Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Một số biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú_2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 85 trang )

Header Page 1 of 95.

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Rủi ro tín dụng luôn là n ổi lo lắng cho các ngân hàng. Dù xẩy ra ít hay nhiều
thì nó cũng làm giảm lợi nhuận cũng như giảm nguồn vốn tự có của các ngân hàng.
Do vậy, nếu rủi ro tin
́ du ̣ng không đư ợc kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tỷ lệ các khoản
cho vay mất vốn tăng lên quá cao, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá
sản. Theo nghiên cứu của Corsetti được thực hiện năm 1998 thì chính khủng hoảng
tài chính là nguyên nhân quan trọng nhất trong việc dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn tại
các ngân hàng tăng cao là một trong những yếu tố chính dẫn đến khủng hoảng.
Trước khi khủng hoảng xẩy ra thì tỷ lệ nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại
Thái Lan là 13%, Indonesia là 13%, Phillipines là 14%, Malaysia là 10%.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu năm 2007 – 2009 vừa qua cho thấy
sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ với xuất phát điểm đầu tiên là từ rủi ro tín dụng
gây ra. Theo công bố của cục dự trữ liên bang Mỹ, hàng loạt ngân hàng lâu đời và có
tiềm lực tài chính mạnh vào bậc nhất thế giới vẫn không thể thoát nổi. Chỉ có 26 ngân
hàng phá sản trong năm 2008 nhưng năm 2009 con số này đã lên tới 140 ngân hàng –
một con số không hề nhỏ.
Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng đặc biệt có mục đích đưa chính
sách ưu đãi tín dụng đến các hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Hoạt động của
ngân hàng không đưa mục đích lợi nhuận lên hàng đầu mà nhằm giúp giảm khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội. Tuy nhiên không phải vì thế mà các ngân hàng này
lơ là với rủi ro tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng càng tốt, thì kết quả đầu tư càng
cao hay nói khác hơn điều này dẫn đến mục tiêu của Đảng và Nhà nước ổn định xã
hội càng có kết quả tốt. Có quản lý tốt, đầu tư hợp lý thì đời sống người dân mới
được cải thiện đảm bảo dân giàu nước mạnh.
Quá trình hoạt động vừa qua, ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú,
HCM đã gặt hái được nhưng thành công nhất định. Đã có hàng trăm hộ thoát


nghèo vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động cho vay hộ nghèo tại
Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page1 of 95.


Header Page 2 of 95.

đây hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn hạn chế như nguồn vốn huy động thiếu tính
ổn định cũng như qui mô cho vay còn nhỏ, thêm vào đó điều kiện cho vay còn
thiếu rõ ràng, và đặc biệt, thủ tục cho vay còn rườm rà...
Để nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động cho vay hộ nghèo nói chung và hạn
chế rủi ro xẩy ra, cho vay hộ nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú
tại thành phố HCM cần tìm được các giải pháp thiết thực phù hợp nhất, thiết thực
nhất để hạn chế tối đa việc xẩy ra rủi ro tín dụng.
Với ý nghĩa trên, là một cán bộ đang công tác lâu năm trong ngành tại ngân
hàng chính sách Quận Tân Phú, tác giả mạnh dạn đóng góp quan điểm của mình
qua đề tài: “Một số biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân
hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú” với hy vọng tìm được các giải pháp phù
hợp, nhất là những giải pháp mang tính đột phá.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hạn chế rủi ro tín dụng đối với hộ nghèo tại
Ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ thực hiện các nội
dung nghiên cứu sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản trị rủi ro tín dụng.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
chính sách xã hội Quận Tân Phú.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là rủi ro tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận
Tân Phú.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page2 of 95.


Header Page 3 of 95.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Đề tài chọn nghiên cứu cán bộ, nhân viên và khách hàng đã sử
dụng dịch vụ tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú.
- Thời gian: Từ năm 2012- 2015
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp: chủ yếu sử dụng phương pháp
thống kê, so sánh, tổng hợp từ các dữ liệu thứ cấp để phân tích, đánh giá thực trạng
rủi ro tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú. Nguồn dữ liêu thứ
cấp được thu thập từ các số liệu báo cáo của Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng
chính sách xã hội Quận Tân Phú. số liệu thống kê báo cáo của tổng cục thống kê,
số liệu trên web, các báo cáo tình hình kinh tế xã hội, các đề tài liên quan; sách
báo, tạp chí chuyên ngành.
Phương pháp nghiên cứu theo hướng tư duy logic: đi từ lý thuyết đến thực
tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng, hình vẽ và
biểu đồ, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng.
- Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã
hội Quận Tân Phú.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
chính sách xã hội Quận Tân Phú.

- Kết luận.
- Tài liệu tham khảo.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page3 of 95.


Header Page 4 of 95.

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN
TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1Tín dụng
1.1.1 Khái niệm về tín dụng
“Tín dụng được xem là một hoạt động giao dịch về tài sản, tài sản này có thể
là tiền hoặc hàng hoá, giữa bên cho vay (có thể là ngân hàng hoặc các định chế tài
chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiêp (DN) và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao phần tài sản của mình cho bên đi vay, bên đi
vay được sử dụng tài sản đó trong một thời hạn nhất định như theo thỏa thuận
đồng thời bên đi vay có trách nhiệm sẽ thực hiện hoàn trả vô điều kiện phần vốn
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến thời gian thanh toán” [3]. Từ nội dung trên cho
thấy, hoạt động tín dụng là việc mà tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có
của mình hoặc nguồn vốn huy động để cấp tín dụng cho một đối tượng khác đang
cần.
Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động mà tổ chức tín dụng đồng ý để khách
hàng được quyền sử dụng một khoản tiền và hoàn trả cho mình với khoản tiền đó
cộng thêm một phần lợi nhuận mà hai bên đã thỏa thuận. Hoạt động này được thực
hiện bằng các nghiệp vụ cho vay, nghiệp vụ chiết khấu hay cho thuê tài chính, bảo
lãnh ngân hàng hoặc các dịch vụ khác.
Từ phân tích trên, tác giả kết luận rằng: Cho vay cũng là một hình thức cấp
tín dụng trong đó tổ chức tín dụng sẽ giao cho khách hàng được sử dụng một
khoản tiền vào mục đích và thời gian nhất định. Tuy nhiên khách hàng phải thực

hiện hoàn trả cả gốc và lãi theo thỏa thuận.
1.1.2 Bản chất tín dụng
Khái niệm tín dụng xuất phát từ thuật ngữ La tinh “credittum”, thuật ngữ này
có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển
lâu đời với sự phát triển lâu dài của xã hội. Tuy nhiên, dù ở trong bất kỳ môi

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page4 of 95.


Header Page 5 of 95.

trường xã hội nào, đối tượng trao đổi trong mối quan hệ này có thể là hàng hóa
hoặc tiền tệ thì bản chất của tín dụng được thể hiện qua các nội dung sau:
- Quan hệ tín dụng này thực chất là quan hệ vay mượn của hai bên.
- Niềm tin và sự hoàn trả là nền tảng để thực hiện quan hệ tín dụng.
Tuy nhiên, giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay ban
đầu, hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
1.1.3. Phân loại tín dụng:
Tùy những góc độ khác nhau của các nhà nghiên cứu mà tín dụng được phân
chia những cách khác nhau. Cụ thể:
“Căn cứ theo mục đích thì tín dụng được chia ra tín dụng cho vay bất động
sản; tín dụng cho vay công nghiệp và thương mại; hoạt động cho vay nông nghiệp;
hoạt động cho vay các định chế tài chính; hoạt động cho vay cá nhân và hoạt động
cho thuê tài chính” [3].
“Nếu căn cứ theo thời gian cho khách hàng vay thì hoạt động này được chia
thành hoạt động cho vay ngắn hạn; hoạt động cho vay trung hạn và hoạt động cho
vay dài hạn” [3].
“Căn cứ vào niềm tin đối với khách hàng thì hoạt động này chia thành cho
vay không bảo đảm và cho vay có bảo đảm” [3].
“Nếu căn cứ vào phương pháp hoàn trả thì hoạt động tín dụng được chia

thành hoạt động cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp: chiết khấu thương mại;
mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp; nghiệp vụ
bao thanh toán (nghiệp vụ factoring); bảo lãnh….”[3].
1.2.Rủi ro tín dụng
1.2.1.Các khái niệm về rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là vấn đề đặc biệt được quan tâm không chỉ ở phạm vi các
ngân hàng mà còn trong toàn nền kinh tế. Có nhiều khái niệm về rủi ro tín dụng,
gồm:

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page5 of 95.


Header Page 6 of 95.

Theo hai nhà kinh tế “A. Saunder và H. Lange [Financial Institutions
Management – A Modern Perpective]” [2] thì rủi ro tín dụng được định nghĩa là
“khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả
năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không
thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời gian” [2]. Theo quan niệm của ủy
ban Basel thì “Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay hoặc bên đối tác của
ngân hàng không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận” [2] [Basel Committee on
Banking Supervision (September 2000), Principal for the Management of Credit
Risk] [2]. Theo khái niệm này thì rủi ro tín dụng có phạm vi khá rộng, không chỉ
trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng mà trong cả các hoạt động
khác như đầu tư, phái sinh mà ngân hàng thực hiện. Tuy nhiên, như đã giới thiệu
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án chỉ nghiên cứu rủi ro tín dụng trong
hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng, vì vậy rủi ro tín dụng có thể hiểu đơn giản
là sự vi phạm không hoàn trả nợ từ phía khách hàng vay.
Theo cách hiểu tại các ngân hàng Việt Nam thì “Rủi ro tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng

không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết” [2] [quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005]. Như vậy, từ nhiều
định nghĩa khác nhau, đa dạng, có thể tóm lược nội dung về rủi ro tín dụng như
sau: Rủi ro tín dụng là rủi ro do bên được cấp tín dụng, bên có nghĩa vụ hoặc đối
tác không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ
nghĩa vụ của mình theo cam kết.
1.2.2.Phân loại rủi ro tín dụng:
Cơ cấu thành phần của rủi ro tín dụng bao gồm (i) Rủi ro giao dịch
(Transaction risk) và (ii) Rủi ro danh mục (Portfolio risk) [Hồ Diệu (2002), Quản
trị ngân hàng, nhà xuất bản Thống kê].
1.2.2.1. Rủi ro giao dịch
Rủi ro giao dịch có 3 thành phần là: Rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro
nghiệp vụ.
Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page6 of 95.


Header Page 7 of 95.

+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến quá trình thẩm định, phân tích tín
dụng của ngân hàng để lựa chọn khách hàng cấp tín dụng. Trong quá trình này,
ngân hàng rất dễ mắc phải sự lựa chọn sai lầm do hiện tượng “thông tin bất cân
xứng” xuất hiện.
+ Rủi ro bảo đảm xuất phát từ các tiêu chuẩn bảo đảm cho giao dịch giữa
ngân hàng và khách hàng được diễn ra một cách suôn sẻ và an toàn cho ngân hàng.
Các quy định hoặc tiêu chuẩn về tài sản bảo đảm, vốn tự có đối ứng, các thỏa thuận
trên hợp đồng tín dụng là nhằm hạn chế rủi ro trong giai đoạn này.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến các thao tác trong quá trình thực
hiện khoản tín dụng. Ở đây những sai sót của nhân viên cấp tín dụng trong quá
trình giải ngân, giám sát theo dõi khoản tín dụng có thể là xuất phát điểm cho các
rủi ro từ đạo đức của khách hàng nảy sinh. Chẳng hạn việc lơ là không thực hiện

các giám sát sau khi giải ngân, có thể khiến người vay nảy sinh ý đồ sử dụng sai
mục đích, làm thất thoát tiền vay, việc bỏ qua các thủ tục pháp lý cần thiết trước
khi giải ngân cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến việc chiếm dụng vốn từ phía
khách hàng.
1.2.2.2 Rủi ro danh mục
Rủi ro danh mục được phân ra hai loại là rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro
tập trung (Concentration risk)
+ Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố mang tính riêng biệt của mỗi chủ thể
đi vay hoặc ngành kinh tế. Chẳng hạn như biến cố rủi ro từ thiên tai, mất mùa đặc
trưng trong ngành nông nghiệp, hoặc yếu tố tồn kho ứ đọng trong ngành công
nghiệp, xây dựng…Vì gắn liền với chủ thể /đối tượng được cấp tín dụng nên rủi ro
nội tại là yếu tố không thể triệt tiêu được.
+ Rủi ro tập trung xuất phát từ việc dồn vốn cho một số ít khách hàng, một số
ngành kinh tế hẹp, một số loại hình cho vay hoặc một khu vực địa lý, đi ngược lại
với nguyên tắc đa dạng hóa để phân tán rủi ro. Cũng vì sự xuất hiện của rủi ro nội
tại và đặc tính không thể triệt tiêu của rủi ro nội tại nên việc đa dạng hóa để hạn

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page7 of 95.


Header Page 8 of 95.

chế và kiểm soát rủi ro tập trung là vấn đề cần thiết đối với các ngân hàng trong
quá trình cấp tín dụng.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
Để nghiên cứu rủi ro tín dụng, cần phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến rủi ro.
các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có những nguyên nhân khách
quan từ môi trường bên ngoài và những nguyên nhân do chủ thể tham gia quan hệ
tín dụng.
1.2.3.1. Nguyên nhân khách quan.

Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
+ Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế. Quá trình
tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra
một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách
hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật
chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh trạnh của các
ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế
cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp nguy
cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị
các ngân hàng nước ngoài thu hút.
+ Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng
hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành. Tình trạng này cũng có thể kéo theo việc
tập trung đầu tư tín dụng quá mức của các ngân hàng thương mại cho một số ngành
kinh tế “thời thượng” nào đó, như kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng
khoán…và hệ quả không tránh khỏi là rủi ro tín dụng tập trung trên danh mục của
các ngân hàng thương mại.
+ Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ
tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại
lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và
đây cũng là một hiện tượng khách quan. Ở các quốc gia đang phát triển, trong đó
có Việt Nam, sự cạnh tranh diễn ra một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với
Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page8 of 95.


Header Page 9 of 95.

sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hóa lao động, thể
hiện sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước
+ Khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng tình hình kinh tế vĩ mô trong nước

dẫn đến các trường hợp bất ổn về các chỉ số tài chính như lạm phát cao, mất thăng
bằng cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái không ổn định… có thể là các tác
nhân dẫn đến rủi ro trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua các khách hàng) cho ngân
hàng.
 Rủi ro do môi trƣờng pháp lý không thuận lợi
+ Sự chồng chéo, kém hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật nhà nước,
hành lang pháp luật yếu, thường xuyên thay đổi và không đồng bộ, việc thực thi
pháp luật một cách chậm chạp có thể là một trong những nguyên nhân khách quan
dẫn đến rủi ro cho các ngân hàng thương mại. Đây là điều không tránh khỏi tại các
quốc gia kém hoặc đang phát triển.
+ Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của cơ quan giám sát
ngân hàng. Đây là nhân tố có tác động hai chiều đối với hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Ở chiều tích cực, nếu cơ quan giám sát ngân hàng hoạt động có
hiệu quả, sẽ tạo ra một hiệu ứng tốt, có tác dụng cảnh báo rủi ro từ xa cho các ngân
hàng thương mại. Nhưng ngược lại, sự trì trệ yếu kém của cơ quan giám sát ngân
hàng có thể tạo tâm lý ỷ lại, thiếu chủ động của các ngân hàng thương mại trong
việc phòng chống rủi ro, dẫn đến nhiều khi xử lý rủi ro chậm trễ, hậu quả khắc
phục rất thấp.
+ Hệ thống quản lý và cung cấp thông tin, hỗ trợ cho hoạt động của các ngân
hàng thương mại còn bất cập. Chủ trương chính sách quản lý của Ngân hàng nhà
nước, các cơ quan có liên quan đến hoạt động của hệ thống ngân hàng mang tính
ngắn hạn, hình thức, có định hướng ép buộc hơn là khoa học trong quản lý. Đó
cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín
dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu
các ngân hàng thương.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page9 of 95.


Header Page 10 of 95.


1.2.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn.
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu
kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì,… là các nguyên
nhân gây rủi ro tín dụng:
Thứ nhất, khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ ngân hàng.
- Khách hàng yếu kém trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính: Trường
hợp người vay có trình độ yếu kém về quản lý, không tính toán kỹ lưỡng hoặc
không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những rủi ro có thể xẩy ra để nhằm phản
ứng một cách chủ động cũng như khắc phục khó khăn trong kinh doanh vì thế sẽ
dẫn tới vốn vay không được sử dụng hiệu quả. Ngoài ra, việc yếu kém trong quản
lý tài chính có thể dẫn tới trường hợp dù dự án hay quá trình sản xuất kinh doanh
có hiệu quả song nguồn trả nợ ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Như vậy doanh
nghiệp không có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng.
- Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Khi người vay
gặp những rủi ro từ thị trường (ví dụ nhu cầu về loại sản phẩm của doanh nghiệp
bất ngờ giảm sút do một số thông tin bất lợi), từ bạn hàng (ví dụ khách hàng bị bạn
hàng chiếm dụng vốn và không hoàn trả đúng thời hạn quy định) hoặc từ những rủi
ro không dự kiến được tác động đến nguồn thu của doanh nghiệp và khả năng trả
nợ ngân hàng.
Thứ hai, khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng.
- Trường hợp này người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho
ngân hàng đúng hạn hoặc không muốn trả nợ ngân hàng. Họ chây ì với hy vọng có
thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
- Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi
cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức phát sinh do các hành động có tác động đến
hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được và vì thế những người thực hiện
các hành động này có thể chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở
gây tổn hại cho người khác. Rủi ro đạo đức trong lĩnh vực tài chính xảy ra sau khi
cấp tín dụng, những người được cấp tín dụng luôn có xu hướng muốn thực hiện


Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page10 of 95.


Header Page 11 of 95.

các đầu tư rủi ro hơn những người cho vay mong đợi, vì chủ đầu tư sẽ có được
những khoản lợi nhuận rất lớn nếu dự án thành công, trong khi những người cấp
tín dụng chỉ nhận được một khoản lợi ích cố định. Ngược lại, nếu dự án thất bại thì
bên cho vay sẽ bị mất một phần hoặc toàn bộ vốn do không được hoàn trả đầy đủ.
1.2.3.3. Nguyên nhân từ bản thân ngân hàng.
Ngoài những nguyên nhân vừa nêu, rủi ro xuất phát từ phía ngân hàng cũng
có khả năng rất lớn
Thứ nhất, quan điểm của lãnh đạo điều hành.
Rủi ro xẩy ra do ban lãnh đạo ngân hàng chấp nhận mức rủi ro cao. Do rủi ro
càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn, nên có một số ngân hàng chấp nhận cho
vay những dự án mạo hiểm để thu về lợi nhuận cao. Nếu ngân hàng thương mại có
quan điểm đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên nhất thì cơ chế quản lý sẽ khuyến khích
và tạo điều kiện để bộ phận có liên quan tìm kiếm, quyết định những khoản cho
vay, đầu tư có thu nhập kỳ vọng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời các quy
định khác có liên quan về kiểm tra, kiểm soát, đặc biệt là tiêu chuẩn để xem xét,
đánh giá khi quyết định cho vay cũng sẽ đề ra thấp hơn so với tiêu chí về khả năng
sinh lời rất được coi trọng. Trường hợp ngược lại nếu quan điểm kinh doanh lấy an
toàn làm chính thì các quy định về cơ chế quản lý tài sản trong việc thẩm định,
xem xét trước khi ra quyết định đầu tư hay cho vay sẽ chặt chẽ hơn, rõ ràng hớn,
cụ thể hơn, các tiêu chuẩn để phục vụ cho việc ra quyết định, việc kiểm tra, giám
sát cũng được đặt ở mức cao hơn, các ngân hàng thương mại phải biết lựa sức
mình để xác định lợi nhuận hợp lý.
Thứ hai, sự yếu kém về công nghệ của ngân hàng.
Ngày nay trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh doanh

ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý rủi ro tín dụng. Khi công nghệ ngày càng
cao, thì dự liệu ngân hàng thu thập được sẽ nhiều. Đây sẽ là nền tảng giúp cho
ngân hàng sàng lọc những khách hàng, ngành nghề đang có mức độ rủi ro cao
nhằm hạn chế rủi ro ở từng khách hàng. Ngày nay, tất cả các quốc gia đều nhận
thấy vai trò to lớn mà công nghệ đem lại do vậy gần như công nghệ ngân hàng gần

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page11 of 95.


Header Page 12 of 95.

như được ứng khá phổ biến thể hiện ở mức độ tập trung thông tin, ở khả năng phân
tích, xử lý thông tin, từ đó rút các kết luận, nhận định phục vụ cho quản trị ngân
hàng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng, tình hình phân bổ tài sản, mức độ
tập trung rủi ro.... công nghệ của ngân hàng còn thể hiện khả năng chi phối, kiểm
soát đối với hoạt động của các bộ phận tác nghiệp. Ở mỗi trình độ công nghệ khác
nhau đều phải đòi hỏi một cơ chế quản lý khác nhau.
Thứ ba, trình độ của cán bộ ngân hàng.
Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc được
các khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng là người tiếp xúc trực tiếp với nhiều
khách hàng ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, nhiều vùng, lãnh thổ, thậm chí
nhiều quốc gia khác nhau, là người đưa ra các đánh giá tốt hay xấu, rủi ro hay an
toàn trong các giao dịch sắp, đang và đã xẩy ra. Muốn đưa ra các quyết định đúng
đắn về khách hàng thì họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh
doanh, môi trường mà khách hàng sống. Cán bộ tín dụng phải có khả năng dự báo
các vấn đề liên quan đến khách hàng vay. Như vậy, cán bộ tín dụng phải được đào
tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng và toàn diện. Khi cán bộ tín dụng cho vay đối với khách
hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng rủi ro tín dụng luôn rình rập họ.
Nguyên nhân rủi ro từ sự yếu kém của đội ngũ nhân viên ngân hàng có thể từ việc:
Không phân tích đầy đủ khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng. Trong

doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo rất quan trọng, sự thành bại trong hoạt
động phụ thuộc rất nhiều vào định hướng và ra quyết định của người lãnh đạo
doanh nghiệp đó. Nếu cho vay mà không đánh giá đúng khả năng của người quản
lý sẽ dễ dẫn đến tổn thất.
Phân tích báo cáo tài chính không chính xác, không biết đánh giá món vay có
hiệu quả thật hay sẽ có nhiều rủi ro. Với doanh nghiệp nào đó đang trong tình trạng
suy thoái mà nhân viên ngân hàng yếu kém trong việc đánh giá phân tích cho vay
thì món vay đó sẽ khó thu hồi được.
Kiến thức về mặt kinh tế xã hội luật pháp của nhân viên ngân hàng hạn chế,
không nắm vững được quy chế thể lệ tín dụng cũng dẫn đến rủi ro. Khi người đi

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page12 of 95.


Header Page 13 of 95.

vay không lường hết rủi ro mà nhân viên ngân hàng cũng không hiểu biết để tư vấn
cho khách hàng thì khi doanh nghiệp bị thua lỗ sẽ không thể trả nợ ngân hàng.
Việc định kỳ hạn trả nợ không chính xác, sau khi cho vay ngân hàng thiếu sự
giám sát theo dõi để người vay sử dụng vốn sai mục đích, không có biện pháp xử
lý kịp thời cũng dẫn đến rủi ro tín dụng.
Thứ tư, đạo đức của cán bộ tín dụng.
Với các khoản vay càng nhiều rủi ro và không đảm bảo những điều kiện tín
dụng, người đi vay thường bỏ ra những khoản “hoa hồng” rất lớn để có thể vay
được tiền. Vì thực tế này nên đã có một số cán bộ tín dụng cố ý lờ đi các quy định,
hay bỏ bớt một số bước của quy trình để móc nối với khách hàng nhằm nhận được
khoản tiền “hoa hồng” và chính điều này đã đẩy giao dịch tín dụng đó có rủi ro
tăng cao. Bởi vậy, chất lượng cán bộ tín dụng bao gồm cả trình độ chuyên môn và
đạo đức nghề nghiệp.
Thứ năm, yếu kém trong việc phối hợp tác nghiệp.

Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ tất cả các khâu của quá trình cấp tín dụng
của ngân hàng thương mại bao gồm: Trong giai đoạn trước khi cho vay, trong giai
đoạn giải ngân và trong giai đoạn quản lý khoản vay của khách hàng.
Ở giai đoạn trước khi cho vay việc không chấp hành nghiêm túc chế độ tín
dụng, điều kiện cho vay; xem xét, đánh giá khách hàng, khoản vay không kỹ,
không tốt sẽ dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
Ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay: Giải ngân không tuân
thủ theo điều kiện; yếu kém trong kiểm soát, theo dõi (không kiểm soát mục đích
sử dụng vốn vay của khách hàng, việc kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh và
tình hình tài chính của khách hàng bị buông lỏng, việc kiểm soát, theo dõi danh
mục khoản vay không được thực thi một cách có hiệu quả) sẽ dẫn đến khả năng
xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page13 of 95.


Header Page 14 of 95.

1.2. Quản trị rủi ro tín dụng
1.2.1 Các khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả quản trị rủi ro tín
dụng
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có
hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất,
mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình NH tác động đến hoạt động tín dụng
thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các
biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả gốc và
lãi của khoản vay hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.
Một cách tiếp cận khác, quản trị rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp
nghiệp vụ để kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế hậu quả xấu trong hoạt động

tín dụng, giảm thiểu sự tổn thất không để hoạt động NH lâm vào tình trạng khó
khăn đổ vỡ .
Có nhiều khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng, nhưng nên hiểu quản trị rủi ro
tín dụng và hiệu quả kinh doanh NH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu chọn
giải pháp an toàn, mức rủi ro tín dụng thấp thì lợi nhuận thấp hoặc không có lợi
nhuận tức là hiệu quả kinh doanh kém thì cũng không có ý nghĩa trong quản trị
kinh doanh. Kinh doanh NH thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt
được lợi nhuận tương ứng. Không bao giờ loại bỏ được hoàn toàn rủi ro tín dụng
mà phải chấp nhận nó ở một mức độ thích hợp.
Lợi nhuận và rủi ro tín dụng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong một
biên độ nhất định nào đó thì lợi nhuận và rủi ro tỷ lệ thuận với nhau, rủi ro càng
cao thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại, nhưng nếu vượt quá biên độ này thì rủi ro
sẽ tỷ lệ nghịch với lợi nhuận vì khi đó, lợi nhuận sẽ không đủ bù đắp phần rủi ro
quá lớn. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến nguy cơ rủi ro rất cao cho hoạt động kinh
doanh của NH.
Vì vậy, hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng trong NH thương mại chính là lựa
chọn một mức độ rủi ro tín dụng thích hợp mà ở đó lợi nhuận đạt được là tối đa.
Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page14 of 95.


Header Page 15 of 95.

Có thể nói RRTD luôn tồn tại và nợ xấu là một thực tế hiển nhiên ở bất cứ
NH nào, kể cả các NH hàng đầu trên thế giới bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm
kiểm soát của con người. Tuy nhiên, sự khác biệt cơ bản của các NH có năng lực
quản trị rủi ro tín dụng là khả năng quản trị nợ xấu ở một tỷ lệ có thể chấp nhận
được nhờ xây dựng một mô hình quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả, phù hợp với môi
trường hoạt động để hạn chế được những rủi ro mang tính chủ quan, xuất phát từ
yếu tố con người và những rủi ro khác có thể kiểm soát được.
Có nhiều phương thức quản trị rủi ro tín dụng nhưng phương thức quản trị rủi

ro tín dụng hiệu quả ngày nay đó là vận dụng các nguyên tắc BASEL II về quản trị
rủi ro tín dụng, tuân thủ quy trình quản trị rủi ro theo ISO 31000:2009 gồm nhận
dạng đo lường, quản lý, kiểm soát và báo cáo rà soát/giảm nhẹ rủi ro tín dụng, phù
hợp thông lệ quốc tế được nhiều NH và các tổ chức quốc tế khuyến khích sử dụng.
Các nguyên tắc BASEL II về quản trị rủi ro tín dụng :
Uỷ ban BASEL về Giám sát NH là một Uỷ ban bao gồm các chuyên gia giám
sát hoạt động NH được thành lập vào năm 1975 bởi các Thống đốc NH Trung
ương của nhóm G10. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp của các cơ quan giám
sát nghiệp vụ NH và NH trung ương của các nước Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật
Bản, Hà Lan, Thuỵ Điển, Vương quốc Anh và Mỹ. Giúp việc cho Uỷ ban BASEL
là Ban Thư ký thường trực có trụ sở làm việc tại Washington (Mỹ). Uỷ ban tổ chức
họp thường niên tại trụ sở NH Thanh toán quốc tế (BIS) tại Washington (Mỹ) hoặc
tại thành phố BASEL (Thuỵ Sĩ).
Uỷ ban BASEL đã xây dựng và xuất bản hai ấn phẩm:
- Những nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của NH một cách có
hiệu quả (hệ thống các nguyên tắc và chuẩn mực về biện pháp thận trọng); và
- Tài liệu hướng dẫn (được cập nhật định kỳ) với các khuyến nghị hiện nay
của uỷ ban BASEL, các hướng dẫn và tiêu chuẩn, hầu hết được kèm với các hướng
dẫn tham khảo trong tài liệu nguyên tắc cơ bản.
Cả hai tài liệu này được coi là nền tảng quan trọng cho ngân hàng trung ương
các nước trong việc ban hành các chính sách và quy chế nhằm đảm bảo an toàn và

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page15 of 95.


Header Page 16 of 95.

ổn định cho các TCTD, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển và hội
nhập.
Uỷ ban BASEL đã đưa ra các nguyên tắc về quản trị rủi ro tín dụng (tại ấn

phẩm số 75 tháng 09/2000) như sau:
► Thiết lập môi trường rủi ro tín dụng phù hợp dựa vào các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt và rà soát định kỳ
( ít nhất là hàng năm) chiến lược và chính sách về rủi ro tín dụng của NH. Chiến
lược này phản ánh sức chịu đựng của NH đối với rủi ro và mức độ sinh lời mà NH
dự kiến đạt được khi phải gánh chịu các loại rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 2: Ban điều hành phải có trách nhiệm triển khai thực hiện chiến
lược rủi ro tín dụng do Hội đồng quản trị phê duyệt, và xây dựng chính sách và quy
trình để nhận dạng, đo lường, kiểm soát và hạn chế rủi ro tín dụng. Những chính
sách và quy trình này cần chỉ rõ rủi ro tín dụng trong toàn bộ hoạt động của NH ở
từng khoản tín dụng cũng như ở cấp độ quản lý danh mục.
Nguyên tắc 3: NH cần phải xác định và quản lý rủi ro tín dụng phát sinh trong
tất các sản phẩm và các hoạt động. NH phải đảm bảo rằng rủi ro của các sản phẩm
và hoạt động mới phải được kiểm soát và thực hiện theo quy trình quản lý rủi ro
thích hợp trước khi sản phẩm và hoạt động đó được ban hành hoặc triển khai và
phải được phê duyệt trước bởi hội đồng quản trị hoặc một uỷ ban thích hợp.
Các nguyên tắc này quy định NH cần phải thiết lập một môi trường rủi ro tín
dụng phù hợp hay nói cách khác là phải xác định được mức độ chấp nhận rủi ro
hay khẩu vị rủi ro của NH (Risk appetite ).
► Thực hiện theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý dựa vào các nguyên tắc
sau:
Nguyên tắc 4: NH phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng
được xác định rõ ràng và hiệu quả. Những tiêu chí này cần bao gồm những chỉ số
rõ ràng về thị trường mục tiêu của NH và sự hiểu biết thấu đáo của người vay vốn
hay đối tác, nguồn trả nợ của KH cũng như mục đích và cơ cấu tín dụng.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page16 of 95.


Header Page 17 of 95.


Nguyên tắc 5: NH phải xây dựng các hạn mức tín dụng tổng thể cho mỗi KH
hoặc đối tác vay vốn, hoặc nhóm KH có liên quan được tổng hợp lại theo các loại
rủi ro khác nhau theo các phương pháp có nghĩa và có thể so sánh được cả trong sổ
NH và sổ kinh doanh cả trong và ngoài bảng tổng kết tài sản.
Nguyên tắc 6: NH cần phải có quy trình rõ ràng cho việc phê duyệt mới, sửa
đổi, cấp lại hoặc tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.
Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng phải được thực hiện trên nguyên tắc thận
trọng và khách quan. Cụ thể là các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có
liên quan phải được giám sát và quan tâm đặc biệt và cần có những biện pháp
thích hợp để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro trong việc cho vay.
► Duy trì một quy trình đo lường, kiểm soát và quản trị tín dụng phù hợp dựa
vào các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 8: NH cần phải có một hệ thống để thực hiện quản trị và giám sát
thường xuyên, liên tục danh mục các khoản cho vay có rủi ro. Cần duy trì bộ phận
quản lý tín dụng nhằm làm giảm rủi ro. Bộ phận này cần linh hoạt tùy theo điều
kiện môi trường cũng như theo từng ngân hàng. Khi cán bộ quản lý tín dụng thực
hiện các chức năng nhạy cảm như lưu trữ các hồ sơ quan trọng, chuyển tiền đi hay
nhập các giới hạn vào cơ sở dữ liệu trên máy tính, họ cần báo cáo cho các nhà quản
lý độc lập với chức năng tiếp thị và phê duyệt tín dụng.
Nguyên tắc 9: NH cần phải có hệ thống giám sát điều kiện của từng khoản tín
dụng, bao gồm cả việc xác định đủ mức dự phòng rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 10: Mỗi ngân hàng cần có hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng nội
bộ để giảm rủi ro xuống mức thấp nhất. Hệ thống định hạng cần phải nhất quán với
bản chất, quy mô và mức độ phức tạp trong hoạt động của NH.
Nguyên tắc 11: NH phải có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích để
trợ giúp cán bộ quản lý có thể đo lường rủi ro tín dụng phát sinh trong các hoạt
động trong và ngoài Bảng cân đối kế toán. Hệ thống thông tin quản lý cần cung
cấp đủ thông tin về cơ cấu của danh mục tín dụng để có thể nhận dạng các rủi ro
tín dụng do tập trung vào một ngành, lĩnh vực.


Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page17 of 95.


Header Page 18 of 95.

Nguyên tắc 12: NH phải có hệ thống giám sát cấu trúc tổng thể và chất lượng
danh mục tín dụng.
Nguyên tắc 13: NH cần phải đánh giá đầy đủ những biến động về điều kiện
kinh tế có thể xảy ra trong tương lai khi xem xét từng khoản tín dụng cũng như
danh mục cho vay của mình và cần đánh giá mức độ rủi ro tín dụng trong điều kiện
xấu nhất (Stress testing).
►Đảm bảo kiểm soát đầy đủ rủi ro tín dụng dựa vào các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 14: NH phải xây dựng hệ thống rà soát, đánh giá độc lập và liên
tục quy trình quản lý rủi ro tín dụng của NH, kết quả rà soát phải được báo cáo trực
tiếp Hội đồng Quản trị và Ban điều hành.
Nguyên tắc 15: NH phải đảm bảo rằng chức năng cấp tín dụng được quản lý
đúng mức và rủi ro tín dụng được kiểm soát theo các giới hạn và chuẩn mực nội
bộ. NH cần thiết lập và thực thi hệ thống kiểm tra nội bộ và các thông lệ khác để
đảm bảo rằng các trường hợp ngoại lệ so với chính sách, quy trình và hạn mức
được báo cáo một các kịp thời tới cấp quản lý thích hợp để xử lý.
Nguyên tắc 16: NH phải có hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản tín
dụng có nguy cơ giảm sút, quản lý các khoản cho vay có vấn đề và các trường hợp
nợ xấu tương tự.
Uỷ ban BASEL tin rằng các nguyên tắc về quản lý rủi ro tín dụng này là một
khuôn khổ hữu ích cho việc quản lý và giám sát rủi ro NH một cách thận trọng,
đồng thời làm cơ sở cho các NH ban hành các chính sách , thủ tục và thông lệ thực
hành về quản trị rủi ro trong hoạt động NH.
1.2.2 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Dựa vào các nguyên tắc quản lý rủi ro của BASEL và các thông lệ quốc tế,

quy trình quản trị rủi ro tín dụng thường gồm các nội dung sau:

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page18 of 95.


Header Page 19 of 95.

Nhận diện/ Xác
định RR
Identification

Báo cáo/ Giảm
thiểu
Report/Review &
Revision

Đo lƣờng RR
Measurement

Quản lý/
Kiểm soát
Control &
Monitoring

Nguồn: nguyên tắc quản lý rủi ro của BASEL
Hình 1.1 Mô hình quản trị rủi ro
Như vậy có thể thấy quy trình quản trị rủi ro gồm các nội dung: 1) Nhận diện/
xác định rủi ro, 2) Đo lường rủi ro; 3) Quản lý kiểm soát rủi ro và 4) Giảm thiểu
rủi ro.
1.2.2.1.Nhận diện rủi ro:

Để quản trị rủi ro trước hết phải nhận dạng hay nhận biết được rủi ro. Nhận
dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của NH. Nhận diện rủi ro bao gồm các công việc như thường xuyên
theo dõi, xem xét, nghiên cứu sự biến động của môi trường hoạt động cũng như
toàn bộ mọi hoạt động của NH nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không chỉ
những loại rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro mới có
thể xuất hiện đối với NH, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp kiểm soát và tài trợ
rủi ro thích hợp.
Có nhiều phương pháp nhận biết rủi ro như: phương pháp dựa vào mục tiêu
(bất kỳ những gì cản trở việc thực hiện mục tiêu được coi là rủi ro); phương pháp
đưa ra tình huống (đặt giả thiết nếu một việc xảy ra thì sẽ như thế nào? ); phương

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page19 of 95.


Header Page 20 of 95.

pháp dựa vào kinh nghiệm, tiền lệ; phương pháp hỗn hợp (kết hợp các phương
pháp trên).
Một số dấu hiệu cảnh báo khoản tín dụng có vấn đề:
- Nhu cầu vay vốn tăng cao so với doanh thu, vòng quay vốn chậm.
- DN sử dụng vốn sai mục đích.
- Thay đổi cơ cấu quản trị, ban lãnh đạo DN.
- Sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho ngày càng tăng.
- Các khoản phải thu lớn, xuất hiện những khoản thu khó đòi.
- Báo cáo tài chính không rõ ràng minh bạch, có nhiều báo cáo tài chính khác
nhau.
- Có những thông tin xấu ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của DN.
- Thường xuyên gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ.
- Ban lãnh đạo DN luôn lảng tránh hoặc trì hoãn trong việc thực hiện các yêu

cầu của NH.
1.2.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng:
Trong công tác quản trị rủi ro, cần thiết phải có một hệ thống đo lường RRTD
nhằm phân loại các mức độ ảnh hưởng của rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH,
từ đó có biện pháp cụ thể để quản trị tốt những rủi ro ở các mức độ khác nhau. Có
nhiều mô hình để đo lường rủi ro tín dụng gồm cả định tính và định lượng, đánh
giá KH và đánh giá tổng thể rủi ro của hoạt động tín dụng một NH. Sau đây là một
số mô hình phổ biến:
Theo nghiên cứu của Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết, tác giả lấy số
liệu nghiên cứu từ 438 hồ sơ vay của khách hàng cá nhân, doanh nghiệp tại VCB
Cần Thơ. Sau đó tiến hành khảo sát hồ sơ tín dụng để thu thập số liệu và thông tin
cần thiết. Trong nghiên cứu mô hình xác suất probit được sử dụng để đánh giá mức
độ rủi ro tín dụng của khoản vay. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến khả năng
tài chính của khách hàng vay, sử dụng vốn vay, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng,
đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, kiểm tra, giám sát khoản vay là có ảnh hưởng

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page20 of 95.


Header Page 21 of 95.

đến mức độ rủi ro tín dụng. Điều đó chứng tỏ cả ngân hàng và khách hàng đều có
ảnh hưởng đến việc thanh toán các khoản cấp tín dụng có đúng hạn hay không.
a) Mô hình 1: Mô hình định tính: mô hình chất lượng 6C
- Tư cách người vay (Character): Thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, tính trung
thực, danh tiếng, thương hiệu, lịch sử quan hệ tín dụng, mục đích vay rõ ràng.
- Năng lực của người vay (Capacity): Tùy thuộc vào quy định luật pháp của
quốc gia, đòi hỏi người đi vay phải có năng lực lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự.
- Thu nhập của người vay (Cash): Thể hiện nguồn thu nhập thường xuyên

và hợp pháp của khách hàng như lương, lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động kinh
doanh.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả
nợ vay cho ngân hàng thuộc sở hữu hợp pháp khách hàng hoặc người bảo lãnh
như động sản, bất động sản, giấy tờ có giá… Đặc biệt, chú ý đến những yếu tố
nhạy cảm như: tuổi thọ, tính khả mại, khía cạnh công nghệ, mức độ chuyên dụng
của tài sản và tuổi của chủ sở hữu bất động sản.
- Các điều kiện (Condition): ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính
sách tín dụng theo từng thời kỳ như xu hướng ngành, điều kiện kinh tế, chu kỳ
kinh doanh.
- Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi của
luật pháp có liên quan và quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người
vay hay không? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của
ngân hàng hay không?
Ưu điểm: Mô hình tương đối đơn giản
Nhược điểm: Mô hình phụ thuộc quá nhiều vào mức độ chính xác của nguồn
thông tin thu thập được, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá
chủ quan của CBTD. (Nguyễn Đăng Dờn [7])
b) Mô hình 2: Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor’s

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page21 of 95.


Header Page 22 of 95.

Rủi ro tín dụng thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu và các
khoản cho vay. Moody’s và Standard & Poor’s là những dịch vụ xếp hạng tốt nhất.
Bảng 1.1: Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor’s:
Tình trạng


Moody’s

Standard &

AAA

Aaa
Poor’s

AA

Aa

Chất lượng cao

A

A

Chất lượng trên trung bình

BBB

Baa

Chất lượng trung bình

BB

Ba


Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu

B

B

Chất lượng dưới trung bình


CCC

Caa

Chất lượng kém

CC

Ca

Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ

C

C

Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu

Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất


Nguồn: Moody’s và Standard & Poor’s
c) Mô hình 3: Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm
tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc,
sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác. Tổng số
điểm tín dụng tiêu dùng theo 8 tiêu chí trên là 43 điểm (Max), thấp nhất là 9 điểm
(Min). Giả sử ngân hàng xác định mức 28 điểm là ở mức rủi ro khá cao, cần từ
chối cho vay, còn lại trên 28 điểm, được chia ra 6 bậc theo khung chính sách tín
dụng với hạn mức cho vay tối đa (Nguyễn Đăng Dờn) như sau:
Bảng 1.2: Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Tổng số điểm của KH

Hạn mức tín dụng

Từ 28 điểm trở xuống

Từ chối tín dụng

29-30 điểm

500 USD (10 triệu VND)

31-33 điểm

1.000 USD (20 triệu VND)

34-36 điểm

2.500 USD (50 triệu VND)


37-38 điểm

3.500 USD (70 triệu VND)

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page22 of 95.


Header Page 23 of 95.

39-40 điểm

5.000 USD (100 triệu VND)

41-43 điểm

10.000 USD (200 triệu VND)
Nguồn: Nguyễn Đăng Dờn và cộng sự

1.2.2.3.Quản lý/ kiểm soát rủi ro tín dụng :
Các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng cụ thể có thể khác nhau giữa các NH
tuỳ theo khả năng nhận thức cũng như bản chất và mức độ phức tạp của hoạt động
tín dụng. Các biện pháp quản lý rủi ro toàn diện sẽ tuân thủ các nguyên tắc quản lý
rủi ro cẩn trọng, đó là các nguyên tắc quản lý rủi ro của BASEL và các thông lệ tốt
nhất. Một số biện pháp quản lý rủi ro tín dụng như:
- Xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược chính sách, quy trình quản lý rủi
ro tín dụng.
- Xác lập các giới hạn, hạn mức theo ngành nghề, theo khách hàng, loại tiền,
sản phẩm, khu vực địa lý.
- Xây dựng mô hình phù hợp để kiểm soát rủi ro ( tách bạch 3 khâu: Đề xuất,
thẩm định rủi ro, tác nghiệp).

- Kiểm soát theo quy trình cấp tín dụng: Trước, trong và sau khi cho vay.
- Tuân thủ chính sách, quy trình tín dụng một cách thận trọng.
- Nâng cao chất lượng công tác phân tích và thẩm định tín dụng.
- Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng, hệ thống chấm điểm tín dụng.
- Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng.
- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu về KH, khoản vay.
1.2.2.4. Giảm nhẹ rủi ro :
Là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược và các chương
trình hoạt động để ngăn ngừa, né tránh, giảm thiểu rủi ro. Căn cứ vào mức độ rủi
ro đã được tính toán, các hệ số an toàn tài chính, và khả năng chấp nhận rủi ro mà
có những biện pháp phòng chống khác nhau nhằm làm giảm mức độ thiệt hại:
- Nâng cao tỷ trọng và chất lượng tài sản bảo đảm.
- Phân loại nợ và xử lý nợ xấu .
- Trích dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page23 of 95.


Header Page 24 of 95.

- Chia sẻ rủi ro (đồng tài trợ, bán nợ..).
- Sử dụng một số công cụ tài chính để bán hay phân tán rủi ro như:
+ Các công cụ tài chính phái sinh như kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi...:
Như đã đề cập phần trên, khi DN vay bằng ngoại tệ và trả bằng VND thì sẽ
gặp rủi ro tỷ giá, cụ thể là DN sẽ bị thiệt hại nếu tỷ giá tăng và NH sẽ thiệt hại nếu
tỷ giá giảm. Để phòng ngừa rủi ro về tỷ giá, có thể sử dụng các kỹ thuật bảo hiểm
rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn (forwawd), quyền chọn (Option), hoán đổi ngoại
tệ (swap), hợp đồng tương lai (Future)…. Đây là những công cụ phòng ngừa rủi ro
hiệu quả cho cả DN và NH khi tỷ giá biến động, đảm bảo khả năng trả nợ của DN
và do đó sẽ giảm được rủi ro tín dụng cho NH.

+ Hoán đổi lãi suất: NH sử dụng các nghiệp vụ như hoán đổi lãi suất một
đồng tiền (đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ), giữa hai đồng tiền, hoán đổi lãi suất tiền
tệ chéo, hoán đổi lãi suất bắt đầu trong tương lai, hoán đổi lãi suất cộng dồn nhằm
phòng ngừa, hạn chế rủi ro do biến động lãi suất trên thị trường, vừa đa dạng dịch
vụ cho KH, vừa kiếm thêm lợi nhuận.
+ Bảo hiểm tín dụng :
Người mua bảo hiểm có thể là ngân hàng hoặc có thể là khách hàng. Khi
khách hàng không có khả năng trả nợ thì Công ty bảo hiểm (bên bán bảo hiểm) sẽ
chịu trách nhiệm trả nợ. Đây là biện pháp quản lý rủi ro khá hiệu quả và thường
đuợc áp dụng đối với khách hàng cá nhân.
Ngoài các công cụ tài chính trên đã bước đầu được sử dụng khá hiệu quả ở
Việt Nam, còn một số công cụ khác để phòng ngừa rủi ro tín dụng như: nghiệp vụ
chứng khoán hoá bảng tổng kết tài sản của ngân hàng, sử dụng các công cụ tín
dụng phái sinh như hợp đồng trao đổi TD, hợp đồng quyền TD (Credit options)…
Đây là các hợp đồng tài chính bảo vệ NH trong trường hợp các khoản nợ không thể
thanh toán được, có thể được sử dụng hiệu quả trong việc giảm rủi ro phát sinh nợ
xấu cũng như giảm rủi ro lãi suất của NH. Tuy nhiên, các công cụ này khá phức
tạp và mới mẻ nên chưa được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page24 of 95.


Header Page 25 of 95.

1.3. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận
Tân Phú
Dựa trên những cơ sở lý thuyết về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng,
tác giả tiến hành xây dựng quy trình quản trị tín dụng bằng việc phỏng vấn các
chuyên gia về tài chính trong ngành.
Qua thảo luận, các chuyên gia đã thống nhất mô hình quản trị rủi ro tín dụng

tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú, HCM là sự phối hợp nhịp nhàng
của cả bốn quá trình: Nhận diện/ xác định rủi ro, đo lường rủi ro, quản lý/ kiểm
soát rủi ro, và giảm thiểu rủi ro. Điều này thể hiện qua hình sau :

Nhận diện/ Xác
định RR
Identification

Báo cáo/ Giảm
thiểu
Report/Review &
Revision

Đo lƣờng RR
Measurement

Quản lý/
Kiểm soát
Control &
Monitoring

Nguồn: tác giả và phỏng vấn chuyên gia
Hình 1.2: Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã hội
Quận Tân Phú
Mô hình này là nền tảng lý thuyết để tác giả tiến hành phân tích thực trạng
quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã hội Quận Tân Phú trong
chương 2.

Footer Page - Footer Page - Footer Page -Footer Page25 of 95.



×