Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI THẢO LUẬN môn tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về GIẢI PHÓNG dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.95 KB, 18 trang )

BÀI THẢO LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề Tài: Bằng lí luận ,thực tiễn hãy phân tích,chứng minh luận

điểm "cách mạng giải pháng dân tộc cần được tiến hành chủ
động ,sáng tạo có khái năng giành được thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc là 1 sáng tạo lớn của Hồ chí Mịnh"

Giáo viên hướng dẫn:
Lớp HP:
Nhóm thực hành:


STT

1

2
3
4
5
6
7
8
9
10

Họ tên

Mã sinh viên



LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử cách mạng của nước ta hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức
Nuyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh , người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt
Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ đại những
không ai có sự nghiệp lẫy lừng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc thời đại,được thế
giới ca ngợi và thừa nhận như Hồ Chí Minh. Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã
cống hiến cho cách mạng Việt Nam. Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa
Người lên địa vị người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng, nhà lí luận sáng tạo của Chủ
nghĩa Mác Lênin được các dân tộc đang đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến bộ hết lòng ca ngợi và
khâm phục. Thực tế lịch sử 80 năm qua đã chứng tỏ rằng: thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi
của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một thực tế khác cũng cho thấy: khi nào chúng ta rời
hoặc quán triệt không đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh thì sẽ không tránh khỏi vấp váp và sai lầm. Cùng với
Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng
của Người không chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa với toàn nhân loại. Nhiều nhà nghiên cứu và
chính khách trên thế giới đã đánh giá tầm vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhãn quan sáng suốt nhìn xa
thấy rộng của Người bắt nguồn từ nhận thức sâu sắc về những lực lượng thúc đẩy sự biến đổi có tính
chất bùng nổ nhất của lịch sử ở những bước ngoặt có tính chất cách mạng nhất. Tư tưởng Hồ Chí

Minh là môt hê thống quan điêm toàn diên và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Viêt Nam. Trong hê thống quan điêm đó có nhiều lu ân điêm hết
sức sáng tạo, thê hiên sự vân dụng và phát triên sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
vào hoàn cảnh cụ thê ở nước ta. Những luân điêm sáng tạo của Hồ Chí Minh rất
phong phú, đa dạng, bao quát nhiều măt, nhiều lĩnh vực, đã được thực tiễn cách
mạng Viêt Nam chứng minh tính đúng đắn và giá trị to lớn. Trong bài viết này, tôi
xin đề câp đến môt trong những luân điêm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tôc, đó là luân điêm: Cach mang giai phong dân tôc cân
phai chu đông, sang tao va co kha năng gianh thăng lơi trươc cach mang vô
san ở chính quốc.



CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. Khái niệm
a) Cách mạng giải phóng dân tộc
+ Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuôc địa phương đông là mâu thuẫn giữa dân

tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau nên tính
chất và nhiệm vụ cuộc đấu tranh ở các nước tư bản và chủ nghĩa cũng khác
nhau
+ Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản cũng không
phải giai cấp địa chủ mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động
b) Cách mạng vô sản
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa,
trong cuộc cách mạngđó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnhđạo và cùng với
quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
+ Mâu thuẫn chủ yếu là quyền lợi giữagiai cấp vô sản là giai cấp tư sản hay nói
cách khác là công nhân với tư bản
+ Đối tượng của cách mạng là giai cấp tư sản
2. Bối cảnh lịch sử
+

a) Hoàn cảnh thế giới, hoàn cảnh trong nước
- Hoàn cảnh thế giới
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đã kết thúc và gây ra sự thay đổi
rất lớn trong bản đồ chính trị châu Âu. Cuộc chiến dẫn đến sự sụp đổ của
bốn đế quốc Nga (1917), Đức (1918), Áo - Hung (1918), Ottoman (1923)
với các triều đình quân chủ hàng trăm năm bị suy đổ trong đó hai cường
quốc Áo - Hung và Ottoman bị phân rã và mất hẳn vai trò cường quốc. Hai
đế quốc Đức, Nga bị cắt xén lãnh thổ và bị kiềm chế với tình cảm dân tộc

nước lớn bị tổn thương sâu sắc và đó là đất đai rất tốt cho tư tưởng phục thù
để dẫn đến một thế chiến mới. Rất nhiều các nước nhỏ xuất hiện từ sự phân


rã của các đế quốc và từ sự phân chia mang tính chủ quan, quan liêu của
các cường quốc thắng trận dẫn đến các mâu thuẫn lộn xộn gây mất ổn định
thế giới sau này.
Cách mang tháng Mười Nga năm 1917 thành công. Đại hội Xô Viết toàn
Nga lần thứ hai tuyên bố khai mạc tại điện Smoniyl và tuyên bố thành lập
chính quyền Xô Viết do Lenin đứng đầuTháng 12 năm 1917, Hội đồng kinh
tế quốc dân tối cao được thành lập nhằm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Ngày 3 tháng 3 năm 1918, nước Nga Xô Viết kí Hòa ước BrestLitovsk với các nước phe Liên minh Trung tâm chính thức rút khỏi Chiến
tranh thế giới thứ nhất.
Trong giai đoạn 1920-1945, phong trào cách mạng vô sản trên thế giới
bùng nổ và đạt được nhiều thắng lợi to lớn, đồng thời phong trào giải
phóng dân tộc cũng diễn ra mạnh mẽ.
Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh
chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền hay chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy họ
muốn mở rộng thị trường nên nhu cầu về thuộc địa ngày càng tăng cao. Sự
bành trướng lãnh thổ của các nước đế quốc đã dẫn đến một mâu thuẫn giữa
các nước thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu
thuẫn này trở nên là một mâu thuẫn cơ bản, hết sức sâu sắc và gay gắt của
thời đại đế quốc chủ nghĩa. Cho đến năm 1848, chủ nghĩa Mác-ăng ghen
hình thành về cơ bản và đã nói lên quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa
tư bản kèm theo đó là sự ra đời của chủ nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa đã dẫn tới chiến
tranh thế giới thứ nhất(1914-1918) và khiến cho chủ nghĩa tư bản thời kỳ
này có phần suy yếu. Trong bối cảnh đó, sự thắng lợi của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (7/11/1917) mở ra thời đại mới- thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đồng thời làm nảy sinh

mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Tháng 3/1919, quốc tế cộng sản do Lênin sáng lập trở thành cơ sở tham
mưu cho phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế và phong trào
giải phóng dân tộc. Cùng với chủ nghxa Mác dần dần được các nước thuộc
địa bết đến, làm thức tỉnh ý thức dân tộc của người dân khắp nơi và làm cho
phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi.
-

Hoàn cảnh trong nước.


Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần
Vương chống Pháp nhưng thất bại. Các vua Nguyễn là Hàm Nghi, Duy Tân
và Thành Thái có ý phản kháng đều bị Pháp truất ngôi và đưa đi đày.
Năm 1887, Pháp đã xâm lược toàn Việt Nam tổ chức ra một bộ máy cai trị
khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương.
Sau thất bại của phong trào Cần vương cuối thế kỷ 19, người Pháp đã cũng
cố hoàn toàn việc tổ chức cai trị tại Việt Nam. Cuộc cải cách trong giáo dục
trong thập niên 1910 đã xóa bỏ hoàn toàn nền nho học với chữ Hán cả
nghìn năm trong chế độ phong kiến Việt Nam để thay thế bằng phong trào
tân học theo chữ quốc ngữ đã tạo ra một tầng lớp trí thức mới, đó là những
người xuất thân từ truyền thống nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hóa
phương Tây Đại diện tiêu biểu cho giới này là Phan Châu Trinh và Phan
Bội Châu đã mở đầu cho phong trào Duy Tân và phong trào Đông Du vận
động tăng cường dân trí, dân chủ, nhân quyền và cải cách xã hội cho người
Việt trước tầng lớp người Pháp cai trị. Tuy nhiên sự phát triển các phong
trào này sau đó bị chính quyền thực dân dẹp bỏ vì nhận thấy nguy cơ đối
với chế độ thuộc địa của họ.
Cuối thập niên 1920, những người Việt cấp tiến dưới ảnh hưởng của chủ
nghĩa Tam dân đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, đến

năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân
Đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm đó, một số thanh niên Việt Nam
theo chủ nghĩa Mác- Lênin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng
cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của
họ thân thiện với Mặt trận Bình dân trong chính quyền Pháp.
Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận
được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn quyền cai trị Đông
Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi
Nhật tấn công toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính
quyền thân Nhật với quốc vương Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim,
đặt quốc hiệu mới đế quốc Việt Nam và quốc kỳ là cờ quẻ ly..
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã
làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm
khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai,


nạn đói (Nạn đói Ất Dậu ) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước
tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.
Tóm lại, xã hội tồn tại nhiều mâu thuẫn vì vậy nhân dân ta đã không ngừng
đứng lên đấu tranh nhưng tất cả đều bị dìm trong biển máu do nhiều nguyên
nhân khác nhau đã khiến nhân dân nhận thức sai mâu thuẫn và khủng
hoảng đường lối, phương pháp, giai cấp lãnh đạo
-

Những mâu thuẫn
Xã hội tồn tại nhiều mâu thuẫn
+
+
+


Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
Mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân
Mâu thuẫn dân tôc : giữa toàn dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp

Công nhân, nông dân, tiểu tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp phong
kiến địa chủ mâu thuẫn gay gắt với bọn cướp nước và bán nước, từ đó đặt
ra yêu cầu cấp bách cần giải quyết trước hết là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân đế quốc cùng bè lũ tay sai của chúng. Nhưng trước khi
Đảng Cộng sản ra đời thì các tổ chức yêu nước và cách mạng chưa nhận
thức được mâu thuẫn chủ yếu này.
3.

Mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản
Cách mạng giải phóng dân tôc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản . Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị, ông cha ta đã sử dụng nhiều con
đường gắn với những huynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư
tưởng khác nhau nhưng tất cả đều thất bại. Từ đó Hồ Chí Minh đã nhận thấy :”Chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc , cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sư nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Chỉ có chủ nghĩ xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ.

1. Quan điểm quốc tế III:


Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc.. Đầu thập kỷ thứ hai , nhiều người cộng sản Châu Âu cho rằng, chủ

nghĩa cộng sản không thể áp dụng ở các nước phương Đông, nơi kinh tế chưa
phát triển. Họ coi phong trào giải phóng dân tộc chỉ là đồng minh căn cứ vào
đặc điểm châu á . Nhưng phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã khẳng
định: "Chủ nghĩa Cộng sản thích nghi dễ dàng với châu á hơn là với châu Âu"
và theo Người: "Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng
khít của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản".Đề cương
về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông
qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có thể thực
hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vô hình chung đã
làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
2.Quan điểm Hồ Chí Minh
2.1 Nội dung:
a) Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo
- Hồ Chí Minh khẳng định sức sống và nộc độc của chủ nghĩa đế quốc tập
trung ở các nước thuộc địa. Chính sự áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa
thực dân đế quốc đã tạo nên mâu thuẫn gay gắt giữa các dân tộc thuộc địa
với CNTB.
Người viết: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ
thuộc địa. Đó là nơi CNTB lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó
đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và
nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của
nó”. “... nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các nước thuộc địa”.
- Trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, CNTD, cách mạng thuộc địa có tầm
quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng
to lớn. Chủ nghĩa dân tộc chân chính, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là
một động lực to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc.



Cho nên, phải “làm cho các dân tộc hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau, đoàn
kết với nhau để tạo cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, làm
một trong nhưng cái cánh của cách mạng vô sản”, phải phát động chủ nghĩa
dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế Cộng sản.
- Trong khi yêu cầu QT III và các đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng
thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân
thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải
là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm:
“Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa), chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nổ lực của bản thân anh em”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế
quốc thực dân; chủ trương phát huy nổ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư
tưởng bị động, trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Người nói: “Kháng
chiến trường kỳ gian khổ đồng thời phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức
mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng nhưng không
được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự
lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng
được độc lập”
b) Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc
- Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc.
Quan điểm này vô hình dung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phog trào cách mạng ở thuộc địa. Hồ Chí Minh đã phê phán và chỉ ra sai lầm
của quan điểm đó.
- Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc hay quan
hệ chính - phụ.



Năm 1925 Người viết, “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vời khác bám vào giai cấp vô
sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi kia vẫn tiếp
tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt
đứt lại sẽ mọc ra”
- Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức
mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa có thể giành thắng lợi trước và giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính
quốc.
Bởi vì “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của
giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của
giai cấp bị áp bức ở thuộc địa” và “Ngày mà hàng trăm nhân dân châu Á bị
tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng
tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận thực tiễn và lý luận to lớn;
một cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã
được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế
giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.2 Căn cứ:
- Hồ Chí Minh dựa trên quan điểm của Mac về khả năng tự giải phóng của
giai cấp công nhân: " Sự giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực
hiện được bởi giai cấp công nhân" .Thực tiễn năm 1919, cách mạng Nga đã
diễn ra thành công rực rỡ.
- Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là dựa trên sự

bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa vì
vậy cuộc đấu tranh giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với
cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt hoàn toàn CNTB.


Hơn nữa theo đánh giá của HCM trong giai đoạn ĐQCN sự tồn tại, phát
triển của CNTB chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa vì
vậy cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc trước chẳng khác nào đánh rắn
đằng đuôi.
3. sự vận dụng thành công
3.1 Cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh - Người đầu tiên vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách
mạng vô sản vào Việt Nam, xây dựng học thuyết giải phóng và phát triển
dân tộc theo khuynh hướng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội.
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản. Với việc xác định con đường đó, Nguyễn Ái Quốc
mở đường để giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước Việt
Nam đầu thế kỷ XX, đồng thời khởi động tiến trình đưa cách mạng Việt
Nam hội nhập vào trào lưu cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Lý luận cách mạng vô sản không phải là một tín điều.Vì thế, C. Mác và V.I.
Lê-nin đòi hỏi phải tiếp tục phát triển lý luận trong những điều kiện lịch sử
mới. Hồ Chí Minh tiếp thu bản chất cách mạng, khoa học và tính nhân văn
cao cả của học thuyết cách mạng vô sản nhằm giải phóng triệt để con người
khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch
về mặt tinh thần.
Hồ Chí Minh trăn trở rất nhiều về sự khác nhau giữa xã hội châu Âu và xã
hội phương Đông. Vận dụng phương pháp biện chứng của C. Mác để phân
tích xã hội thuộc địa, Người chỉ ra rằng, do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu,

nên sự phân hóa giai cấp ở đây khác với xã hội tư bản phương Tây, vì thế
cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây. Giữa
những giai cấp khác nhau vẫn có sự tương đồng lớn: đều chung một số phận
của người dân mất nước. Nếu như mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội tư bản
chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, thì mâu


thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa lại là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức
với đế quốc xâm lược. Giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa
và nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động,
nhưng trong quan hệ với đế quốc Pháp, họ đều là người Việt Nam mất nước.
Đó không phải là những giai cấp thống trị, mà là giai cấp bị trị và có khả
năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.
Lê-nin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí
Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân. Trong điều kiện xã hội thuộc địa, Người không nhấn mạnh một chiều
đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc
lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam mất nước. Trong
tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa chính
là vấn đề độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh khẳng định, chiến lược cách mạng ở thuộc địa chưa phải là đấu
tranh giai cấp, mà trước hết là giải phóng dân tộc; xác định tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Lực
lượng của cuộc cách mạng đó bao gồm toàn dân tộc, trong đó công nhân và
nông dân là “chủ cách mệnh”, “gốc cách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ là “bầu bạn cách mệnh của công nông”. Giải phóng dân tộc là
một sự nghiệp to lớn, của cả dân tộc bị áp bức vùng dậy giành quyền sống,
chứ không phải là sự nghiệp của một số ít người. Vì thế phải thành lập một
“Đảng cách mệnh” để tổ chức và giác ngộ quần chúng, dùng bạo lực cách

mạng của quần chúng lật đổ ách thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai,
thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, nhân
dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn và cần phải “làm
cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông
tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng
vô sản”. Người cũng khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa
có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí


Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều,
nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa
đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng vô sản, mà tư tưởng cốt lõi là “không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần
chúng nhân dân và trở thành thực tiễn sinh động ở Việt Nam bằng những
thắng lợi chiến lược trong những cuộc khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh
nhân dân giành và giữ nền độc lập dân tộc. Những thắng lợi đó là đóng góp
của dân tộc Việt Nam, cùng nhân loại biến thế kỷ XX trở thành một thế kỷ
giải trừ chủ nghĩa thực dân trên thế giới.
Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách
mạng (tức cách mạng giải phóng dân tộc) và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết
sức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc
trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu và bước đi để đạt tới chủ

nghĩa xã hội. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải
trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con
người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh kết
hợp nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, xây dựng lý luận cách
mạng giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản, giải quyết
thành công mối quan hệ giữa đất nước và thời đại, giữa dân tộc và quốc tế.
Đó là cống hiến xuất sắc nhất và cũng là cống hiến đầu tiên của Hồ Chí
Minh trong việc vận dụng và phát triển lý luận cách mạng vô sản vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Vận dụng và phát triển lý luận về Đảng Cộng sản, sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam - nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp giải phóng


dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo C. Mác, giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện vai trò lãnh đạo cách
mạng khi có một chính đảng của riêng mình, nhằm “tổ chức những người vô
sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản
giành lấy chính quyền”. Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử thế giới, nhưng
lại tồn tại trong từng quốc gia dân tộc, vì thế trước khi hoàn thành sứ mệnh
lịch sử thế giới, giai cấp vô sản phải hoàn thành sứ mệnh với dân tộc mình.
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen nêu rõ: “Cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức
đấu tranh dân tộc”. Vì thế, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành
lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc…”.Điều đó có nghĩa là phải thành lập Đảng Cộng sản trong
từng quốc gia dân tộc, chứ không phải trong từng khu vực của thế giới.
Chính vì thế, Hồ Chí Minh chủ trương thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt

Nam, mà không phải một đảng chung cho cả 3 nước Đông Dương, đồng thời
tăng cường đoàn kết, ra sức ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Lào và Cam-pu-chia
với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, đấu tranh cho nền độc lập của dân
tộc Việt Nam, đồng thời tôn trọng và ủng hộ cho nền độc lập của các dân tộc
khác.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân là quy luật
chung cho sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp
đó không theo một khuôn mẫu giáo điều, cứng nhắc. Điều đó đòi hỏi sự vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản trong
điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa.
Sự phát triển của phong trào công nhân là cơ sở xã hội cho việc truyền bá lý
luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, nhưng đó không phải là cơ sở duy
nhất.Phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với phong trào công nhân thành
một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ ngày càng mạnh mẽ, đòi hỏi phải
có một tổ chức lãnh đạo thống nhất và một đường lối chính trị đúng đắn.Đó
là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng
chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Vận dụng lý luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh không chỉ truyền bá lý luận cách mạng trong phong
trào công nhân mà cả trong phong trào yêu nước, giải quyết vấn đề đường
lối cứu nước, đồng thời tạo điều kiện chín muồi để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm trực tiếp của sự kết
hợp lý luận giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản với
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, trong đó có phong
trào công nhân nói riêng và phong trào yêu nước nói chung.
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh
cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là
đảng của dân tộc Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do

Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khẳng định: “Đảng là Đội tiên phong của vô sản
giai cấp”. Song, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của
toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Hồ Chí Minh
phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam
là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng
của dân tộc Việt Nam”.Năm 1953, Hồ Chí Minh nhắc lại, Đảng Lao động
Việt Nam là “Đảng của giai cấp lao động, mà cũng là Đảng của toàn dân”.
Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh khẳng định thêm một lần nữa: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh là sự phát triển và bổ sung thêm cho lý
luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản, định hướng cho việc xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng
Việt Nam. Đảng có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân,
mà còn đối với nhân dân lao động và cả dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là
một chính đảng cách mạng tiên phong, gắn bó với nhân dân, với dân tộc,


một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, được nhân dân thừa
nhận là đội tiên phong của mình. Vì thế, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã
quy tụ được lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc
điểm, đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, Đảng đã nắm ngọn cờ
lãnh đạo duy nhất và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
Về thực tiễn, tư tưởng chiến lược nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh

chính trị đầu tiên khi Đảng thành lập và được khẳng định tiếp tục trong các
cương lĩnh tiếp theo, đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Trước năm 1930, các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
ta, do chưa có định hướng xã hội chủ nghĩa, mà đi theo khuynh hướng
phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, nên dù rất anh dũng, cuối cùng đều đã bị thất
bại.
Trong những năm 1930-1945, nắm vững và đitheocon đường cách mạng vô
sản và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó
khăn, tổn thất, từng bước giành được những thắng lợi to lớn, đỉnh cao là
cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa.
Từ năm 1945 đến năm 1954, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội được Đảng thể hiện qua đường lối kết hợp kháng chiến với kiến
quốc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ba nhiệm vụ chiến lược chống
đế quốc, chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gây mầm
mống cho chủ nghĩa xã hội, tạo nên sức mạnh to lớn cho dân tộc ta, đưa
kháng chiến đến thắng lợi. Từ năm 1954 đến năm 1975, bài học đó được thể
hiện trong đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục
tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc. Nhờ có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo này Đảng đã


huy động được tối đa sức mạnh của hai miền, sức mạnh cả nước, sức mạnh
của thời đại, đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Từ năm 1975 đến nay, khi cả nước đã giành được độc lập, thống nhất, cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc thống

nhất. Đường lối đó đã củng cố, giữ vững độc lập tạo điều kiện để xây chủ
nghĩa xã hội, và xây dựng chủ nghĩa xã hội lại tạo ra cơ sở vật chất, tinh thần
để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Khi tình hình quốc tế có những chuyển biến
mới, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng và sụp đổ, bài học
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng thể hiện
trong đường lối đổi mới, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy nội lực, tranh thủ tối
đa các nguồn lực bên ngoài, mở rộng giao lưu văn hóa, giữ vững bản sắc dân
tộc... Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành tựu
mới trong công cuộc bảo vệ đất nước Việt Nam thống nhất, vượt qua khủng
hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa
3.2 Cách mạng thế giới
Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử thế giới ,
đặc biệt là sau sự thành công của cách mạng tháng 8.Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã giải quyết đúng đắn vấn đề “làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc
địa”; xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp
bức, Người kêu gọi lao động toàn thế giới, nhất là các nước thuộc địa cần
phải đại đoàn kết, đại hòa hợp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mở đường cho thắng lợi của các cuộc cách mạng
dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi
phạm vi một nước, trở thành một hệ thống thế giới. ,Như cách mạng Trung
Quốc (1949) và cách mạng Cuba (1959) đã mở rộng không gian địa lí của
các nước xã hội chủ nghĩa-một dải đất rộng lớn trải dài từ phía đông châu Á
qua Liên bang Xô viết tới phần phía đông châu Âu và lan rộng sang vùng


biển Caribê thuộc khu vực Mĩ-Latinh. Trong nhiều thập niên, hệ thống xã

hội chủ nghĩa đã trở thành một lực lượng hùng hậu về chính trị-quân sự và
kinh tế, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học-kĩ thuật thế giới.
Do những sai phạm nghiêm trọng trong đường lối, chính sách và sự chống
phá của các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chế độ xã hội chủ nghĩa đã
tan rã ở các nước Đông Âu (vào cuối những năm 80) và Liên bang Xô viết
(1991).Đây là một tổn thất nặng nề của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, để lại những hậu quả nghiêm trọng cho cuộc đấu tranh của các dân
tộc vì hòa bình, chủ quyền và tiến bộ xã hội.
Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một cao trào giải phóng dân
tộc đã đẩy lên mạnh mẽ ở các nước châu Á, Phi và Mĩ Latinh.Hệ thống
thuộc địa và chế độ phân biệt chủng tộc (Apácthai) kéo dài từ nhiều thế kỉ đã
bị sụp đổ hoàn toàn.Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó đã đưa tới sự ra đời của
hơn 100 quốc gia độ lập trẻ tuổi.Bản đồ chính trị thế giới có những thay đổi
to lớn và sâu sắc.Các quốc gia độc lập ngày càng tích cực tham gia và có vai
trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới với ý chí chống chủ nghĩa
thực dân, vì hòa bình thế giới, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Sauk hi
giành được độc lập, nhiều nước Á, Phai, Mĩ LAtinh đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước.



×