Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.36 KB, 96 trang )

1

1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em đã nhận được

rất nhiều sự giúp đỡ, động viên, hướng dẫn và đóng góp ý kiến của các thầy cơ giáo, bạn bè
đồng nghiệp và gia đình trong suốt khố cao học và trong thời gian nghiên cứu đề tài.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS. Phạm Ngọc Phong,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt q trình nghiên cứu và
hồn thành đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo về những lời nhận xét quý báu, đóng góp
đối với bản luận văn.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo Học viện Ngân hàng về những bài giảng lý thú, hữu
ích cũng như các cán bộ khoa Sau đại học đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi đối với em
trong quá trình học tập.

Cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp ở NHCSXH tỉnh Nghệ An, cũng như các
bạn lớp cao học khố 7 đã giúp đỡ, động viên trong q trình viết luận văn.
Cuối cùng, em xin cảm ơn sự khuyến khích, quan tâm tạo điều kiện của những người
thân trong gia đình đã giúp em hồn thành bản luận văn này.
Đây là đề tài liên quan đến hoạt động tín dụng của NHCSXH, có nhiều ý nghĩa trong
thực tiễn, chính vì vậy bản luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định.
Rất mong nhận được sự góp ý chân tình của các thầy cơ giáo, bạn bè và các cá nhân, tổ chức
quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!

1



2

2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI

1
4

VỚI HỘ NGHÈO
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐĨI NGHÈO
1.1.1. Khái niệm về đói nghèo
1.1.2. Tiêu chí về đói nghèo
1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo
1.1.3.1. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội
1.1.3.2. Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo
1.1.4. Sự cấp thiết phải đẩy mạnh XĐGN
1.1.4.1. Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại môi trường

4
4
6
9
9
14
16
16


và cản trở nâng cao dân trí
1.1.4.2. Đói nghèo làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của

18

đất nước
1.1.4.3. Xố đói giảm nghèo bảo đảm cho đất nước giàu mành và xã hội phát

19

triển bền vững
1.2. TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với hộ nghèo
1.2.1.1. Khái niệm
1.2.1.2. Đặc điểm
1.2.1.3. Vai trị của tín dụng Ngân hàng đối với hộ nghèo
1.2.2. Hiệu quả tín dụng hộ nghèo
1.2.2.1. Khái niệm
1.2.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng hộ nghèo
1.2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo
1.3. KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.3.1. Kinh nghiệm một số nước
1.3.1.1. Kinh nghiệm cho vay xố đói giảm nghèo của ngân hàng Grameen
(BangLadesh)
1.3.1.2. Kinh nghiệm cho vay xố đói giảm nghèo của Ấn Độ
1.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO TẠI NGÂN
HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN
(2003 - 2007)

2.1. TÌNH HÌNH ĐĨI NGHÈO TẠI NGHỆ AN
2.1.1. Tổng quan về kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.1.2. Thực trạng đói nghèo tại tỉnh Nghệ An
2.1.2.1. Số lượng, cơ cấu và phân bố hộ đói nghèo ở Nghệ An
2.1.2.2. Đặc điểm và nguyên nhân đói nghèo tại Nghệ An
2.2. TỔNG QUAN VỀ Q TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN, MƠ HÌNH

2

20
20
20
20
20
23
23
24
30
32
32
32
36
36
39

39
39
39

41
43
43
45
47


3

3

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH
NGHỆ AN
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.2.2. Mơ hình tổ chức và hoạt động
2.2.2.1. Mơ hình tổ chức
2.2.2.2. Hoạt động của NHCSXH tỉnh Nghệ An
2.2.2.3. Cơ chế cho vay
2.3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG
CSXH TỈNH NGHỆ AN
2.3.1. Nguồn vốn
2.3.2. Hoạt động cho vay
2.4. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO
2.4.1. Những kết quả đạt được
2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân
2.4.2.1. Tồn tại
2.4.2.2. Nguyên nhân
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ
NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN
3.1. MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH XỐ ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở NGHỆ AN GIAI

ĐOẠN 2006 - 2010
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
3.2. MỤC TIÊU HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2008 - 2010
3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN
3.3.1. Hồn thiện mạng lưới hoạt động
3.3.1.1. Điểm giao dịch tại xã
3.3.1.2. Tổ tiết kiệm và vay vốn
3.3.2. Đẩy mạnh tín dụng uỷ thác qua các tổ chức chính trị - xã hội
3.3.3. Gắn công tác cho vay vốn và dịch vụ sau đầu tư
3.3.3.1. Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư
3.3.3.2. Thị trường
3.3.3.3. Kế hoạch hố gia đình, xây dựng đời sống văn hố lành mạnh
3.3.4. Thực hiện cơng khai hố - xã hội hố hoạt động Ngân hàng chính sách xã hội
3.3.4.1. Chính sách tín dụng của Ngân hàng chính sách xã hội
3.3.4.2. Hồ sơ thủ tục vay vốn
3.3.4.3. Hịm thư góp ý
3.3.4.4. Sự tham gia của chính quyền và các ban ngành vào hoạt động xố đói
giảm nghèo
3.3.5. Đẩy mạnh cho vay theo dự án, nâng suất đầu tư cho hộ nghèo lên mức tối đa
3.3.5.1. Cho vay theo dự án vùng, tiểu vùng
3.3.5.2. Nâng suất cho vay hộ nghèo
3.3.5.3. Đa dạng hoá các ngành nghề đầu tư
3.3.6. Tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát
3

47
48

48
51
55
57
57
59
61
61
62
62
63
65
65
65
65
66
66
66
67
67
69
70
70
70
71
71
71
72
72
73

73
73
74
75
75


4

4

3.3.6.1. Ban đại diện hội đồng quản trị các cấp
3.3.6.2. Các tổ chức nhận uỷ thác các cấp
3.3.6.3. Ngân hàng chính sách xã hội các cấp
3.3.6.4. Người dân kiểm tra hoạt động ngân hàng
3.3.7. Đẩy mạnh công tác đào tạo
3.3.7.1. Đào tạo cán bộ Ngân hàng Chính sách xã hội
3.3.7.2. Đào tạo ban quản lý tổ vay vốn
3.3.7.3. Đào tạo cán bộ nhận uỷ thác
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.4.1. Đối với chính phủ
3.4.2. Đối với Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam
3.4.3. Đối với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương các cấp tại tỉnh Nghệ An
3.4.4. Đối với Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3

4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

4

Viết tắt

Nguyên văn

BĐD
ĐTN
GDP
HĐQT
HĐND
HCCB
HND

HPN
LĐ-TB&XH
NHNo&PTNT

Ban đại diện
Đoàn thanh niên
Tổng sản phẩm quốc nội
Hội đồng quản trị
Hội đồng nhân dân
Hội Cựu chiến binh
Hội nông dân
Hội phụ nữ
Lao động- Thương binh và Xã hội
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nơng

NHCSXH
NHTM
NQ
SXKD
TD
TW
UBND
XĐGN
WB

thơn
Ngân hàng Chính sách xã hội
Ngân hàng Thương mại
Nghị quyết
Sản xuất kinh doanh

Tín dụng
Trung ương
Uỷ ban nhân dân
Xố đói giảm nghèo
Ngân hàng Thế giới

75
76
78
79
80
80
80
81
81
81
82
82
83
84


5

5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
KÝ HIỆU
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3

Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7

Biểu đồ 2.1
Sơ đồ 2.1

5

TÊN BẢNG SỐ LIỆU, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ (phân tích theo khu vực)
Cơ cấu vốn huy động của NHCSXH tỉnh Nghệ An
Một số chỉ tiêu chủ yếu về hoạt động tín dụng của NHCSXH tỉnh
Nghệ An giai đoạn (2003-2007)
Tình hình ủy thác qua các tổ chức hội đoàn thể tại NHCSXH tỉnh
Nghệ An
Cơ cấu nguồn vốn cho vay hộ nghèo của NHCSXH tỉnh Nghệ An
(2003-2007)
Một số chỉ tiêu chủ yếu trong cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng
Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn (2003- 2007)
Tình hình dư nợ cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh Nghệ An phân theo khu vực và địa bàn đến 31/12/2007
Cơ cấu nguồn vốn cho vay tại NHCSXH tỉnh Nghệ An
Mơ hình tổ chức NHCSXH của NHCSXH tỉnh Nghệ An

TRANG
44
51
55

56
57
59
60
58
50


6

6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành

tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7- 8%; đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trị được giữ vững và ổn định. Lĩnh
vực XĐGN cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật và được Liên hợp quốc
đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức xúc, như
khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn giữa khu
vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng; tình trạng thiếu việc
làm nghiêm trọng; tình trạng ơ nhiễm mơi trường và lãng phí tài nguyên đất
nước.v.v.. Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là hộ nghèo ở
vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự phát triển. Họ
đang bơ vơ, lạc lõng trước sự hội nhập toàn cầu và ánh sáng của thế giới văn
minh. Những yếu kém trên là nguyên nhân mất ổn định về xã hội- chính trị, là
nỗi đau của một xã hội đang phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh xã hội
công bằng- dân chủ- văn minh.
Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến nhiệm
vụ XĐGN; Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ XĐGN là một trong những

chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu
dài và nhấn mạnh “phải thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với
vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ
XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư
đúng đối tượng và có hiệu quả”. Chính phủ đã phê duyệt và triển khai chương
trình, mục tiêu quốc gia XĐGN, giai đoạn 1998- 2000 và giai đoạn 20012010, như hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo; hỗ trợ đồng bào dân tộc
đặc biệt khó khăn; định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; hướng dẫn người
nghèo cách làm ăn và khuyến nơng- lâm- ngư; hỗ trợ tín dụng cho người
nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ trợ sản
6


7

7

xuất, phát triển ngành nghề; đào tạo cán bộ làm cơng tác XĐGN, cán bộ các
xã nghèo, chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn
(QĐ số 135/1998/QĐ-TTg), chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm.v.v…
Trong lĩnh vực tín dụng cho người nghèo, năm 1996 đã thành lập Ngân
hàng phục vụ người nghèo và đến năm 2003 được tách ra thành Ngân hàng
chính sách xã hội (NHCSXH), với mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi hộ
nghèo. Sau hơn 5 năm hoạt động, NHCSXH đã cho vay hàng chục ngàn tỷ
đồng, cho hàng chục triệu lượt hộ nghèo và đã góp phần to lớn trong công
cuộc XĐGN cho đất nước.
Tuy nhiên, sự nghiệp XĐGN vẫn đang cịn ở phía trước, với nhiệm vụ
ngày càng khó khăn, phức tạp; trong đó, lĩnh vực tín dụng cho hộ nghèo nhiều
vấn đề vẫn đang bức xúc như: Quy mơ tín dụng chưa lớn, hiệu quả XĐGN
cịn chưa cao, hoạt động của NHCSXH chưa thực sự bền vững.v.v… Những

vấn đề trên là phức tạp, nhưng chưa có mơ hình thực tiễn và chưa được
nghiên cứu đầy đủ. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói chung
và tín dụng cho hộ nghèo nói riêng, địi hỏi phải được nghiên cứu một cách có
hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước
cũng như toàn xã hội.
Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng
cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội
tỉnh Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín
dụng đối với hộ nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại
NHCSXH tỉnh Nghệ An.

7


8

8
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo

tại NHCSXH tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cho vay hộ nghèo tại chi nhánh
NHCSXH tỉnh Nghệ An từ năm 2003 đến 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp
quan sát khoa học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp tổng

hợp, thống kê, chứng minh, diễn giải, sơ đồ, biểu mẩu và đồ thị trong trình
bày luận văn.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ
nghèo.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính
sách xã hội tỉnh Nghệ An (2003-2007).
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An.

8


9

9

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÓI NGHÈO
1.1.1. Khái niệm về đói nghèo

Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và
số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có
mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để nhìn
nhận và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và
nhận dạng được hộ đói nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để XĐGN, địi

hỏi chúng ta phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí để đánh giá
đói nghèo tại từng thời điểm.
Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời sống của số
đông dân chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân chúng sống nghèo khổ, đặc
biệt là những hộ nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn, miền
núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa…Chính vì vậy, trong xã hội sự phân hoá giàu
nghèo đang diễn ra ngày một sâu sắc, khoảng cách giàu, nghèo ngày càng
rộng. Đây là một thách thức lớn đặt ra địi hỏi phải có những chính sách và
giải pháp phù hợp, đi đơi với phát triển kinh tế - xã hội phải thực hiện thành
cơng chương trình, mục tiêu quốc gia về XĐGN. Muốn XĐGN bền vững, thì
điều đầu tiên là phải trả lời được câu hỏi: Quan niệm thế nào là nghèo, người
nghèo là ai và vì sao họ nghèo? Để trả lời được các câu hỏi này chính xác,
9


10

10

phải hiểu rõ được bản chất và nội dung của đói nghèo.
Phải khẳng định rằng khơng có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói
nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế đến
tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả năng
tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định nghĩa
chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 9/1993:
“Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng được hưởng và thoã mãn các
nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận

tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục, tập quán của địa
phương’’[5, trang 122]
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói và nghèo
thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Đói có mức độ
gay gắt cao hơn, cần thiết phải xố và có khả năng xố. Cịn nghèo, mức độ
thấp hơn và khó xố hơn, chỉ có thể xố dần nghèo tuyệt đối, cịn nghèo
tương đối chỉ có thể giảm dần. Vì vậy, để giải quyết vấn đề đói nghèo, ta
thường dùng cụm từ "Xố đói giảm nghèo".
Cụ thể hơn các khái niệm đói nghèo ta có thể thấy: Dù ở dạng nào, thì
đói cũng đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Có thể hình dung
các biểu hiện của tình trạng thiếu đói như sau:
- Thất thường về lượng: Bữa đói, bữa no, ăn không đủ bữa .
- Về mặt năng lượng: Nếu trong một ngày con người chỉ được thoả mãn
mức 1.500 calo/ngày, thì đó là thiếu đói (thiếu ăn); dưới mức đó là gay gắt.
Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hồn
cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh
hàng ngày về kinh tế, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn
10


11

11

tới các nhu cầu về văn hoá, tinh thần, hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm
tới mức tối thiểu nhất, gần như khơng có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo là
hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, khơng có điều kiện để chữa bệnh khi ốm
đau. Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo thu nhập thực tế của họ hầu như

chỉ dành chi toàn bộ cho ăn; thậm chí khơng đủ chi ăn, phần tích luỹ hầu như
khơng có.
1.1.2. Tiêu chí về đói nghèo
Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất để đo
lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người được
coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của anh ta xuống dưới mức
tối thiểu cần thiết để đáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiếu này
được gọi là “ngưỡng đói nghèo”. Các yếu tố đáp ứng nhu cầu căn bản thay
đổi theo thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo thời
gian và địa điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với mức độ
phát triển, chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so sánh toàn
cầu, Ngân hàng thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu $1 và $2/ngày trong
thuật ngữ “sức mua tương đương” (PPP) 1993 (PPP đo lường sức mua tương
đối của đồng tiền các quốc gia).
Trong q trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình
XĐGN ở Việt Nam, WB đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:
Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo
về lương thực, thực phẩm;
Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung.
Tại Việt Nam hiện nay đang sử dụng một loạt các chỉ tiêu đánh giá về
nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của
Chính phủ trong tổ chức, triển khai, thực hiện XĐGN) dùng phương pháp dựa
11


12

12


trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộ được xếp vào
diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họ ở dưới mức chuẩn được xác định.
Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được
xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với tổng
dân số trong cùng một thời điểm.
Năm 1997, chuẩn nghèo đói thuộc phạm vi của chương trình quốc gia
(chuẩn nghèo cũ) để áp dụng cho thời kỳ từ năm 1996 - 2000 như sau:
Hộ đói là hộ có thu nhập dưới 13 kg gạo/người/tháng (tương đương
45.000 đồng cho tất cả các vùng).
Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng
như nhau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo dưới 15 kg gạo/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).
- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg gạo/người/tháng
(tương đương 70.000 đồng).
- Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo từ 40% trở lên, thiếu một trong các cơng
trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện
sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi nhỏ và chợ).
Trước những thành tích của cơng cuộc XĐGN, cũng như tốc độ tăng
trưởng kinh tế và mức sống. Cuối năm 2000 mức sống của dân cư tăng lên 1,5
lần, thu nhập GDP đầu người tăng lên 1,47 lần so với năm 1996, chuẩn hộ
nghèo đã được điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn quốc tế. Theo chuẩn mực
phân loại hộ nghèo do Bộ LĐ- TB&XH quy định tại văn bản số 1143 ngày
01/11/2000 đã công bố mức chuẩn nghèo mới áp dụng cho thời kỳ 20012005, thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình qn đầu người hàng tháng như
sau:

12



13

13
- 80.000 đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng miền núi nông

thôn.
- 100.000 đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn.
- 150.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm từ 25% trở lên, thiếu 3
trong số các cơng trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện thắp
sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ).
- Vùng nghèo có thể là một số xã liền kề (hoặc một vùng dân cư) nằm ở
vị trí khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng cịn
thiếu thốn, khơng có điều kiện phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống, là
vùng có tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo cao.
Theo tiêu chí đánh giá này, thì thời điểm đầu năm 2001 cả nước có
khoảng 2,7 triệu hộ nghèo, tỷ lệ 17,3%. Theo quyết định số 170/2005/QĐTTg, ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 - 2010:
- Đối với khu vực thành thị: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập
bình quân đầu người 1 tháng dưới 260.000 đồng.
- Đối với khu vực nông thôn: Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức
thu nhập bình qn đầu người 1 tháng dưới 200.000 đồng.
Theo tiêu chí cũ về hộ nghèo, thì đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của Việt
Nam cịn 7%, cịn theo tiêu chí mới tỷ lệ hộ nghèo tới 22%.
Phương pháp xác định đói nghèo do Bộ LĐ- TB&XH nêu trên có
những ưu điểm nhất định: Dễ hiểu, dễ tính tốn, dễ điều tra.
Việc đưa ra giới hạn đói nghèo của Bộ LĐ- TB&XH là phù hợp với
điều kiện của Việt Nam, tiện lợi cho việc Nhà nước có một bức tranh tổng
quát về đói nghèo, đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi để có thể đưa ra các

giải pháp XĐGN trong cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc bình
xét hộ nghèo tại một số địa phương (xóm, bản, xã, phường) đã không thực hiện
13


14

14

đúng theo hướng dẫn của Bộ LĐ- TB&XH về các tiêu chí đánh giá hộ nghèo,
cho nên đã dẫn đến tình trạng số hộ nghèo thực tế lớn hơn số hộ nghèo được
cấp thẻ (hộ nghèo trong danh sách) tại từng thời điểm (vấn đề này chúng tôi sẽ
đề cập cụ thể ở phần sau).
Tổng cục Thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người
để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa trên chi
phí cho một giỏ tiêu dùng, bao gồm lương thực và phi lương thực; trong đó,
chi tiêu cho lương thực phải đủ đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho 1 người.
Các hộ được coi là thuộc diện nghèo, nếu mức thu nhập và chi tiêu không
đảm bảo giỏ tiêu dùng này.
Phương pháp đo lường đói nghèo bằng chi tiêu tỏ ra là một phương
pháp tốt. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của phương pháp này là nó địi
hỏi rất nhiều số liệu, chi phí điều tra cao, thời gian dài.
1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo
Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các
nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do mơi trường tự nhiên
(vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập quán
của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm nguyên
nhân do bản thân người nghèo; đi vào phân tích các nguyên nhân như sau:
1.1.3.1. Nhóm ngun nhân do mơi trường tự nhiên; kinh tế - xã
hội

- Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các
hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo.
Đói nghèo tập trung khu vực nơng thơn: Nghèo có đặc thù rõ rệt về mặt
địa lý. Ở Việt Nam, với 80% dân số và 90% số người nghèo sống ở nông
thôn “Những đặc trưng của người nghèo vẫn giống như trước đây - đói nghèo
vẫn là hiện tượng phổ biến ở nông thôn và đối với các dân tộc thiểu số, thì
14


15

15

mức độ đói nghèo cao và nghiêm trọng hơn so với đa số người Kinh. Các đặc
trưng khác của đói nghèo, là rủi ro cao về thu nhập, do thường xuyên bị thiên
tai và tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn” [16, trang 1].
Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nơng thôn là
15,9% đa số người nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít
khả năng tiếp cận nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị
trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất
lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân
nghèo thường khơng có điều kiện tiếp cận với hệ thống thơng tin, khó có khả
năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân
ở vùng sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là
những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời
gian hơn, nhưng thu nhập thấp hơn, họ có ít quyền quyết định trong gia đình
và cộng đồng, do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính
sách mang lại.
Điều kiện vị trí khơng thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu thụ

sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình. Người nghèo tập trung ở các vùng
có điều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn hoặc ở các vùng đồng bằng sông Cửu
Long, miền trung; do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán…) khiến
cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn,
đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở đã làm cho các vùng này càng bị
tách biệt với các vùng khác. “Năm 2000, khoảng 20- 30% trong tổng số 1.870
xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã
chưa đủ phịng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước
sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% số xã chưa đủ
cơng trình thủy lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó,
do điều kiện thiên nhiên khơng thuận lợi, số người dân thuộc diện cứu trợ đột
15


16

16

xuất hàng năm khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói
nghèo trong tổng số hộ vừa thốt khỏi đói nghèo cịn lớn” [4, trang 19].
Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đơ thị làm việc
trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp
và bấp bênh. Một số lao động mất việc làm do chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của họ càng khó
khăn, một số người thất nghiệp. Các hộ nghèo thường có ít đất đai và tình
trạng khơng có đất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi. Thiếu đất đai
ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo, cũng như
khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với
giá trị cao.

- Điều kiện kinh tế - xã hội
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hồn cảnh
khó khăn đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được
việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh
dưỡng tối thiểu và do vậy, khơng có đủ điều kiện nâng cao trình độ của mình
trong tương lai, để thốt khỏi cảnh đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi
dưỡng con cái… Những ảnh hưởng này tác động không những đối với thế hệ
hiện tại, mà cả đối với các thế hệ tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ
sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình
nghèo nhất và sẽ làm cho việc thốt nghèo thơng qua giáo dục, trở nên khó
khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy,
khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết
quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao
giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; Trung học cơ sở chiếm
37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo cịn rất lớn, chất lượng giáo
dục mà người nghèo tiếp cận được cịn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong
16


17

17

việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng
lên; 80% số người nghèo làm các cơng việc trong nơng nghiệp có mức thu
nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp, hạn chế khả năng kiếm việc làm trong
các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp và những công việc mang
lại thu nhập cao và ổn định hơn. Do trình độ dân trí thấp, nên việc bất bình
đẳng giới thường xảy ra. Bất bình đẳng giới cịn sâu sắc hơn tình trạng nghèo

đói trên tất cả các mặt. Ngồi những bất cơng mà cá nhân người phụ nữ và trẻ
em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng giới, thì cịn có những tác động bất
lợi khác đối với gia đình. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông
nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành
nông nghiệp. Mặc dù vậy, nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa
khuyến nơng về chăn ni và 10% các khóa khuyến nơng về trồng trọt. Phụ
nữ ít có cơ hội tiếp cận với cơng nghệ, tín dụng và đào tạo; họ thường xun
gặp khó khăn do gánh nặng cơng việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong
hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một
loại cơng việc. Phụ nữ có học vấn thấp, dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà
mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn. Bất
bình đẳng giới cịn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây truyền
HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục.
“Nghèo cũng liên quan chặt chẽ tới nhóm dân tộc, ngay cả khi tất cả các đặc
điểm khác nhau là giống nhau, chi tiêu của một người thuộc dân tộc thiểu số
cũng thấp hơn chi tiêu của một người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa
13%. Trình độ giáo dục cũng tạo sự khác biệt đáng kể; một hộ gia đình chủ hộ
có trình độ trung cấp có mức chi tiêu cao hơn mức trung bình gần 19% và nếu
chủ hộ có trình độ đại học thì mức cao hơn là 31%. Con số này là 29% nếu
vợ/chồng có trình độ trung cấp và 48% nếu vợ/chồng có trình độ đại học” [3,
trang 20].

17


18

18
Ngồi yếu tố dân trí ra thì phong tục, tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã


hội như buôn bán thuốc phiện, khai thác khoáng sản bừa bãi và di dân tự do
cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Một số vùng đồng bào dân tộc hiện
nay vẫn cịn những hủ tục lạc hậu, như người ốm khơng đưa đến các trạm y tế
để chữa bệnh mà mời thầy cúng đến làm lễ để cúng “con ma” ám vào người
bệnh (họ cho rằng người ốm là do ma ám). Làm lễ cúng như thế, bệnh của
người ốm ngày càng nặng thêm và rất tốn kém về kinh tế, dẫn đến gia đình
nghèo càng nghèo thêm.
- Chính sách nhà nước
Do cơ chế chính sách Nhà nước thiếu hoặc khơng đồng bộ về chính
sách đầu tư xây dựng, kết cấu hạ tầng cho từng vùng nghèo, chính sách
khuyến khích sản xuất, chính sách tín dụng, chính sách giáo dục đào tạo, y tế,
chính sách đất đai…đã ảnh hưởng đến kết quả XĐGN.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một
trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến mức giảm nghèo. Việt Nam đã có
những thành tích giảm đói nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên,
quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực
đến người nghèo:
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nơng nghiệp và nơng thơn
cịn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi, các trục cơng nghiệp chính, chú
trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, vẫn chưa chú trọng đầu tư các
ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú trọng khuyến khích kịp
thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp như lãi suất
tín dụng, trợ giá, trợ cước… không đúng đối tượng, làm ảnh hưởng xấu đến
sự hình thành thị trường nơng thơn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa.
Cải cách doanh nghiệp Nhà nước và những khó khăn về tài chính của
các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong
giai đoạn đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc
18



19

19

đã gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói.
Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn
tuổi.
Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh,
tự do hố thương mại tạo ra được những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến
khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu
hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả
năng tạo việc làm chưa đựợc quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng
thiếu thơng tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chế đã làm khơng ít các doanh nghiệp
nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, buộc họ phải
gia nhập vào đội ngũ người nghèo.
Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện tình
trạnh của người nghèo về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn
lực lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích
tăng trưởng trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc
vào đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biển đổi về thu nhập của
nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn
và kết quả đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo.
Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo
cịn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này cịn hết sức khó khăn,
đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của
nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động. Hệ thống pháp luật kinh tế vẫn
chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu một số đạo luật quan trọng. Nhiều văn bản
pháp quy dưới luật chưa được ban hành kịp thời và thiếu nhất qn đã gây
khơng ít cản trở trong quá trình thực hiện. Chất lượng một số luật về kinh tế,

một số văn bản pháp quy dưới luật còn yếu.

19


20

20
Việc mở các lớp bồi dưỡng về khoa học kỹ thuật mới đối với hộ nghèo

cịn ít, hiệu quả chưa cao. Nhà nước chưa định hướng cụ thể cho người dân
nên trồng cây gì, ni con gì cho phù hợp với điều kiện từng vùng, từng thời
kỳ. Rủi ro trong SXKD của hộ nghèo chưa được xử lý kịp thời để hỗ trợ họ.
1.1.3.2. Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo
Hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ như: Tri thức, học vấn, kỹ năng lao
động, khả năng tiếp cận thị trường, sức khỏe.
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực (vốn SXKD, kiến thức và
kỹ năng làm ăn, tư liệu sản xuất: Đất sản xuất, công cụ lao động, sức kéo…);
trong đó, thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng để SXKD là một lực cản
lớn nhất trong việc thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thường khơng đủ điều
kiện để vay được nhiều vốn, trong khi nguồn vốn tự có khiêm tốn hoặc khơng
có. Thiếu vốn là một trong những ngun nhân trì hỗn khả năng đổi mới sản
xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…Mặc dù trong khuôn khổ của
dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình XĐGN quốc gia, khả
năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều. Song vẫn còn khá nhiều người
nghèo, đặc biệt là người rất nghèo khơng có khả năng tiếp cận với các nguồn
tín dụng. Một mặt, khơng có tài sản thế chấp, những người nghèo phải dựa
vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn
vốn. Mặt khác, đa số người nghèo khơng có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử
dụng các nguồn vốn vay khơng đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện

tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Người
nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hồn cảnh đặc biệt
thường có trình độ học vấn thấp, nên khơng có khả năng tự giải quyết các vấn
đề vướng mắc liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế
thực hiện phức tạp, người nghèo khó khăn nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ
pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu ở

20


21

21

các vùng thành phố, thị xã… Nên người nghèo khó tiếp cận; hơn nữa phí dịch
vụ pháp lý cịn cao so với khả năng tài chính của họ.
Hộ nghèo thường gặp khó khăn và thiếu tự tin trong việc giải quyết các
vấn đề của chính bản thân mình. Về giao tiếp xã hội, người nghèo thường
quan hệ với những người nghèo như mình, hoặc nghèo hơn mình. Khơng
muốn quan hệ với những người khá giả hơn mình. Từ đó, càng làm hạn chế
về khả năng tiếp cận tư duy mới, cũng như kinh nghiệm làm kinh tế giỏi. Đây
là một cản trở lớn trong công cuộc XĐGN.
Đại đa số hộ nghèo kiến thức và kỹ năng về sản xuất yếu, phương pháp
canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức. Sản xuất tự cung, tự cấp là chính,
chưa có khái niệm về sản xuất hàng hoá. Kiến thức về marketting khơng có;
bán các sản phẩm làm ra, nhưng chưa qua chế biến, nên giá trị thấp; sản phẩm
làm ra chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường (bán sản phẩm của mình có,
chứ khơng bán cái mà thị trường cần). Người nghèo thường sống ở những
vùng xa xôi hẻo lánh, giao thơng đi lại khó khăn, thiếu phương tiện thông tin
liên lạc, con cái thất học…Thiếu việc làm, khơng năng động tìm kiếm việc

làm, lười biếng lao động. Do sinh con nhiều, đông con vừa là nguyên nhân,
vừa là hệ quả của đói nghèo. Trong gia đình các hộ nghèo mặc dù nhân khẩu
nhiều, nhưng số người có sức lao động lại ít. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị
tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường
xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất
thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém, nên họ khó có khả năng chống chọi
với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai,
mất nguồn lao động, mất sức khoẻ…). Với khả năng kinh tế mong manh của
các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra
nhưng bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. “Các rủi ro trong SXKD đối với
người nghèo cũng rất cao, do họ khơng có trình độ tay nghề và thiếu kinh
nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo
21


22

22

cũng rất kém, do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng
khắc phục rủi ro và có thể cịn gặp rủi ro hơn nữa.” [4, trang 24].
Bệnh tật và sức khỏe kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng
đói nghèo. Khi bị bệnh tật, hộ nghèo phải gánh chịu mất đi thu nhập từ lao
động và chi phí cao cho việc khám chữa bệnh; do vậy đẩy họ vào chỗ vay
mượn, cầm cố tài sản để trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng có ít cơ hội cho
người nghèo thốt khỏi đói nghèo. Trong khi đó, khả năng tiếp cận các dịch
vụ phịng bệnh của người nghèo cịn hạn chế: Tình trạng sức khỏe của người
Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải thiện, song tỷ lệ người nghèo mắc
các bệnh vẫn còn khá cao. Theo số liệu điều tra, mức sống năm 1998, số ngày
ốm bình qn của nhóm 20% người nghèo là 3,1 ngày/năm, so với 2,4

ngày/năm của nhóm 20% người giàu. Bệnh tật và sức khoẻ yếu ảnh hưởng
đến việc lao động sản xuất và tìm việc làm của người nghèo.
Hộ nghèo do có người khơng chịu làm việc, hoặc hay uống rượu, hoặc
chơi cờ bạc.
1.1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xố đói giảm nghèo
1.1.4.1. Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại
mơi trường và cản trở nâng cao dân trí
Đa số người nghèo hiện sống tại khu vực nông thôn. Sự chênh lệch
ngày càng tăng giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chính gây nên các
vấn đề xã hội. Ở nơng thơn đất sản xuất có hạn và ngày càng bị thu hẹp;
ngành nghề phụ một số nơi khơng phát triển và có thu nhập thấp hoặc khơng
có ngành nghề phụ dẫn đến thời gian nông nhàn nhiều, hậu quả góp phần làm
nảy sinh các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút. Các nguồn tài
nguyên xuống cấp và cạn kiệt, đánh bắt cá quá mức và các môi trường tự
nhiên biển bị phá hủy; môi trường tự nhiên ở vùng đất mặn và ven biển bị mất
đi; mất đất rừng tự nhiên ở các vùng núi, cùng với sự phá hoại hệ sinh thái đa
22


23

23

dạng; các vùng đất có vấn đề ngày càng lan rộng do sử dụng đất kém và
không đúng cách, ô nhiễm nước mặn, đất và nguồn nước khu vực nông thôn.
Những mất mát đi kèm với việc các hộ nghèo buộc phải bán đất, di dân tự do
ra thành thị và ven đô, nơi họ sinh sống thiếu hoặc không có những dịch vụ cơ
bản, một bộ phận con cái họ dễ trở thành nạn nhân của tội phạm (trộm cắp,
buôn bán hàng cấm, gái mại dâm…) và sự xuống cấp của mơi trường xung
quanh tăng ở mức ngồi tầm kiểm soát…Nhiều hộ cả vợ chồng bỏ ra thành

phố làm ăn, một năm về nhà vài lần, ở nhà các con tự nuôi nhau hoặc ở nhà
với ông bà già, các con thiếu sự quản lý, thiếu tình thương bố mẹ, nhiều
trường hợp học hành giảm sút bị bỏ dở, tham gia trộm cắp…Tại thành phố sự
chênh lệch giàu nghèo rõ nét, thiếu việc làm, khơng có đất để sản xuất dẫn
đến một số người làm ăn phi pháp, tệ nghiện hút ở thanh niên ngày càng gia
tăng…

23


24

24
1.1.4.2. Đói nghèo làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước
Mục tiêu tổng quát của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm 2001- 2010
là: “ Đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt
Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực
con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao” [4, trang 36].
Để đạt được những mục tiêu này, cần phải tiếp tục chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế. Mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tăng
cường cở sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cải thiện hệ thống giáo dục đào tạo để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng cường các lợi thế cạnh tranh trong
các cam kết thương mại song phương và đa phương nhằm chủ động hội nhập

kinh tế thế giới.
Tăng trưởng phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường, nhằm tạo thêm việc làm, cải thiện sức khoẻ cộng đồng, XĐGN và
ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Muốn thực hiện các mục
tiêu nêu trên, thì yếu tố con người là yếu tố đầu tiên và có tính chất quyết
định. Vì vậy, phát triển con người là mục tiêu hàng đầu, vừa là động lực to lớn
khơi dậy mọi tiềm năng của cá nhân và tập thể trong công cuộc xây dựng đất
nước giàu mạnh. XĐGN là một trong những chính sách xã hội hướng phát
triển con người, nhất là đối với nhóm người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia
vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Đói nghèo và lạc hậu
bao giờ cũng đi đôi với gia tăng dân số, suy giảm thể lực, trí lực… Vì vậy,
XĐGN là một yêu cầu cấp thiết để phát triển một xã hội bền vững.
24


25

25
1.1.4.3. Xố đói giảm nghèo bảo đảm cho đất nước giàu mạnh và xã

hội phát triển bền vững
XĐGN không chỉ là cơng việc trước mắt, mà cịn là nhiệm vụ lâu dài;
trước mắt là xố hộ đói, giảm hộ nghèo. Lâu dài là xoá sự nghèo, giảm
khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh.
XĐGN góp phần thực hiện cơng bằng xã hội thể hiện trên các mặt:
Mở rộng cơ hội lựa chọn cho cá nhân và nhóm người nghèo, nâng cao
năng lực cá nhân để thực hiện có hiệu quả sự lựa chọn của mình trong tạo
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tạo cơ hội cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng

cách và sự chênh lệch quá đáng về mức sống giữa nơng thơn và thành thị,
các nhóm dân cư. XĐGN tham gia vào điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý
hơn, từng bước thực hiện sự phân phối công bằng cả trong khâu phân phối
tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất cho mỗi người,
nhất là nhóm người nghèo.
Hỗ trợ tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội, nhất là
những dịch vụ xã hội cơ bản.
XĐGN không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ
động, mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn lên thốt
nghèo. XĐGN khơng đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh
tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn; mà cịn là nhân tố quan trọng tạo
ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng
sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”.
Do vậy, các chính sách ban hành để thực thi chương trình XĐGN giữ
vai trị quan trọng, góp phần tích cực hồn thành mục tiêu tăng trưởng nhanh
và bền vững của nền kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao, tạo cơ hội
thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội SXKD
và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng, tạo điều kiện thu hẹp dần
25


×