đó đưa ra những chỉ dẫn hiệu quả cho việc hình thành,
phát triển tâm lý, sử dụng tâm lý phục vụ nhu cầu xã hội
Tâm lý là gì? Bản chất các hiện tượng tâm lý như thế nào? Trong lịch sử
phát triển của tâm lý học có nhiều cách trả lời khác nhau.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm (cả khách quan và chủ quan) quan
niệm tâm lý là thế giới tinh thần đóng kín, tự sinh ra và tồn tại không phụ

thuộc vào thế giới khách quan và não con người. Bản chất của các hiện tượng
tâm lý con người là cái vốn có hoặc do thần linh, thượng đế tạo thành.
Những người theo chủ nghĩa duy vật máy móc thừa nhận tâm lý là sự
phản ánh của vật chất nhưng là sự phản ánh một cách máy móc kiểu soi
gương, chụp ảnh, thụ động trước các tác động của môi trường, hoàn cảnh.
Bản chất các hiện tượng tâm lý là sự sao lại, chép lại các tác động của hiện
thực khách quan tác động vào não con người.
Phân tâm học do S. Freud (1856- 1939) người Áo sáng lập, quan niệm
tất cả các hiện tượng tâm hồn con người về bản chất là vô thức. Các bản năng
vô thức là nguyên nhân sâu xa, làm thành động lực của thế giới tinh thần con
người. Trong đó đam mê tình dục giữ vai trò quan trọng nhất, là cội nguồn
của mọi hiện tượng tinh thần và là nguyên nhân của mọi bệnh tinh thần cũng
như là khả năng lao động sáng tạo của con người.
Tâm lý học hành vi do J. Watson (1878 - 1958) người Mỹ sáng lập chủ
trương xây dựng một nền tâm lý học không quan tâm đến việc mô tả, giảng
giải các trạng thái ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi con người và quan
niệm đối tượng của tâm lý học là hành vi. Nhiệm vụ của nhà tâm lý học là
nghiên cứu tìm ra các kích thích để tạo nên hành vi thích hợp ở con người
theo mong muốn. Với công thức nổi tiếng S->R (Kích thích -> Phản ứng)
J.Watson đã tuyệt đối hóa vai trò các kích thích bên ngoài, phủ nhận ý thức,
phủ nhận yếu tố xã hội trong tâm lý con người.


9
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử các nhà tâm lý học Mác xít quan
niệm: Tâm lý là toàn bộ những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc
con người do phản ánh hiện thực khách quan, gắn liền và điều hành mọi
hành vi, hoạt động của con người.
Bản chất các hiện tượng tâm lý người được tâm lý học Mác xít quan

niệm, tâm lý người mang bản chất xã hội - lịch sử và được thể hiện trong một
thể thống nhất gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Tâm lý là thuộc tính phản ánh của một loại vật chất được tổ chức đặc
biệt và phát triển đến một trình độ nhất định. Tâm lý người là chức năng của
não người hoạt động bình thường.
- Tâm lý người là sản phẩm xã hội - lịch sử của sự tiến hóa chủng loại và
tiến hóa cá thể. Tâm lý người mang bản chất xã hội.
- Tâm lý người hình thành trong tác động qua lại với thế giới xung quanh,
trong hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội và giao tiếp với những người khác.
- Phản ánh tâm lý người là một quá trình tích cực và mang tính chủ thể.
Hiện thực khách quan quyết định tâm lý con người nhưng chính tâm lý
con người lại tác động trở lại hiện thực khách quan bằng tính năng động, sáng
tạo của nó thông qua các chức năng cơ bản sau :
Chức năng định hướng hoạt động: mọi hoạt động của con người đều bắt
nguồn từ nhu cầu, động cơ, mục đích hoạt động. Không có nhu cầu, động cơ,
mục đích định hướng sẽ không có hoạt động của con người.
Chức năng thúc đẩy: tâm lý là động lực thôi thúc con người hoạt động,
khắc phục khó khăn vươn tới mục đích đã định.
- Chức năng điều khiển, kiểm tra, điều chỉnh quá trình hoạt động: thông
qua việc xác lập chương trình, kế hoạch, phương thức tiến hành hoạt động,
tâm lý con người tiến hành điều khiển, kiểm tra, điều chỉnh họat động làm cho
hoạt động trở nên có ý thức, đem lại hiệu quả.
Với các chức năng trên, tâm lý giúp con người không chỉ thích ứng với
hoàn cảnh khách quan mà còn nhận thức, cải tạo thế giới khách quan và cải
tạo bản thân mình.


10
Tâm lý con người rất đa dạng, phong phú với nhiều sự kiện, hiện tượng
khác nhau. Vì vậy, tùy theo góc độ nghiên cứu và cơ sở xác định mà có nhiều

cách phân loại các hiện tượng tâm lý khác nhau.
Theo trình độ phản ánh, tâm lý được chia thành hai loại là: các hiện
tượng tâm lý có ý thức và các hiện tượng tâm lý chưa được ý thức. Các hiện
tượng tâm lý có ý thức là những hiện tượng diễn ra được con người nhận biết,
hay tự giác. Còn những hiện tượng tâm lý chưa được ý thức là những hiện tượng
diễn ra nhưng người ta không ý thức được về nó hoặc chưa kịp ý thức về nó.
Theo hình thức tồn tại, và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách,
các hiện tượng tâm lý được chia ra thành : các quá trình tâm lý, các trạng thái
tâm lý và các cấu thành tâm lý.
- Các quá trình tâm lý, là những hiện tượng tâm lý có khởi đầu, diễn biến,
kết thúc trong một thời gian nhất định. Đây là những hiện tượng tâm lý đơn giản
nhất tham gia trực tiếp vào các hoạt động tâm lý khác của con người, là cơ sở cho
những diễn biến tâm lý đa dạng, phức tạp.
Các quá trình tâm lý chủ yếu gồm: quá trình nhận thức (cảm giác, tri giác, trí
nhớ, tưởng tượng, tư duy...); quá trình cảm xúc tình cảm (vui mừng hay tức giận,
lạc quan, bi quan...) ; quá trình ý chí và hành động ý chí.
- Các trạng thái tâm lý, là những trải nghiệm tâm lý của chủ thể diễn ra
trong thời gian ngắn hoặc tương đối ngắn, đặc trưng cho xu hướng, tính tích cực
và tính cân bằng của hoạt động tâm lý ở thời điểm đó như: chú ý, tâm trạng...
Trạng thái tâm lý tạo thành cái nền chung cho sự diễn biến của các quá trình tâm
lý và sự biểu hiện của các cấu thành tâm lý.
- Các cấu thành tâm lý là những định hình tâm lý hình thành từ các quá
trình và trạng thái tâm lý, khó hình thành, khó mất đi, tạo nên những nét riêng
trong bộ mặt tâm lý của nhân cách. Các cấu thành tâm lý bao gồm: Các cấu thành
tâm lý giản đơn, đó là kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen liên quan đến hoạt
động nghề nghiệp của con người và các cấu thành tâm lý phức tạp (các thuộc tính
tâm lý) gồm: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực. Đây là những phẩm chất
tâm lý ổn định, bền vững nhất, đóng vai trò điều chỉnh thường xuyên và cao nhất
mọi hành vi, hoạt động của con người và tạo nên giá trị xã hội của cá nhân.



11
Xét theo nội dung phản ánh, các hiện tượng tâm lý được chia thành:
động cơ, nhận thức, cảm xúc – tình cảm, ý chí và tâm lý vận động.
- Động cơ : là hiện tượng tâm lý mang ý nghĩa thúc đẩy hành vi, hoạt
động của con người gắn liền với việc thoả mãn những nhu cầu nào đó.
- Nhận thức: là hiện tượng tâm lý giúp con người hiểu biết các sự vật,
hiện tượng của thế giới xung quanh, các mối liên hệ và quy luật của chúng.
- Cảm xúc- tình cảm: là hiện tượng tâm lý thể hiện thái độ của con
người đối với sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
- Ý chí: là hiện tượng tâm lý giúp con người kiểm soát một cách có ý
thức các hành vi và hoạt động của mình ; huy động nỗ lực vượt qua khó khăn,
thử thách thực hiện mục đích đặt ra, hoặc từ chối một đòi hỏi nào đó.
- Tâm lý vận động: là hiện tượng tâm lý được phát triển cùng với sự phát
triển của vận động. Vận động của con người càng phát triển hoàn thiện thì
tâm lý càng hoàn thiện, phát triển.
Theo chủ thể phản ánh, người ta chia thành tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội.
- Tâm lý cá nhân: là toàn bộ những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong một cá
thể người bao gồm: các quá trình, các trạng thái, các thuộc tính tâm lý nhân cách...
- Tâm lý xã hội: là những hiện tượng tâm lý chung của xã hội (cộng
đồng, nhóm người, tập thể) như: thi đua, bắt chước, tự khẳng định, dư luận,
tâm trạng, uy tín, truyền thống, phong tục, tập quán…
1.2.2. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học quân sự
Tâm lý học quân sự là một ngành của khoa học tâm lý, nghiên cứu các
quy luật hình thành và hoạt động tâm lý của quân nhân và tập thể quân nhân
thuộc các lực lượng vũ trang trong điều kiện hoạt động quân sự nói chung,
đặc biệt là trong chiến đấu, nhằm bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Đối tượng của tâm lý học quân sự là tâm lý quân nhân và tập thể quân
nhân trong điều kiện hoạt động quân sự nhằm tìm ra bản chất, quy luật, cơ

chế hình thành, phát triển của chúng.


12
Tâm lý quân nhân, là thế giới chủ quan, thế giới tinh thần của quân
nhân, gồm các tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, ý định, động cơ và các phẩm chất
nhân cách... đang điều khiển, định hướng hành vi và hoạt động của quân nhân.
Tâm lý tập thể quân nhân, là đời sống tinh thần của tập thể, gồm xu
hướng, chính kiến, dư luận, tâm trạng... của tập thể, nói lên mức độ cộng đồng
của các quân nhân và được biểu hiện tập trung ở bầu không khí tâm lý xã hội
của tập thể.
Các nhiệm vụ chủ yếu của tâm lý học quân sự gồm:
- Nghiên cứu đặc trưng tâm lý của các lĩnh vực khác nhau của hoạt động
quân sự, ảnh hưởng của điều kiện hoạt động quân sự đến tâm lý của quân
nhân và tập thể quân nhân.
- Nghiên cứu đặc trưng nhân cách hạ sĩ quan, chiến sĩ, chỉ ra con đường
hoàn thiện phát triển nhân cách quân nhân.
- Nghiên cứu đặc trưng nhân cách của người sĩ quan, vấn đề hoàn thiện
phát triển phong cách lãnh đạo, chỉ huy.
- Nghiên cứu những cơ sở tâm lý của hoạt động lãnh đạo, chỉ huy, quản lý,
giáo dục bộ đội nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động này, góp phần xây
dựng quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
- Nghiên cứu quan hệ tâm lý: con người – kỹ thuật quân sự.
- Nghiên cứu các vấn đề tâm lý học xã hội, tâm lý học tập thể và việc xây
dựng các tập thể quân nhân vững mạnh toàn diện.
- Nghiên cứu các vấn đề tâm lý học trong các nhà trường quân sự (tâm lý
học sư phạm quân sự).
- Tiến hành đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, chống lại có hiệu quả các
luận điệu chiến tranh tâm lý của địch.
Tâm lý học quân sự vừa là khoa học lý thuyết, vừa là khoa học ứng dụng

thực hành. Nhờ cung cấp những cơ sở lý luận, thực tiễn nghiên cứu đời sống
tâm lý con người nói chung, quân nhân nói riêng trong các lĩnh vực hoạt động
quân sự nên tâm lý học quân sự có vai trò quan trọng lớn đối với hoạt động lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý, giáo dục bộ đội và sự nghiệp xây dựng quân đội.


13
- Cung cấp cho cán bộ lãnh đạo, chỉ huy hiểu biết về thế giới nội tâm của
quân nhân để từ đó có thái độ, phương pháp, tác phong nghiêm túc, khoa học
khi tiếp xúc và làm việc với con người.
- Giúp lãnh đạo, chỉ huy các cấp hiểu biết sâu sắc đời sống tâm lý các
tập thể quân nhân, biết đánh giá, phân tích đúng các hiện tượng tâm lý xã hội
trong tập thể quân nhân, trên cơ sở đó tác động đúng quy luật, xây dựng các
tập thể quân nhân sạch vững mạnh toàn diện.
- Cung cấp cơ sở khoa học cho cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp nâng cao
hiệu quả các mặt hoạt động ở đơn vị.
- Cung cấp cơ sở khoa học tiến hành đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư
tưởng.
1.3. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quân sự
1.3.1. Phương pháp quan sát
Quan sát là tri giác có chủ định nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu
thông qua những biểu hiện bề ngoài của cảm xúc, tình cảm, hành vi, hành
động của quân nhân trong những hoàn cảnh sống, hoạt động khác nhau.
Thông qua quan sát, chính trị viên không chỉ thu thập được những sự kiện mà
còn vạch ra các lực thúc đẩy của chúng như ý nghĩ, tình cảm, động cơ, thái
độ, tâm thế và các hiện tượng tâm lý khác không thể trực tiếp tri giác được.
Phương pháp quan sát được sử dụng rất rộng rãi vì nó có ưu điểm là dễ tiến
hành, các số liệu thu được mang tính khách quan, chân thực, cụ thể, chi tiết. Tuy
nhiên, nhược điểm của phương pháp này là ít nhiều thụ động, kéo dài, khó đáp
ứng được những yêu cầu thu thập những số liệu chính xác để xử lý bằng toán học.

Để nâng cao hiệu quả phương pháp quan sát, người nghiên cứu phải: xác
định mục đích rõ ràng; có chương trình, kế hoạch quan sát chi tiết, cụ thể cả
về nội dung, thời gian, địa điểm, điều kiện phương tiện quan sát; có kĩ năng
quan sát; kỹ năng phân tích, so sánh, hệ thống hóa kết quả quan sát để rút ra
các đặc điểm tâm lý và đối chiếu với kết quả thu được từ các phương pháp
khác để rút ra kết luận; am hiểu những vấn đề liên quan đến hiện tượng cần
quan sát và đối tượng quan sát; quá trình quan sát phải ghi chép kết quả quan
sát đầy đủ, chi tiết; phải quan sát nhiều người, nhiều lần mới rút ra kết luận.


14
1.3.2. Phương pháp trò chuyện
Là tổ chức trao đổi, giao tiếp giữa người đi nghiên cứu và đối tượng
nghiên cứu để thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên cứu. Đây là một hình
thức đặc thù của phương pháp quan sát nhưng vì được sử dụng rộng rãi nên
được coi là một phương pháp độc lập.
Phương pháp trò chuyện có những ưu điểm rất lớn là có thể thông qua
trò chuyện để hiểu đúng nguyên nhân các biểu hiện tâm lý của đối tượng; có
thể khêu gợi để đối tượng bộc lộ những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, chính
kiến, quan điểm, niềm tin của bản thân. Đồng thời, hiểu được những khó khăn
của họ để có biện pháp động viên, giúp đỡ kịp thời. Tuy nhiên, nếu người nghiên
cứu không có phương pháp cách thức phù hợp thì khó thu được những cứ liệu
khách quan, chính xác.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp trò chuyện, nhà nghiên cứu cần
thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau: xác định rõ mục đích, yêu cầu; trước khi
trò chuyện cần tìm hiểu đặc điểm tâm lý của đối tượng; trong trò chuyện cần tạo
bầu không khí tự nhiên, chân thành, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, tránh gây ấn
tượng về một sự dò xét, soi mói; không biến cuộc trò chuyện thành một cuộc
thẩm vấn; chú ý lắng nghe, quan sát cử chỉ, dáng điệu, vẻ mặt của đối tượng
nghiên cứu; biết dẫn dắt đối tượng đi đến những câu trả lời, khách quan, chân

thực; hạn chế việc ghi chép, hoặc tỏ thái độ khó chịu, không đồng tình.
1.3.3. Phương pháp thực nghiệm.
Thực chất của phương pháp này là nhà nghiên cứu chủ động tạo ra các
tình huống trong những điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng
những biểu hiện về quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế bộc lộ
của các phẩm chất tâm lý cần nghiên cứu. Nhờ chủ động tạo ra các tình
huống, các điều kiện theo chương trình định sẵn, nhà nghiên cứu có thể lặp lại
thực nghiệm nhiều lần, trên nhiều đối tượng khác nhau để chứng minh một
kết luận, khẳng định về nguyên nhân cũng như tham gia phát hiện quy luật
nảy sinh, vận động của các hiện tượng tâm lý ở con người.
Có hai loại thực nghiệm là: thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực
nghiệm tự nhiên.


15
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, là loại thực nghiệm dựa vào máy
móc thiết bị chuyên dùng (hay không dùng máy móc) được tiến hành trong
phòng thí nghiệm. Nhà nghiên cứu dựa theo nguyên tắc mô hình hóa tâm lý
của loại hiện tượng cần nghiên cứu, chủ động tạo ra các tình huống để các
hoạt động tâm lý biểu hiện ra một phần hoặc toàn bộ. Nhờ vậy, có thể ghi
chép và đo lường chính xác những phẩm chất tâm lý bộc lộ ra trong thực
nghiệm như: độ nhạy cảm giác quan; thời gian phản ứng; khối lượng, tốc độ
di chuyển của chú ý; phẩm chất trí nhớ; hoặc toàn bộ hoạt động như: kỹ xảo,
kỹ năng hành động trên chiến trường; kỹ xảo ngắm các mục tiêu hay phân
tích mục tiêu trên màn hiện sóng.v.v.
Ưu điểm của phương pháp này là có thể tiến hành nghiên cứu tập trung
vào một biểu hiện tâm lý nào đó; có thể đo đạc khá chính xác nhờ vào hệ
thống thiết bị chuyên dụng. Nhược điểm của phương pháp này là phải tổ chức
công phu, tỉ mỷ; việc thiết kế các tình huống không thể diễn ra như trong điều
kiện sống thật; về mặt tâm lý của đối tượng thực nghiệm thường có sự biến đổi

so với bình thường ở trạng thái sẵn sàng đối phó. Vì thế, thế kết quả thu được có
thể bị giả tạo.
Thực nghiệm tự nhiên, là loại thực nghiệm mà tác động của nhà nghiên
cứu được lồng vào trong cuộc sống và hoạt động bình thường; người được
thực nghiệm có khi không biết mình là đối tượng nghiên cứu.
Ưu điểm của phương pháp này là gần với điều kiện hoạt động, chiến đấu
thật; đối tượng thực nghiệm nhiều khi không biết mình là đối tượng nghiên
cứu. Vì vậy các biểu hiện tâm lý diễn ra tự nhiên, chân thực. Đồng thời nhờ
có kỹ thuật hiện đại có thể đưa vào trong thực nghiệm tự nhiên những cách
thức đo lường chính xác như thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Nhược
điểm của của phương pháp này là, việc tạo các tình huống khó và bị chi phối
bởi nhiều các nguyên nhân khách quan không như mong muốn.
Thực hiện phương pháp này đòi hỏi người thực nghiệm phải xác định rõ
mục đích nghiên cứu, nắm vững đặc điểm môi trường, điều kiện hoạt động để
thiết kế các tác động khoa học nhằm đem lại kết quả khách quan, trung thực.
1.3.4. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi


16
Là phương pháp sử dụng các câu hỏi trong các phiếu in sẵn đặt ra cho
các đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn
đề nào đó nhằm thu được những chỉ số về: số lượng, xu hướng, chính kiến,
dư luận, nguyện vọng, động cơ, quan điểm đánh giá về sự kiện cần nghiên
cứu. Đối tượng nghiên cứu căn cứ vào các nội dung câu hỏi để trả lời bằng
cách đánh dấu vào phiếu theo một quy ước nào đó. Người được hỏi cũng có
thể ghi thêm ý kiến riêng của bản thân mình vào phiếu. Căn cứ vào ý kiến thu
được, người nghiên cứu có thể đi đến những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi có ưu điểm là thu thập được ý kiến
của một số lượng người rất lớn trong một thời gian ngắn. Nhưng hạn chế của
phương pháp này là kết quả thu được vẫn mang tính chủ quan của người trả

lời, không làm rõ được nội dung lập luận và sự khác biệt cá nhân trong các
câu trả lời. Vì vậy, kết quả điều tra cần phải được bổ sung, đối chiếu với kết
quả thu được từ các phương pháp nghiên cứu khác.
Muốn thực hiện tốt phương này, yêu cầu nhà nghiên cứu phải nắm
vững kỹ thuật lập phiếu hỏi, phân chia thang bậc đánh giá, bảo đảm tối đa
mức độ tin cậy, chính xác của các thông tin thu được cũng như mức độ
thuận tiện cho người trả lời, và tổng hợp kết của nhà nghiên cứu. Vì vậy,
khi xây dựng phiếu hỏi nhà nghiên cứu cần thực hiện tốt một số yêu cầu
cơ bản sau: câu hỏi phải rõ ràng, không được gây ra cách hiểu mập mờ
hoặc nhiều nghĩa; kết hợp được các câu hỏi thẳng với câu hỏi đường
vòng, câu hỏi kiểm tra; số lượng câu hỏi trong phiếu không nên quá nhiều
để tránh mệt mỏi cho người trả lời.
1.3.5. Phương pháp phân tích kết quả hoạt động
Là phương pháp nghiên cứu tâm lý dựa vào kết quả học tập, công tác,
hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ được giao để phân tích, rút ra kết luận.
Phương pháp này có ưu điểm lớn là các kết luận đưa ra mang tính thuyết
phục cao vì được bảo đảm bởi các bằng chứng, các sự vật, hiện tượng cụ thể,
số lượng, chất lượng rõ ràng. Tuy nhiên khi thực hiện phương pháp này, nhà
nghiên cứu cần lưu ý rằng, tâm lý con người được biểu hiện một cách gián
tiếp thông qua hoạt động, nhiều lúc thông qua kết quả khó phát hiện được


17
chiều sâu của tâm lý, tư tưởng bộ đội. Vì vậy, nếu xem xét thiếu cẩn thận, tỷ
mỉ và không phối hợp với các phương pháp khác, nhà nghiên cứu dễ bị nhầm
lẫn giữa hiện tượng với bản chất.
1.3.6. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử
Là phương pháp nghiên cứu tâm lý dựa vào các mối quan hệ xã hội, đặc
điểm nghề nghiệp, hoạt động và những nấc thang khác nhau trong tiểu sử
riêng của mỗi con người. Nhà nghiên cứu dựa vào những nội dung trên trong

tiểu sử đối tượng nghiên cứu để rút ra những kết luận có liên quan đến sự xuất
hiện các hiện tượng tâm lý cần quan tâm nghiên cứu.
Ưu điểm của phương pháp này là nhanh, kế thừa được sự đánh giá của
người khác để hệ thống hóa và rút ra những vấn đề liên quan đến nội dung
nghiên cứu một cách có cơ sở. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này
là các nhận định, đánh giá trong tiểu sử của mỗi cá nhân diễn ra trong cả một
thời gian dài và phụ thuộc vào tính khác quan, chân thực của những nhận
định, đánh giá trước đây.
Để thực hiện tốt phương pháp này đòi hỏi nhà nghiên cứu cần phải nắm
được điều kiện xã hội - lịch sử liên quan đến tiểu sử cá nhân; phải kết hợp với
các phương pháp khác để kiểm tra, xác định tính chân thực những nội dung
được trình bày, nhận xét, đánh giá trong của tiểu sử của đối tượng nghiên cứu.
1.3.7. Phương pháp khái quát các nhận định độc lập
Là phương pháp nghiên cứu tâm lý quân nhân thông qua các nhận xét,
đánh giá khác nhau của các tập thể chỉ huy, lãnh đạo, quản lý đơn vị đối với
quân nhân, từ đó rút ra những kết luận về vấn đề nghiên cứu.
Theo kinh nghiệm của nhiều nghiên cứu tâm lý học quân sự, việc khái
quát các nhận xét độc lập của từng loại cán bộ được tiến hành tập thể dưới sự
chủ trì của người chỉ huy cao nhất sẽ cho chúng ta những cứ liệu tốt nhất
trong việc nghiên cứu phẩm chất nhân cách quân nhân ở các đơn vị. Vì vậy,
khi thực hiện phương pháp này cần chú ý đầy đủ các nhận xét, đánh giá; cần
tham khảo ý kiến của người chỉ huy, người lãnh đạo đơn vị về những vấn đề
trực tiếp liên quan đến các nội dung nghiên cứu.


18
Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quân sự rất phong phú, đa
dạng. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, hạn chế nhất định. Vì vậy, để
nâng cao hiệu quả nghiên cứu cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần căn cứ
vào mục đích, nội dung nghiên cứu để xác định phương pháp nghiên cứu phù

hợp. Đồng thời phải kết hợp nhiều phương pháp để tiến hành một nội dung
nghiên cứu để kết quả thu được bảo đảm tính khách quan, chân thực. Mặt
khác phải tận dụng tốt các phương pháp nghiên cứu của giáo dục học, xã hội
học, thống kê toán học… để nâng cao hiệu quả nghiên cứu.
Câu hỏi ôn tập
1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học và tâm lý học quân sự?
2. Bản chất tâm lý người theo quan điểm tâm lý học Mác xít?
3. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quân sự và yêu cầu khi
sử dụng các phương pháp.


19
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
CỦA TÂM LÝ HỌC QUÂN SỰ
2.1. Cơ sở khoa học của tâm lý học quân sự
2.1.1. Triết học Mác- Lênin
Triết học Mác- Lênin là hệ thống triết học mang tính cách mạng, tính khoa
học sâu sắc; thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng; giải
thích đúng đắn, sáng tạo sự vận động của tự nhiên, xã hội và con người. Tâm lý
học Mác xít xây dựng dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, nhất là những luận điểm về con người; hoạt động của con
người và lý luận Mác- xít về ý thức.
* Quan điểm Mác xít về con người
Muốn hiểu được tâm lý người trước hết phải có quan niệm đúng về con
người. Trước khi triết học C. Mác ra đời, các nhà triết học, tâm lý học đều
không thấy được nguồn gốc của tâm lý chính là trong quan hệ giữa hoạt động
của con người và thực tại xung quanh, dẫn đến giải thích các hiện tượng tâm
lý hoặc là rơi vào duy tâm, hoặc rơi vào sinh vật luận. Triết học C.Mác khi
nghiên cứu con người, đã chỉ ra: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi

không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền
đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là
những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện
do hoạt động của chính họ tạo ra” 1. C. Mác còn chỉ ra: Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Như vậy, trong
quan niệm của triết học C. Mác con người là tồn tại tự nhiên, tồn tại xã hội,
tồn tại lịch sử, tồn tại lý trí (ý thức), tồn tại lao động. Vì vậy, nghiên cứu tâm
lý con người phải gắn với mỗi con người cụ thể, bằng xương, bằng thịt, sống và
hoạt động; phải giải thích tâm lý người bằng nội dung lịch sử của cả loài người
1

C.Mác và Ph. Ăngghen (1845- 1846), Hệ tư tưởng Đức, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H, 1995, tr 28.


20
từ khi hình thành, qua các hình thái kinh tế - xã hội, cũng như trong điều kiện xã
hội cụ thể mà con người đang sống và hoạt động.
Dựa vào quan điểm trên, các nhà tâm lý học Mác xít đã chỉ ra: muốn
hiểu con người và tâm lý con người phải thóat ra ngoài mối quan hệ cơ thể
với môi trường tự nhiên bảo đảm cho sự tồn tại của cơ thể; thóat ra khỏi vòng
cương tỏa của sinh vật học, tâm lý học phải chuyển sang vương quốc của
“tâm lý học lịch sử người”2. Đối với tâm lý con người, quan hệ cơ thể và môi
trường trở nên quá chật hẹp. Vấn đề cơ thể và môi trường trong tâm lý học
Mác xít trở thành vấn đề con người và xã hội, lịch sử và tâm lý, con người và
thế giới xung quanh, trong đó có thế giới do lao động của con người tạo ra, quan
hệ của người này với người khác và cuối cùng là quan hệ của con người với chính
bản thân nó. Muốn hiểu được tâm lý con người phải xuất phát từ con người xã
hội, chứ không phải từ con người cơ thể đối lập với xã hội và môi trường.
* Quan điểm Mác xít về hoạt động của con người

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Hê ghen (1977- 1831) cho rằng, con
người là sản phẩm của chính họ, tính người là sản phẩm của chính lao động
của bản thân con người, C. Mác đã xây dựng nên học thuyết duy vật biện
chứng về hoạt động của con người. Trong đó, C. Mác chỉ ra, hoạt động của
con người khác hẳn về chất với hoạt động của con vật. Hoạt động của con
người là hoạt động có đối tượng. Để tiến hành hoạt động cải tạo đối tượng
làm ra các giá trị vật chất, tinh thần đáp ứng nhu cầu bản thân và xã hội, trước
khi hoạt động con người phải dồn tất cả tri thức, kinh nghiệm, vốn sống... của
bản thân vào nhận thức đối tượng nắm bắt bản chất, quy luật của đối tượng;
hình dung ra sản phẩm và cách thức, phương pháp, phương tiện hoạt động; sử
dụng sức lực, kỹ xảo, kỹ năng lao động để tác động cải tạo đối tượng tạo ra
sản phẩm. Trong quá trình này “chủ thể di chuyển vào khách thể”. Nói cách
khác, sản xuất ra đồ vật, ra thế giới đối tượng là quá trình con người vật chất
hóa (đối tượng hóa) các suy nghĩ, tri thức, quan niệm của mình thành sản
2

L.X. Vư- gốt- xki


21
phẩm của hoạt động lao động. C.Mác chỉ rõ: “Lịch sử của công nghiệp và sự
tồn tại đối tượng hóa đã hình thành của công nghiệp là quyển sách đã mở ra
của những lực lượng bản chất của con người, là tâm lý con người bày ra trước
mắt chúng ta một cách cảm tính”. 3 Vì vậy, “tâm lý học - quyển sách ấy, nghĩa
là chính bộ phận dễ cảm thấy nhất, dế tiếp xúc nhất của lịch sử không mở ra
cho tâm lý học này - không thể trở thành khoa học thực sự có nội dung phong
phú và hiện thực”4
Mặt khác, trong quá trình lao động và thông qua lao động cải tạo đối
tượng, con người rút ra được những tri thức mới, kinh nghiệm mới, sáng tạo ra
những thao tác, quy trình công nghệ mới. Đó chính là quá trình tạo nên sự hình

thành, phát triển tâm lý, ý thức của bản thân chủ thể lên một trình độ cao hơn.
C.Mác viết: “chỉ có thông qua sự phong phú đã được phát hiện ra về mặt vật
chất của bản thân con người thì sự phong phú của tính cảm giác chủ quan của
con người mới được phát triển và một phần lần đầu tiên mới được sinh ra: lỗ tai
thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức - nói tóm lại những cảm
giác có khả năng về sự hưởng thụ có tính chất người và tự khẳng định mình
như những lực lượng bản chất của con người. Vì không những năm giác quan
bên ngoài, mà cả những cảm giác gọi là tinh thần, những cảm giác thực tiễn (ý
chí, tình yêu .v.v) – nói tóm lại, cảm giác của con người, tính nhân loại của cảm
giác- chỉ nảy sinh nhờ sự tồn tại của đối tượng tương ứng, thông qua bản tính
đã nhân loại hóa”5. C.Mác khẳng định: “Như vậy, sự đối tượng hóa bản chất
con người là tất yếu- xét về phương diện lý luận cũng như về phương diện thực
tiễn- để một mặt nhân loại hóa cảm giác của con người, và mặt khác sáng tạo ra
cảm giác của con người tương ứng với toàn bộ sự phong phú của bản chất nhân
loại và tự nhiên”.6

3

C.Mác, Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844, Nxb ST, H, 1962, tr 139
Sđd, tr 139-140
5
Sđd, tr 137
6
Sđd, tr138
4


22
Như vậy, học thuyết Mác xít về hoạt động đã dựng lại những nét cơ bản
nhất của sự vận động, phát triển của tâm lý, ý thức, tinh thần. Sự vận động ấy

chính là nhờ sự vận động của hoạt động. Muốn nghiên cứu tâm lý con người
phải lấy hoạt động làm mô hình để tìm hiểu, lý giải, và hơn thế nữa, điều
khiển, hình thành tâm lý. Nhờ đó, đã phá được vòng khép kín tự tại của ý
thức, tâm lý mà các nhà tâm lý học duy tâm, nội quan vẫn chủ trương.
Dựa trên quan điểm Mác xít về hoạt động của con người, tâm lý học
Mác xít đã rút ra nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng và phát triển tâm lý học,
đó là: tâm lý phản ánh thực tại khách quan, cuộc sống thực, hoạt động của chủ
thể. Muốn đánh giá sự phản ánh đó phải thông qua hoạt động của con người.
Hoạt động của con người là chìa khóa tìm hiểu, đánh giá, hình thành, điều
khiển tâm lý con người.
* Lý luận Mác xít về ý thức
Cùng với học thuyết con người, hoạt động của con người lý luận Mác
xít về ý thức có ý nghĩa trực tiếp đối với việc giải thích vấn đề nguồn gốc nảy
sinh của tâm lý cũng như vấn đề hình thành tâm lý. Nội dung cơ bản của lý
luận Mác xít về ý thức chỉ ra: ý thức được sản xuất ra bởi quan hệ giữa con
người với thế giới xung quanh. Tinh thần đó được C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.
Lênin trình bày sâu sắc trong các tác phẩm của mình. Theo C. Mác: “ý thức
không phải là cái gì khác hơn tồn tại được ý thức, mà tồn tại của người ta là
quá trình thực tế của đời sống người ta”. Theo V.I. Lênin, “ý thức là sự phản
ánh của tồn tại”. Người viết: “Sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào
cảm giác. Vật chất là cái có trước. Cảm giác, tư tưởng, ý thức là sản phẩm cao
nhất của vật chất được tổ chức theo một cách thức đặc biệt” 7; “Cảm giác là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”8. Những quan niệm trên đã loại
trừ thuyết bẩm sinh về ý thức, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân, cơ chế, cơ sở vật
chất tạo nên ý thức trong mỗi con người. Với ý nghĩa đó, tâm lý học Mác xít
7
8

V.I. Lênin, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, toàn tập, tập 18, Nxb, TB, M, 1978, Tr 56
Sđd Tr 118.



23
đã chỉ ra: ý thức, tâm lý là sản phẩm của lịch sử, xã hội, của lao động, giao
lưu, nó cũng là thành tố của lao động, hoạt động, giao lưu của con người. Vì
vậy, hoàn toàn có thể nghiên cứu được ý thức theo nguyên tắc thống nhất hành vi
và ý thức. Đó là điểm khác biệt của tâm lý học Mác xít với các trường phái tâm lý
học trước đó.
2.1.2. Khoa học quân sự Mác xít
Cơ sở lý luận quân sự của tâm lý học quân sự Việt Nam là học thuyết
quân sự Mác – Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối quân sự
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Học thuyết quân sự Mác - Lênin
Học thuyết quân sự Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ và hoạt động đấu
tranh cách mạng thực tiễn của giai cấp vô sản. Trong đó, vạch rõ ngồn gốc,
bản chất của chiến tranh; các loại hình, tính chất, đặc điểm và các quy luật của
chiến tranh; nguồn gốc, bản chất chức năng của quân đội và các loại hình
quân đội; các quy luật vận động và phát triển sức mạnh chiến đấu của quân
đội; sức mạnh quân sự quốc gia và phê phán các quan điểm, tư sản, cơ hội,
xét lại về chiến tranh quân đội và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt, là khẳng định vai
trò quyết định của con người, của nhân tố tinh thần; tiềm lực xã hội, tiềm lực
tinh thần trong chiến tranh. V.I. Lênin viết: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt
cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quân chúng đang đổ máu trên
chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần
phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em là yếu tố nâng
cao tinh thần của binh sỹ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn, gian
khổ chưa từng thấy”9. Điều đó, có ý nghĩa rất to lớn trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa con người và vũ khí; giữa chính trị và kỹ thuật trong lãnh đạo,
chỉ đạo chiến tranh.
Các luận điểm tư tưởng chiến lược, chiến thuật quân sự của chủ nghĩa

Mác – Lênin là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phát hiện ra các quy luật
9

V. L. Lênin toàn tập, tập 41, Nxb TB, M. 1977, tr 147.


24
của đời sống tâm lý quân nhân trong các lĩnh vực, các hình thức khác nhau
của hoạt động quân sự. Đó cũng là cơ sở chỉ ra các phương thức tiến hành
giáo dục, huấn luyện quân nhân có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu
hoạt động quân sự, đặc biệt là trong điều kiện chiến đấu.
* Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam Người trực tiếp tổ chức, xây dựng và giáo dục, rèn luyện Quân đội nhân dân
Việt Nam. Cùng với đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự của Hồ
Chí Minh là một trong những nội dung quan trọng tạo thành cơ sở lý luận
quân sự của tâm lý học quân sự Việt Nam. Các tư tưởng quân sự cơ bản của
Hồ Chí Minh gồm: nhân tố con người quyết định thành thành bại trong xây
dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội và khởi nghĩa vũ trang, đấu tranh
cách mạng; “chính trị quyết định quân sự, quân sự phục tùng chính trị”; sức
mạnh của quân đội là ở kỷ luật tự giác, nghiêm minh, có tinh thần đoàn kết
keo sơn, muôn người như một; sức mạnh đoàn kết quân dân - “quân với
dân như cá với nước”; nghệ thuật đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà đánh
bằng chính trị, đánh vào lòng người, đánh bằng tâm lý; nghệ thuật đánh giặc
bằng tài trí, mưu lược, của truyền thống đánh giặc, giữ nước của cha ông ta
như “tránh chỗ rắn, nắn chỗ mềm”, “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía
đông đánh phía tây”10 ...
Tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh đã được Đảng, quân đội quán triệt,
tổ chức thực hiện trong sự nghiệp chiến tranh giải phóng dân tộc và xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tâm lý học quân sự Việt Nam phải
dựa trên cơ sở quan điểm tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh để tìm ra những

cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng nền tâm lý quân sự Việt Nam đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh đủ sức hoàn
thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó trong mọi tình huống.
* Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam
10

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H, 1995, tr 250 - 253, 474.


25
Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự vận dụng trung
thành và phát triển sáng tạo lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác- Lênin; tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh và kế thừa, phát triển đến đỉnh cao của truyền
thống, nghệ thuật đánh giặc, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đó là đường lối
quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện với nghệ thuật
huy sức mạnh “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”; “tạo lực, lập thế, tranh
thời”, “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít dịch nhiều”, lấy đoản binh thắng trường trận,
nghệ thuật xây dựng lực lượng, nghệ thuật “tâm công”v.v. Trong đó, sức
mạnh chính trị, tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát triển
đến đỉnh cao, là cơ sở cho toàn dân, toàn quân ta lập nên những kỳ tích có
một không hai trong lịch sử.
Tâm lý học quân sự Việt Nam trong quá trình xây dựng, trưởng thành
phải nắm vững quan điểm đường lối quân sự của Đảng để tác động có hiệu
quả, đúng quy luật vào từng quân nhân, từng tổ chức quân sự, góp phần xây
dựng và nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cho toàn quân.
Bảo đảm cho quân đội ta luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó trong mọi tình huống.
2.1.3. Cơ sở sinh lý học thần kinh cấp cao của tâm lý học
Tâm lý là chức năng của não phản ánh hiện thực khách quan. Mọi hoạt
động tâm lý từ đơn giản đến phức tạp nhất của con người đều dựa trên cơ sở

hoạt động của hệ thần kinh và não bộ. Vì vậy nghiên cứu tâm lý con người
phải dựa trên cơ sở sinh lý học thần kinh cấp cao. Vì vậy, tâm lý học phải dựa
vào những thành tựu của sinh lý học thần kinh cấp cao mà trực tiếp nhất là
những khám phá, phát hiện khoa học về cấu tạo, hoạt động của não cũng như
hệ thần kinh người.
* Cấu tạo chung của hệ thần kinh
Hệ thần kinh người được chia thành 2 phần chính: hệ thần kinh ngoại vi
và hệ thần kinh trung ương.


×