Tải bản đầy đủ (.doc) (151 trang)

Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn huyện bố trạch, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.04 KB, 151 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách tài chính quốc gia là một
khâu trọng yếu trong việc Nhà nước thực hiện vai trò quản lý xã hội và điều
tiết vĩ mơ nền kinh tế; trong đó, quản lý thu Ngân sách nhà nước là một bộ
phận rất quan trọng của chính sách tài chính quốc gia. Trong điều kiện cơ cấu
kinh tế và cơ chế quản lý thay đổi thì hệ quả tất yếu là chính sách tài chính nói
chung và công tác quản lý, điều hành hoạt động thu ngân sách nói riêng cũng
phải đổi mới. Do vậy, cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước của các cấp chính
quyền địa phương cũng cần được cải tiến trên một số mặt nhất định.
Huyện Bố Trạch, là một trong bảy huyện, thành phố của tỉnh Quảng
Bình, có 28 xã và 2 thị trấn với diện tích gần 2.125 km 2, dân số năm 2007 là
17,65 vạn người. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2002-2007 là 8.5%.
Quản lý thu Ngân sách nhà nước trên điạ bàn, đặc biệt là nguồn thu trong cân
đối đã được chú trọng cải tiến. Tuy nhiên, việc quản lý còn thiếu tập trung,
thống nhất; nhiều nguồn lực tài chính khơng được động viên vào Ngân sách
Nhà nước; chính quyền cấp xã và một số đơn vị có liên quan cịn xem nhẹ
cơng tác thu ngân sách và coi đó là nhiệm vụ của riêng ngành thuế; nguồn thu
Ngân sách nhà nước trên địa bàn hàng năm chưa đảm bảo tự cân đối chi, chủ
yếu là từ nguồn cấp quyền sử dụng đất. Việc phát hiện và nuôi dưỡng các
nguồn thu, triển khai các giải pháp tăng thu ngân sách, đặc biệt là nguồn thu
trong cân đối ngân sách để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn vẫn
còn nhiều bất cập cần được giải quyết.
Xuất phát từ đó, vấn đề “Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách
trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” đã được lựa chọn làm đề
tài luận văn thạc sĩ.

1


2. Mục đích của đề tài


2.1. Mục tiêu chung
Dựa trên cơ sở lý luận về thu Ngân sách nhà nước và kết quả phân tích
đánh giá thực trạng thu ngân sách trên địa bàn, đề xuất các giải pháp tăng thu
trong cân đối ngân sách ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về NSNN, thu ngân
sách và cân đối ngân sách làm cơ sở khoa học cho đề tài luận văn;
- Phân tích đánh giá thực trạng thu trong cân đối ngân sách nhà nước
trên địa bàn nghiên cứu trong thời kỳ 2005 – 2008;
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác thu ngân
sách và tăng thu trong cân đối ngân sách huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
trong thời kỳ mới đến năm 2015.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thu thập số liệu
3.1.1. Số liệu thứ cấp
Được thu thập từ Phịng Tài chính – kế hoạch huyện, Chi cục thuế
huyện, Phịng Thống kê, Phịng Tài ngun – Mơi trường, văn kiện Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XX và các báo cáo tổng kết hàng năm của UBND
huyện giai đoạn 2005 – 2008 nhằm đánh giá thực trạng các nguồn thu trong
cân đối ngân sách trên địa bàn và công tác quản lý thu ngân sách giai đoạn
2005 – 2008.
3.1.2. Số liệu sơ cấp
Được thu thập từ việc điều tra các cán bộ giữ chức vụ chủ chốt tại
28/30 xã, thị trấn và các đơn vị cấp huyện có liên quan đến công tác thu ngân
sách để đánh giá thực trạng công tác quản lý và phát triển các nguồn thu.

2


Ngồi ra, Luận văn cịn tiến hành thu thập thơng tin từ các chủ doanh nghiệp

trực thuộc Chi cục thuế quản lý thu để so sánh sự khác biệt giữa đối tượng
quản lý Nhà nước và đối tượng nộp ngân sách trong việc đánh giá chất lượng
công tác quản lý thu ngân sách. Việc thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện
thông qua phiếu điều tra do người được phỏng vấn tự điền thơng tin. Nhờ đó
có thể đánh giá các vấn đề có tính chất định tính liên quan đến công tác thu
ngân sách trên địa bàn.
3.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
Dùng phương pháp phân tổ thống kê để tổng hợp và hệ thống hóa tài liệu
thu thập được làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng thu ngân sách
trên địa bàn nghiên cứu theo các tiêu thức (góc độ) khác nhau. Các số liệu được
xử lý, tính tốn trên máy tính theo các phần mềm thống kê thơng dụng.
3.3. Phương pháp phân tích
- Dùng phương pháp thống kê mơ tả để xác định xu hướng biến động
của từng nguồn thu trong cân đối ngân sách nhằm phục vụ cho việc phân tích
đánh giá cơng tác thu ngân sách;
- Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế và
thống kê tốn để phân tích, đánh giá và kiểm định thực trạng thu trong cân đối
ngân sách trên cơ sở các số liệu thứ cấp và sơ cấp đã được tổng hợp.
3.4. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo
Ngồi những phương pháp kể trên, Luận văn cịn thu thập ý kiến của
các chuyên gia và các nhà quản lý có liên quan đến cơng tác thu ngân sách
như: Các cán bộ lãnh đạo cấp huyện và cấp xã, các cán bộ làm cơng tác tài
chính lâu năm, Giám đốc các doanh nghiệp và công ty TNHH trực thuộc Chi
cục thuế quản lý thu… để có căn cứ khoa học cho việc rút ra các kết luận một
cách xác đáng và đề ra các giải pháp tăng nguồn thu trong cân đối ngân sách
trên địa bàn.

3



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng và nội dung nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách trên
địa bàn nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Các nguồn thu trong cân đối ngân sách.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Phạm vi thời gian: Phân tích đánh giá thực trạng giai đoạn 2005 –
2008 và đề xuất giải pháp đến năm 2015.

4


Chương 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGÂN SÁCH VÀ THU
TRONG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm về ngân sách Nhà nước
Có nhiều quan niệm về Ngân sách nhà nước. Các nhà nghiên cứu kinh
tế cổ điển cho rằng: Ngân sách nhà nước là một văn kiện tài chính mơ tả các
khoản thu, chi của Chính phủ được thiết lập hàng năm. Nhiều nhà nghiên cứu
kinh tế hiện đại thì cho rằng Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu
chi bằng tiền mặt trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước [3].
Luật ngân sách Nhà nước Việt Nam (số 01/2002/QH 11 thông qua tại
kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa 11) định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ
các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Bên cạnh những sự khác biệt thì các định nghĩa có một số điểm nhất

trí sau:
- Ngân sách là kế hoạch hoặc dự toán thu, chi của một chủ thể nhất
định, thường là một năm – gọi là năm tài chính;
- Ngân sách nhà nước của một quốc gia là một đạo luật được cơ quan
lập pháp của quốc gia đó ban hành.
Có thể hình dung khái qt NSNN theo biểu mẫu số 1.

5


Mẫu biểu số 01
CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM....
(Dùng cho Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ)

S

Nội dung

Ước thực

Dự toán

So sánh

T

hiện năm

năm kế


%

T
A

hiện hành
1

hoạch
2

3 = 2/1

B
A – TỔNG THU CÂN ĐỐI NSNN

1 Thu từ nội địa (không kể thu từ dầu thô)
2 Thu từ dầu thô
3 Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu
4 Thu viện trợ khơng hồn lại
B – TỔNG CHI CÂN ĐỐI NSNN
1 Chi đầu tư phát triển
2 Chi trả nợ và viện trợ
3 Chi thường xuyên
4 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
5 Dự phịng
C – BỘI CHI NSNN
(Tỷ lệ bội chi so GDP)
Nguồn bù đắp bội chi NSNN
1 Vay trong nước

2 Vay ngoài nước
(Phụ lục số 7– biểu số 01 ban hành kèm theo Thông tư 59/TT – BTC ngày
23/6/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 60/2003/NĐ – CP).

6


Nội dung chủ yếu của ngân sách là thu, chi nhưng không phải chỉ là các
con số, cũng không phải chỉ là quy mô, sự tăng giảm số lượng tiền tệ đơn
thuần mà cịn phản ánh chủ trương, chính sách của Nhà nước; biểu hiện các
quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền (cũng là cấp ngân sách); giữa Nhà
nước với các chủ thể kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân trong quá trình
phân bổ các nguồn lực và phân phối thu nhập mới sáng tạo ra. Các quá trình
sản xuất kinh doanh, gắn liền với sự vận động của các dòng tiền: dòng tiền
thu vào (quá trình tạo lập), dịng chi ra (q trình sử dụng) của ngân sách Nhà
nước (quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước). Việc tạo lập và sử dụng ngân sách
Nhà nước một mặt phản ánh mức độ tiền tệ hóa, luật pháp hóa các hoạt động
của Nhà nước, bởi dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước được các cấp có thẩm
quyền thảo luận, quyết định và phê chuẩn trong khuôn khổ pháp luật; mặt
khác từng khoản mục của ngân sách Nhà nước chính là sự cụ thể hóa các
chính sách, các lựa chọn kinh tế, chính trị của đất nước [3].
1.1.2. Vai trị của ngân sách Nhà nước
Có thể nhìn nhận vai trị của ngân sách Nhà nước trên hai phương diện:
Một là, Nhà nước có nhiều chức năng, nhiệm vụ. Để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ đó Nhà nước cần có lực lượng vật chất nhất định. Một trong
đó là Ngân sách nhà nước. Đối với bất kỳ quốc gia nào, Ngân sách nhà nước
ln có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo nguồn tài chính cho sự thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Hai là, Ngân sách là một công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng tác động vào
nền kinh tế. Ngân sách là nguồn lực đầu tư quan trọng giúp cho nền kinh tế

phát triển, điều chỉnh cơ cấu kinh tế; thúc đẩy q trình đơ thị hóa, động viên
mọi thành viên trong xã hội tham gia vào quá trình phát triển; ngân sách cùng
với các công cụ khác hỗ trợ sự hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị
trường, đồng thời tham gia khắc phục các thất bại của chính nền kinh tế thị

7


trường, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo đảm tính cơng bằng
và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Ngân sách nhà nước có vai trị quan trọng, quốc gia nào cũng xây dựng
một hệ thống ngân sách hợp lý, với các chính sách nhằm mục tiêu phân phối
và sử dụng có hiệu quả nhất.
Với vai trị của mình, NSNN là công cụ của Nhà nước để cùng với thị
trường tác động tích cực vào nền kinh tế, tạo động lực khuyến khích mọi
thành phần kinh tế phát triển; hạn chế cơ chế quản lý trực tiếp, mệnh lệnh
hành chính; mở rộng và tăng cường sử dụng tích cực các cơng cụ tài chính
tiền tệ, sửa đổi bổ sung các chính sách tài chính phù hợp với quy luật kinh tế
thị trường. NSNN cần ưu tiên lựa chọn mục tiêu trung tâm, trọng điểm, đào
tạo nhân lực, phát triển nội lực, thu hút, huy động và chuyển hóa ngoại lực
thành nội lực nhằm phát triển nhanh nền KTXH.
Trước đây, nhiều nhà kinh tế học chủ trương xây dựng một NS tối thiểu
và cân bằng, có qui mơ thu chi vừa đủ để duy trì hệ thống cơ sở hạ tầng; bảo
đảm thực hiện các chức năng Nhà nước công quyền, bảo vệ an ninh - quốc
phịng, an tồn xã hội. Nghĩa là NSNN chỉ giới hạn trong tiêu dùng nằm ở
khâu sau phân phối lại kết quả sản xuất kinh doanh. Hiện nay, quan điểm
được nhiều quốc gia áp dụng là NSNN không chỉ phân phối lại kết quả sản
xuất kinh doanh mà trước khi phân phối lại, NSNN đã tham gia phân phối các
yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế (đầu tư hạ tầng KTXH, ĐTPT nguồn
nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường, xúc tiến thương mại…). Với đặc điểm

này, NSNN chủ động thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cụ thể:
Thứ nhất, NSNN tác động trực tiếp đến việc tăng quy mô đầu tư, thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Là chủ đầu tư lớn nhất trong nền kinh tế, Nhà nước giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc phát triển KTXH. Ở Việt Nam cũng như đa số các nước

8


đang phát triển trên thế giới, vốn đầu tư từ nguồn NSNN có một vị trí rất quan
trọng, chiếm khoảng từ 22%-30% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy, về
mặt lượng, quy mơ đầu tư vào nền kinh tế từ nguồn NSNN đóng vai trị quan
trọng trong việc tăng quy mơ đầu tư của tồn xã hội.
Thứ hai, quy mô thu và cơ cấu chi NSNN tác động mạnh mẽ đến quan
hệ cung cầu trên thị trường và thơng qua đó tác động đến nền kinh tế.
Với tư cách là chủ thể kinh tế lớn nhất trong nền kinh tế, Nhà nước chi
tiêu nhiều hay ít sẽ tác động trực tiếp đến tổng cầu, đến sức mua của thị
trường. Nếu các bộ phận khác của tổng cầu khơng thay đổi, thì chi tiêu của
Nhà nước tăng sẽ tác động trực tiếp làm gia tăng tổng cầu của xã hội. Đến
lượt nó, sự gia tăng của tổng cầu nhanh hơn sự gia tăng của tổng cung thì một
mặt, nó làm tăng sức mua của xã hội, giảm thời gian lưu thông, tăng tốc độ
chu chuyển của vốn trong nền kinh tế, tăng GDP và tăng hiệu quả KTXH; mặt
khác, mức dư cầu trên thị trường ở chừng mực nhất định làm tăng giá tiêu thụ
hàng hóa ở mức độ vừa phải có tác động điều tiết mức tiêu dùng hợp lý hơn,
đồng thời khuyến khích phát triển sản xuất, tăng đầu tư trong nền kinh tế.
Thứ ba, thông qua việc sử dụng NSNN, Nhà nước thực hiện việc điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phát triển bền
vững, phù hợp với quy hoạch, không ngừng nâng cao hiệu quả KTXH.
Thứ tư, NSNN là công cụ kinh tế quan trọng mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, kích thích xuất khẩu, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.

Nhà nước sử dụng NS của mình như một phương tiện vật chất, một công
cụ tác động vào hoạt động kinh tế đối ngoại theo hướng tranh thủ cơ hội để
phát triển. Ở điều kiện nhất định, Nhà nước ban hành hệ thống những cơ chế
chính sách để thực hiện, đồng thời sử dụng NSNN hỗ trợ trực tiếp hoặc gián
tiếp nhằm khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, thúc
đẩy và khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.

9


Thứ năm, NSNN là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện việc điều
hành quản lý, kiểm soát nền kinh tế.
Vốn NSNN chỉ là một yếu tố trong nhiều yếu tố đầu vào của nền sản
xuất xã hội. Vì vậy, để xác định rõ vị trí, vai trị của NS trong nền kinh tế và
để đạt mục tiêu sử dụng vốn NS có hiệu quả địi hỏi phải nắm được thực trạng
các nguồn lực của cả nền kinh tế.
Thứ sáu, NSNN trực tiếp ĐTPT nguồn nhân lực, trí lực (giáo dục, đào
tạo, y tế, văn hóa, khoa học...) thực hiện nhiệm vụ phát triển xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo hài hịa lợi ích của các thành
viên tham gia sản xuất và lợi ích chung của toàn xã hội, việc phân phối nguồn
NS được ưu tiên thực hiện một số chính sách xã hội, bù đắp những khiếm
khuyết của thị trường, thực hiện công bằng xã hội [1].
1.1.3. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước
1.1.3.1. Khái niệm
Phân cấp quản lý NS là quá trình Nhà nước trung ương và cấp tỉnh phân
giao những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định cho các cấp chính
quyền ở địa phương trong hoạt động quản lý thu, chi NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN được xem như là một trong những biện pháp
quản lý NSNN. Thực chất của việc phân cấp quản lý NSNN là việc phân chia
trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý hoạt động của NSNN cho các cấp chính

quyền nhằm làm cho hoạt động của NSNN được lành mạnh và đạt hiệu quả
cao. Phân cấp quản lý thu, chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc thống
nhất, tập trung dân chủ.
Tư tưởng chỉ đạo trong phân cấp quản lý NSNN theo Luật NSNN là
phân định cụ thể nhiệm vụ thu chi cho NS mỗi cấp.
Trong đó nội dung chính về phân cấp quản lý thu NSNN: Tập trung đại

10


bộ phận nguồn thu lớn, ổn định cho NSTW, đồng thời tạo cho NSĐP có nguồn
thu gắn với địa bàn. Trên tinh thần đó, nguồn thu được chia thành 3 loại:
- Các khoản thu NSTW hưởng 100%;
- Các khoản thu NSĐP hưởng 100%;
- Các khoản thu điều tiết theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương [24].
1.1.3.2. Các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN: Có 4 ngun tắc chính
Thứ nhất, phù hợp với phân cấp quản lý KTXH, quốc phòng, an ninh
và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.
Thứ hai, đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và vị trí độc lập của
NSĐP trong hệ thống NSNN thống nhất.
Thứ ba, phân định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi của từng cấp ngân
sách; làm rõ nguồn thu và nhiệm vụ chi nào gắn với ngân sách trung ương,
nguồn thu và nhiệm vụ chi nào gắn với ngân sách các cấp ở địa phương; từ đó
làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, tạo điều kiện cho các cấp chính
quyền địa phương, nhất là các cấp cơ sở chủ động thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, hạn chế tình trạng trơng chờ, ỷ lại của ngân
sách cấp dưới và bao biện từ ngân sách cấp trên.
Thứ tư, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp NSNN.
Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước phải đảm bảo yêu cầu cân đối

phát triển chung của đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất sự chênh lệch về
kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các vùng lãnh thổ. Yêu cầu của nguyên tắc này
xuất phát từ các vùng, các địa phương trong một quốc gia có những đặc điểm
tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển kinh tế - xã hội khơng đồng đều. Nếu
một hệ thống ngân sách Nhà nước được phân cấp đơn giản, áp dụng như nhau
cho tất cả các địa phương rất có thể dẫn tới những bất công bằng, tạo ra

11


những khoảng cách lớn về sự phát triển giữa các địa phương. Những vùng đơ
thị hoặc những vùng có tiềm năng thế mạnh lớn ngày càng được phát triển;
ngược lại những vùng nơng thơn, miền núi khơng có các tiềm năng, thế mạnh
sẽ bị tụt hậu [17].
1.2. THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thu Ngân sách nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung
một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thoả mãn các
nhu cầu của Nhà nước. Xét về hình thức, thu NSNN là một hoạt động, là quá
trình của nhiều hành vi, hành động của Nhà nước. Xét về nội dung, thu
NSNN là quá trình Nhà nước sử dụng các quyền lực có được của mình để
động viên, phân phối một bộ phận của cải của xã hội dưới dạng tiền tệ về tay
Nhà nước nhằm hình thành nên quỹ NSNN [4].
1.2.1.2. Đặc điểm
Thu NSNN có những đặc điểm sau đây:
- Thu NSNN gắn liền với quyền lực của Nhà nước (mà chủ yếu là
quyền lực chính trị);
- Thu NSNN được xác lập trên cơ sở luật định và vừa mang tính chất
bắt buộc, vừa khơng mang tính chất bắt buộc;

- Nguồn tài chính chủ yếu của thu NSNN là thu nhập của các thể nhân
và pháp nhân, được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước dưới nhiều hình thức,
nhưng chủ yếu là thuế;
- Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và các phạm trù: Giá cả,
thu nhập, lãi suất...;
- Thu NSNN gắn liền với hoạt động của Nhà nước. Nhà nước đề ra chủ

12


trương, phương hướng, mục tiêu thu NSNN trong một thời kỳ nhất định, xác
định rõ thu ở đâu? Lĩnh vực nào là chủ yếu? Hình thức nào là tốt nhất?...Xác
định rõ tỷ lệ thu hoặc một con số thu cụ thể nào đó. Từ đó Nhà nước đề ra cơ
chế chính sách, luật lệ về thu NSNN nhằm đạt được phương hướng mục tiêu
đề ra. Đồng thời Nhà nước tổ chức bộ máy thu, tổ chức thu và đảm bảo các
điều kiện cho cơng tác thu.
Tóm lại, thu NSNN thực chất là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia
giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực chính trị của
Nhà nước nhằm giải quyết hài hồ các mặt lợi ích kinh tế. Sự phân chia đó là
tất yếu khách quan xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà
nước, cũng như thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Đối tượng phân
chia là thu nhập xã hội - đây là kết quả lao động sản xuất trong nước tạo ra
dưới hình thức tiền tệ [1].
1.2.2. Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN
Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN, được hiểu là tập hợp các nguyên
tắc, tình hình, phương pháp phân chia các khoản thu thuộc quỹ NSNN một
cách hợp lý cho các cấp ngân sách.
Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN thuộc cơ chế kinh tế. Mỗi cơ chế
kinh tế đều có đặc điểm riêng ảnh hưởng trực tiếp đối với việc sử dụng các
công cụ kinh tế tài chính. Do đó, để xác định được vai trị của cơ chế phân

chia nguồn thu NSNN cần thiết phải đề cập tới đặc điểm của cơ chế này.
Đặc điểm bao trùm của cơ chế phân chia nguồn thu NSNN là sự can
thiệp của Nhà nước vào phân phối các khoản thu giữa các cấp ngân sách dựa
trên các quy luật khách quan và các yêu cầu của quản lý nhằm đảm bảo vai
trị chủ đạo của NSTW và tính năng động sáng tạo các cấp chính quyền địa
phương. Đảm bảo ngân sách các cấp đều đủ khả năng để đảm bảo sự tồn tại

13


và phát triển của bộ máy quản lý Nhà nước và thực hiện các chức năng nhiệm
vụ của mình.
Đặc điểm thứ hai của cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách Nhà nước
là sự phù hợp giữa khả năng và thực tiễn, phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế và quản lý Nhà nước. Cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách Nhà nước
phải căn cứ vào hệ thống tổ chức bộ máy, bản chất của các khoản thu, đảm
bảo hài hồ lợi ích của xã hội.
Đặc điểm thứ ba của cơ chế phân chia nguồn thu NSNN là tính cơ động
của nó. Do cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách Nhà nước mang tính chủ
quan, vì vậy trong quá trình thực hiện cần thấy rõ các mâu thuẫn để có hướng
điều chỉnh cho thích hợp. Song nói như vậy khơng có nghĩa là phải ln ln
thay đổi cơ chế, mà khi ban hành cơ chế phải tính tốn đến sự ổn định nhất
định của nó [15].
1.2.3. Nội dung và hình thức các khoản thu NSNN
1.2.3.1. Nguồn thu và thu nhập của ngân sách
Để tồn tại và phát triển, Nhà nước cần tập trung vào tay mình lượng của
cải vật chất dưới dạng tiền tệ nhất định. Nhưng lấy nó ở đâu? Từ nguồn nào ?
Nguồn thu của NSNN là nơi cung cấp số thu cho NSNN thông qua quá
trình tác động vào đối tượng thu để điều tiết một phần của cải về cho Nhà nước.
Có rất nhiều loại nguồn thu.

Nếu căn cứ vào sự biểu hiện của nguồn thu, ta có thể chia ra nguồn thu
trực tiếp và nguồn thu tiềm năng.
Nguồn thu trực tiếp là nguồn thu đã thể hiện bằng tiền, chỉ cần có một
số tác động nào đó thì sẽ thu được một phần về cho ngân sách Nhà nước. Ở
những biểu hiện cụ thể, thì đó là tiền lương, doanh thu, lợi nhuận, thu nhập
doanh nghiệp, vốn, thu nhập cá nhân...vv. Ở tầm vĩ mơ thì nguồn thu thể hiện

14


qua tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Thông thường chúng ta hay dùng GDP.
Nguồn thu tiềm năng là những nguồn thu chưa thể hiện bằng tiền,
nhưng có khả năng thành tiền trong một thời gian gần. Đó là đất đai, tài
ngun, khống sản...
Nguồn thu trực tiếp cho phép xác định thu ngân sách Nhà nước trong
hiện tại, còn nguồn thu tiềm năng cho phép xác định khả năng thu ngân sách
Nhà nước trong tương lai.
Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng các nguồn thu và tính tốn mức bội
chi ngân sách, chúng ta có thể phân chia thành nguồn thu trong cân đối và thu
ngoài cân đối ngân sách.
Thu trong cân đối ngân sách là các khoản thu được đưa vào công thức
xác định mức bội chi ngân sách. Đây chính là nội dung kinh tế của bội chi
ngân sách.
Thu trong cân đối ngân sách được hiểu bao gồm các khoản thu vào quỹ
ngân sách mà khoản thu đó khơng kèm theo, khơng làm phát sinh nghĩa vụ
hoàn trả trực tiếp.
Ngoài ra, căn cứ vào nơi phát sinh nguồn thu người ta có thể chia ra:
Nguồn thu trong nước và nguồn thu ngoài nước, nguồn thu theo lĩnh vực
(công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...), nguồn thu theo thành phần kinh tế.

Trong quá trình thu, Nhà nước tập trung được một lượng tiền nhất định
vào ngân sách Nhà nước. Kết quả thu được đó, được gọi là thu nhập ngân
sách Nhà nước. Thu nhập ngân sách Nhà nước (hay còn gọi là số thu NSNN)
là mục tiêu của q trình thu và nó thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.

15


Như vậy, giữa nguồn thu NSNN và thu nhập của ngân sách Nhà nước
có mối quan hệ biện chứng. Nguồn thu thể hiện khả năng, còn thu nhập của
NSNN thể hiện thực hiện một phần của khả năng. Mối quan hệ đó thường
được biểu hiện bằng tỷ lệ động viên của NSNN hay tỷ lệ thu NSNN và được
tính bằng công thức:
Số thu NSNN
Tỷ lệ thu NSNN =

x 100

(%)

GDP
Tỷ lệ thu NSNN có một ý nghĩa rất lớn trong nền kinh tế quốc dân. Nó
khơng những nói lên rằng Nhà nước cần thu như thế nào để đảm bảo chi tiêu,
mà Nhà nước cịn sử dụng nó như thế nào trong phân phối thu nhập, điều
chỉnh nền kinh tế vĩ mơ.
1.2.3.2. Các hình thức thu NSNN
Để biến nguồn thu NS thành thu nhập của NSNN cần phải có các hình
thức thu thích hợp. Những hình thức đó được coi như những công cụ, phương
tiện biến nguồn thu thành thu nhập của NSNN. Hình thức thu ngân sách phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Trong những cơ chế quản lý kinh

tế khác nhau thì cơ cấu các hình thức thu cũng khác nhau.
Hiện nay có những hình thức thu cơ bản sau đây:
- Thu thuế: Thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc (phi hình sự) của
Nhà nước nhằm động viên một bộ phận thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ
việc chi tiêu hàng hoá dịch vụ và từ việc lưu giữ, chuyển dịch tài sản của các
thể nhân và pháp nhân nhằm trang trải các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Việc thu thuế bao giờ cũng được thể chế bằng hệ thống pháp luật.
Nhà nước là người đại diện cho người dân, Nhà nước thay mặt cho xã
hội cung cấp cho mọi người dân hàng hố và dịch vụ cơng cộng thuần tuý,
nên Nhà nước với quyền lực chính trị của mình quy định thuế để coi phần nộp

16


mà người dân trích một phần thu nhập của mình khơng mua hàng hố phục vụ
cho cá nhân, mà coi như trả cho hàng hố dịch vụ cơng cộng của Nhà nước.
Nhà nước thu thuế khơng phải nơ dịch, bóc lột công dân, mà thực chất là
người đại diện cho xã hội, được xã hội giao phó cho việc cung ứng hàng hố
dịch vụ cơng cộng, mà thuế là nguồn lực tạo ra hàng hố dịch vụ cơng cộng
đó.
- Thu phí và lệ phí: Trong điều kiện kinh tế thị trường, đối với hàng hoá
dịch vụ tư nhân, khi người dân muốn nhận một sản phẩm hàng hoá dịch vụ
nào đó thì buộc họ phải đưa ra một lượng giá trị tương đương để trao đổi theo
nguyên tắc ngang giá. Cịn khi thụ hưởng hàng hố dịch vụ cơng cộng thì việc
trả các chi phí phức tạp hơn. Cụ thể :
+ Hàng hố cơng cộng do Nhà nước cung cấp thì việc thu hồi chi phí
thực hiện theo giá quy định của Nhà nước; giá này thường ít bị chi phối bởi
quy luật thị trường.
+ Đối với dịch vụ công cộng vơ hình do Nhà nước cung cấp, việc lượng
hố chi phí cụ thể để từng người dân phải trả khi thụ hưởng các dịch vụ này

theo nguyên tắc ngang giá là rất khó thực hiện, nên việc thu hồi chi phí trực
tiếp cũng rất khó khăn. Do vậy, nhiều nước trên thế giới đều dùng công cụ
thuế (chủ yếu là thuế gắn thu để thu hồi các chi phí này).
+ Đối với dịch vụ cơng cộng hữu hình do Nhà nước cung cấp, thì Nhà
nước cũng phải xác định "giá phí" mà người thụ hưởng phải thanh tốn. Tuy
nhiên "giá phí" này thường thường khơng hồn tồn vì mục đích kinh tế, mà
cịn mang ý nghĩa chính trị, xã hội....Do đó, chúng phổ biến là khơng tính đủ
chi phí và không bị chi phối nhiều bởi các yếu tố thị trường.
Như vậy, thu phí của Nhà nước thực chất là Nhà nước thu hồi một phần
hay toàn bộ chi phí đầu tư cung cấp dịch vụ cơng cộng hữu hình cho xã hội,

17


đồng thời cũng là các khoản chi phí mà người dân phải trả khi thụ hưởng các
dịch vụ công cộng đó.
Ngồi ra, trong q trình hoạt động, một số cơ quan thuộc bộ máy Nhà
nước còn cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý cụ thể cho dân chúng.
Người dân thụ hưởng dịch vụ này cũng phải trả một phần chi phí. Tuy thế,
việc thu khoản tiền này hồn tồn khơng có ý nghĩa là thu hồi một phần chi
phí do cơ quan của bộ máy Nhà nước bỏ ra, ở đây khơng phải là thu phí,
khơng phải là giá dịch vụ, mà khoản thu này chủ yếu phục vụ yêu cầu quản lý
Nhà nước. Người dân thụ hưởng dịch vụ này có nghĩa vụ nộp cho Nhà nước
một khoản tiền. Đây chính là các khoản lệ phí. Như vậy, lệ phí là khoản thu
phát sinh ở các cơ quan của bộ máy chính quyền Nhà nước có cung cấp dịch
vụ cơng cộng về hành chính, pháp lý cho dân chúng. Lệ phí thường là khoản
thu nhỏ, rải rác, lẻ tẻ, chủ yếu phát sinh ở các địa phương.
Thu phí và lệ phí nhằm tạo nên thu nhập, bù đắp chi tiêu của Nhà nước
ở các lĩnh vực tạo ra hàng hố dịch vụ cơng cộng, hành chính, pháp lý, góp
phần thực hiện cơng bằng xã hội khi hưởng thụ các hàng hố dịch vụ cơng

cộng của dân chúng. Đồng thời, qua việc thu phí và lệ phí, Nhà nước thực
hiện việc quản lý và kiểm sốt có hiệu quả hơn các hoạt động xã hội trong
khuôn khổ pháp luật, giúp cho người dân nâng cao ý thức trách nhiệm đối với
các giá trị vật chất và tinh thần của cộng đồng xã hội.
Thu thuế, phí và lệ phí là những khoản thu thường xuyên, chiếm từ 90 95% trong tổng số thu NSNN.
- Ngoài những khoản thu thường xun, chúng ta cịn có những khoản
thu khơng thường xun:
+ Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước (như thu hồi vốn,
chia lãi góp vốn, thu hồi tiền vay, phụ thu, thu chênh lệch giá vv....);

18


+ Thu sự nghiệp: Đây là khoản thu gắn liền với hoạt động sự nghiệp;
+ Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước;
+ Thu tiền sử dụng đất, thu tiền cho thuê đất;
+ Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội;
+ Tiền bán tài sản, cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước trong các
đơn vị hành chính sự nghiệp;
+ Các di sản Nhà nước được hưởng;
+ Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước. Đây là khoản đóng góp thường mang tính chất nhân đạo;
+ Thu tiền kết dư ngân sách năm trước;
+ Thu tiền phạt, tiền bán hàng tịch thu;
+ Thu viện trợ bằng tiền, bằng hiện vật của Chính phủ các nước, các tổ
chức và các cá nhân nước ngoài;
+ Các khoản vay trong nước, vay nước ngồi của Chính phủ để bù đắp
bội chi ngân sách và các khoản huy động vốn đầu tư của các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương;

+ Các khoản thu khác theo pháp luật quy định: Là những khoản thu
không quy định ở trên, như: Thu về hợp tác lao động với nước ngoài, thu hồi
tiền thừa năm trước [17].
1.2.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN
Như đã phân tích ở trên, nguồn thu NSNN là tổng thu nhập quốc nội
nhưng số thu NSNN lại đặc trưng bởi tỷ lệ động viên nguồn thu. Đó là nội
dung chính của thu NSNN là xác định mức động viên và các lĩnh vực cần
động viên. Việc xác định đúng đắn mức động viên và các lĩnh vực động viên

19


khơng những ảnh hưởng đến số thu NSNN mà cịn có tác động đến q trình
phát triển kinh tế xã hội. Mức động viên và các lĩnh vực động viên của thu
NSNN chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia. Song trong thực tế, những nhân tố chủ yếu sau đây ảnh hưởng trực
tiếp đến thu NSNN:
- Thu nhập GDP bình quân đầu người: Chỉ tiêu thu nhập GDP bình
quân đầu người phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển của một quốc gia,
phản ảnh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập
GDP bình quân đầu người càng cao thì khả năng tiêu dùng của dân chúng
được bảo đảm, đồng thời người dân cũng có điều kiện tiết kiệm để đầu tư vào
sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Ngược lại nếu mức thu nhập GDP bình qn đầu người q thấp khơng đủ để
tiêu dùng, thì sẽ khơng có nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Như vậy thu
nhập GDP bình quân đầu người là yếu tố thu khách quan quyết định mức độ
động viên của NSNN: Thu nhập càng cao thì tỷ lệ động viên càng cao và
ngược lại.
- Nguồn thu tiềm năng: Nó thể hiện khả năng thu trong tương lai nhưng
rất dễ trở thành hiện thực trong hiện tại. Trong nguồn thu tương lai thì tài

ngun và khống sản có ý nghĩa quan trọng nhất.
- Mức độ trang trải chi phí của Chính phủ: Thu NSNN là nhằm mục
đích trang trải các chi phí của Chính phủ. Mức độ trang trải chi phí của Chính
phủ phụ thuộc vào:
+ Quy mơ tổ chức và hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước;
+ Đường lối, chủ trương và các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh trong từng thời kỳ lịch sử;
+ Cơ chế chính sách của Nhà nước về sử dụng kinh phí.

20


- Tổ chức bộ máy thu nộp: Trong quá trình thu NSNN cần tổ chức bộ
máy thu nộp. Bộ máy thu NSNN phải tổ chức gọn nhẹ nhưng bao quát hết
toàn bộ nguồn thu, thu đúng, thu đủ, thu theo Luật định. Bộ máy thu ngân
sách phải đảm bảo được nguyên tắc thu ngân sách nhiều nhất, chi phí thu ít
nhất.
Ngồi ra thu ngân sách Nhà nước cịn chịu ảnh hưởng của một số nhân
tố khác, như hoạt động kinh tế đối ngoại, sự ổn định về chính trị - xã hội
.v.v... [17].
1.2.4. Phân định nguồn thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương
1.2.4.1. Nguồn thu từ các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%
Bao gồm: Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu; thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu; thuế thu nhập doanh
nghiệp của các đơn vị hạch tốn tồn ngành; các khoản thuế và thu khác từ
các hoạt động thăm dị, khai thác dầu khí, tiền thuê mặt đất, mặt nước; tiền
thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho
vay của ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ quỹ dự trữ tài chính của
trung ương, thu nhập từ vốn góp của ngân sách trung ương. Viện trợ khơng

hồn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài
cho chính phủ Việt Nam; phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ
các khoản phí và lệ phí do các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu
khơng kể phí xăng, dầu và lệ phí trước bạ; phần nộp ngân sách theo quy định
của pháp luật các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị do các cơ quan trung
ương trực tiếp quản lý; chênh lệch thu lớn hơn chi của ngân hàng nhà nước
Việt Nam; thu kết dư ngân sách trung ương; thu chuyển nguồn ngân sách từ
ngân sách TW năm trước chuyển sang; các khoản phạt tịch thu và thu khác
của ngân sách TW theo quy định của pháp luật [24].

21


1.2.4.2. Nguồn thu từ các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%
Bao gồm: Thuế nhà, đất; thuế tài nguyên không kể thuế tài nguyên thu
được từ hoạt động dầu khí; thuế mơn bài; thuế chuyển quyền sử dụng đất; tiền
cho thuê đất, thuê mặt nước không kể tiền thuê mặt nước thu từ hoạt động dầu
khí, tiền đền bù thiệt hại đất; tiền thuê bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước; lệ
phí trước bạ; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; thu nhập từ vốn góp của ngân
sách địa phương; tiền thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các cơ sở kinh
tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh; viện trợ khơng hoàn lại của các tổ
chức cá nhân nước ngoài trực tiếp cho địa phương theo quy định của pháp
luật.
Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí
do các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu, khơng kể phí xăng, dầu
và lệ phí trước bạ; Thu từ quỹ đất cơng ích và thu hoa lợi công sản khác; phần
nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các
đơn vị do địa phương quản lý. Huy động từ các tổ chức cá nhân theo quy định
của pháp luật; đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân ở trong và ngoài
nước; thu từ huy động xây dựng.

Các cơng trình kết cấu hạ tầng theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của
Luật ngân sách nhà nước; thu từ kết dư ngân sách địa phương; các khoản
phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách địa phương theo quy định của pháp
luật; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên; thu chuyển nguồn từ ngân sách địa
phương năm trước sang ngân sách địa phương năm sau [24].
1.2.4.3. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương
Do điều kiện kinh tế - xã hội, tự nhiên của các địa phương khác nhau,
trình độ phát triển khơng đều, do đó số thu và yêu cầu chi của địa phương

22


cũng khơng giống nhau. Vì vậy, ngồi các khoản thu từng cấp được hưởng
100% nêu trên, Luật ngân sách năm 2002 ở nước ta cịn quy định có một số
khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách các cấp trung ương
và địa phương (tỉnh, thành phố). Các khoản đó là: Thuế giá trị gia tăng (khơng
kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu) và thuế giá trị gia tăng thu từ hoạt
động xổ số kiến thiết; Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập
doanh nghiệp của các đơn vị hoạch tốn tồn ngành (theo quy định của Bộ
Tài chính) và thuế thu nhập từ các hoạt động xổ số kiến thiết. Thuế thu nhập
với người có thu nhập cao (khơng kể các khoản thuế và thu khác từ hoạt động
thăm dò, khai thác dầu khí, tiền thuê mặt đất, mặt nước); thuế tiêu thu đặc biệt
thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước (không kể thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ
hoạt động xổ số kiến thiết, phí xăng, dầu).
Tỷ lệ phần trăm các khoản thu phân chia chính là cái “van” điều chỉnh
nguồn thu giữa các địa phương, bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa các địa
phương. Địa phương nào có điều kiện phát triển kinh tế thuận lợi, có nguồn
thu lớn thì tỷ lệ (%) này thấp; ngược lại, địa phương nào kinh tế chậm phát
triển, nguồn thu nhỏ thì tỷ lệ này tăng lên. Tỷ lệ phân chia này do Chính phủ

quyết định cho tất cả các khoản thu phân chia, được xác định riêng từng tỉnh
(thành phố).
Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu (và bổ sung cân đối từ
ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới) được ổn định từ 3-5 năm (gọi là
thời kỳ ổn định ngân sách). Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương
được sử dụng nguồn tăng thu ngân sách hàng năm (phần ngân sách địa
phương được hưởng) để chi cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối,
phát triển ngân sách tại địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung ngân sách

23


từ cấp trên hoặc tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết thu nộp về ngân sách cấp trên
(đối với các địa phương có điều tiết ngân sách về cấp trên) [24].
Các khoản thu phân chia giữa ngân sách tỉnh (thành phố) với ngân sách
huyện (thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) gồm: Thuế chuyển quyền sử dụng
đất; thuế nhà đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng
đất nơng nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà đất.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nguồn thu cho các cấp chính quyền
huyện, xã theo nguyên tắc phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế; phân định
nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi ổn định
theo thời gian của thời kỳ ổn định ngân sách. Kết thúc mỗi thời kỳ ổn định ngân
sách sẽ có sự điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) và bảo đảm yêu cầu sau:
- Gắn với nhiệm vụ và khả năng quản lý của từng cấp, hạn chế việc bổ
sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; khuyến khích các cấp
tăng cường quản lý thu, chống thất thu, hạn chế phân chia nguồn thu quy mô
nhỏ cho nhiều cấp.
- Ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% đối với 5 khoản thu:
Thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà đất; thuế môn bài thu từ cá nhân,

hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước
bạ nhà đất.
- Ngân sách thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50%
khoản thu lệ phí trước bạ (khơng kể lệ phí trước bạ nhà đất).
Như vậy, Luật ngân sách năm 2002 một mặt khẳng định quyền của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nguồn thu ngân sách của cấp huyện, xã,
mặt khác lại mở rộng nguồn thu tối thiểu là 70% (5 nguồn thu) và cấp huyện
được hưởng 50% nguồn thu lệ phí trước bạ (Luật ngân sách năm 1996 chưa
quy định như vậy).

24


Luật ngân sách năm 2002 quy định các tỷ lệ 70% và 50% chỉ là tỷ lệ
phần trăm tối thiểu, HĐND tỉnh vẫn là cơ quan quy định nguồn thu và tỷ lệ
phân chia. Tỷ lệ phân chia của TW cho tỉnh và tỉnh với cấp huyện được thực
hiện theo nguyên tắc: Mỗi địa phương có một tỷ lệ thống nhất cho các khoản
thu phân chia (tỷ lệ thống nhất cho các khoản thu thuộc diện phân chia). Tỷ lệ
này được tính theo cơng thức dưới đây và thơng báo cho các địa phương vào
năm đầu thời kỳ ổn định.
Tỷ lệ phần trăm (%) =

A-B
C

x 100%

Trong đó:
* A là tổng số chi ngân sách địa phương (không bao gồm số bổ sung).
* B là tổng số các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100%

(không bao gồm số bổ sung).
* C là tổng số các khoản thu được phân chia giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương.
- Nếu A-Bphương, phần cịn lại được điều tiết về cho ngân sách trung ương.
- Nếu A-B>C thì tỷ lệ % chỉ được tính bằng 100% và phần chênh lệch
(A-B-C) sẽ được cấp bổ sung thêm từ ngân sách trung ương.
- Nếu A-B=C thì tỷ lệ % là 100% và địa phương tự cân đối [24].
1.2.5. Phân định nhiệm vụ thu đối với ngân sách cấp huyện, quận
Theo quy định của Luật, huyện (quận) là một cấp ngân sách thuộc ngân
sách địa phương và là một cấp ngân sách hoàn chỉnh thuộc Ngân sách nhà
nước. Ủy ban nhân dân cấp huyện là người điều hành ngân sách cấp mình.
Nguồn thu 100% của huyện bao gồm: Thuế mơn bài (trừ thuế môn bài
thu từ các cá nhân và nhóm kinh doanh nhỏ ở xã, thị trấn); các khoản phí, lệ
phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc cấp huyện quản lý; tiền thu từ hoạt
động sự nghiệp của các cơ quan, đơn vị do cấp huyện quản lý; viện trợ không

25


×