Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Quản lý vốn chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo tại quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 126 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hơn 20 năm thực hiện công cuộc "đổi mới", Việt Nam đã thu được những
thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế luôn là vấn đề nóng hổi nhất
và là mục tiêu quan trọng nhất của cả đất nước và mỗi người dân.
Trong một thời gian dài, con người chỉ được nhìn nhận như một trong nhiều
nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế hơn là mục tiêu phát triển thật sự của tăng trưởng
kinh tế. Mọi nguồn lực, trong đó có con người, được huy động một cách tối đa để
phục vụ phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế được xem là "cứu cánh" giải quyết
mọi vấn đề của con người, của xã hội.
Đến những năm 90 của thế kỷ XX, cách tiếp cận coi con người là trung tâm
của sự phát triển bắt đầu được nhìn nhận ở Việt Nam, xã hội từng bước nhận thức tốt
hơn và đồng thuận cao hơn về tầm quan trọng của sự phát triển con người. Trong
trường hợp này, là mở rộng phạm vi lựa chọn của con người với mục đích là để con
người sống: 1)cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, 2) được giáo dục, 3) được tiếp cận
đến các nguồn lực cần thiết cho một mức sống cao hơn.Vì vậy, Việt Nam đã chú ý
hơn đến "tăng trưởng bền vững" và đã triển khai thực hiện một số chương trình quốc
gia về xóa đói giảm nghèo và các lĩnh vực xã hội khác. Tuy nhiên, phải đến năm
2001, các chương trình mục tiêu quốc gia mới được chú ý hơn và được nâng tầm
bằng việc hoàn chỉnh cơ chế, tập trung nguồn lực cho quá trình thực hiện.
Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo được ra đời trong bối
cảnh đó với mục tiêu nhằm làm thay đổi căn bản chất lượng giáo dục - đào tạo của
nước ta; một cách khác, là mở rộng khả năng của con người. Chương trình có những
ưu tiên cho vùng khó khăn, thực hiện công bằng xã hội qua việc phân bổ nguồn lực.
Quảng Bình là một tỉnh nghèo, tỷ trọng nông nghiệp - nông thôn thuộc hàng
cao của cả nước, 6/7 huyện, thành phố có vùng đặc biệt khó khăn. Hạn chế về nguồn
lực cho phát triển là vấn đề quan trọng đối với chính quyền, doanh nghiệp, người dân

1



Quảng Bình. Vì vậy, tham gia chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo là
cơ hội để Quảng Bình xây dựng hệ thống giáo dục - đào tạo một cách toàn diện, cải
thiện các chỉ số về giáo dục, qua đó, nâng cao chỉ số phát triển con người, góp phần
phát triển một cách bền vững.
Tuy nhiên, hạn chế về khả năng quản lý, điều hành và sự đóng góp của ngân
sách địa phương và một số nguyên nhân khác nên hiệu quả quản lý, sử dụng vốn
chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo khơng đạt được như kỳ vọng. Để
góp phần nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống, tìm ra nguyên nhân và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn chương trình mục
tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo, tác giả chọn đề tài: "Quản lý vốn chương trình mục
tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo tại Quảng Bình".
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là khái quát hóa, hệ thống hóa và bổ sung những vấn đề
lý luận chung liên quan đến nội dung của đề tài thuộc lĩnh vực chi tiêu công cho giáo
dục đào tạo. Trên cơ sở đó, luận văn này nhằm vào các mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
- Tổng hợp được các vấn đề lý luận, các văn bản pháp quy liên quan tới quản
lý, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo.
- Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục và đào tạo ở Quảng Bình.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng
vốn chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo ở Quảng Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Cơng tác quản lý và sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục và đào tạo.
- Phạm vi:

+ Vốn chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo của
tỉnh Quảng Bình;
+ Thời gian đánh giá thực trạng từ năm 2002-2006;

+ Các giải pháp đề xuất từ năm 2007-2010.

4. Phương pháp nghiên cứu

2


- Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu thứ cấp theo thời gian;
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu sơ cấp từ các đơn vị cơ sở, sử dụng
các phép kiểm định thống kê và phân tích số liệu đa biến nhằm xác định những nhân
tố ảnh hưởng đến việc quản lý, sử dụng hiệu quả vốn chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục - đào tạo.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm:
Chương 1: Tổng quan về quản lý, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục và đào tạo
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng quản lý, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục và đào tạo tại tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2002-2006
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn chương trình
mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo tại tỉnh Quảng Bình từ nay đến năm 2010.

3


PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1

TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN CHƯƠNG
TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Tài chính cơng
Vốn nhà nước đóng một vai trị rất quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội
của một đất nước hay địa phương. Đầu tư từ nguồn vốn này có hai bản chất: 1) là
nguồn “vốn mồi, vốn bảo đảm, vốn đối ứng” nhằm thu hút đầu tư từ các nguồn khác
trong xã hội, 2) đi vào xây lắp, cung ứng các dịch vụ công cộng, dịch vụ xã hội, hạ
tầng cơ sở có tính nền tảng, những lĩnh vực mà các nguồn vốn khác ít tham gia, để
tạo điều kiện cho một sự phát triển hài hòa, ổn định và bền vững [44].
Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo, một trong các trường hợp
đó, bao gồm nhiều dự án khác nhau nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng
ngày càng tốt hơn cho nhu cầu của xã hội. Vốn chương trình nằm trong cơ cấu chi
ngân sách nhà nước (NSNN) - bộ phận chủ yếu của tài chính cơng, vì vậy, việc
nghiên cứu hiệu quả quản lý, sử dụng vốn chương trình phải được xem xét ở góc độ
là một bộ phận của chi NSNN và tài chính cơng.
Dựa theo một số tiêu thức nhất định, hệ thống Tài chính quốc dân được phân
loại thành Tài chính cơng và Tài chính tư.
Tài chính cơng là một thuật ngữ mới xuất hiện tại Việt Nam, vì vậy, có rất
nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về tài chính cơng. Xét theo ý nghĩa và phạm vi, thuật
ngữ tài chính cơng được hiểu là sự hợp thành bởi ý nghĩa và phạm vi của 2 thuật ngữ:
Tài chính và Cơng (hay cơng cộng). Từ góc độ đó, tài chính cơng là tổng thể các

4


hoạt động thu, chi bằng tiền do nhà nước tiến hành, nó phản ánh các quan hệ kinh tế
nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công nhằm phục vụ thực hiện
các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của tồn xã hội
[15].

Tài chính cơng có những đặc trưng cơ bản sau:
- Về mặt sở hữu: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính cơng
thuộc sở hữu công cộng, mà nhà nước là đại diện, thường gọi là sở hữu nhà nước.
- Về mặt mục đích: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính cơng
được sử dụng vì lợi ích chung của tồn xã hội, của cả cộng đồng, vì các mục tiêu
kinh tế vĩ mơ, khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
- Về mặt chủ thể: các hoạt động thu chi bằng tiền trong tài chính cơng do các
chủ thể Cơng tiến hành. Các chủ thể Công ở đây là Nhà nước hoặc các cơ quan, tổ
chức được nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các thu, chi đó.
- Về mặt luật pháp: các quan hệ tài chính cơng chịu sự điều chỉnh bởi các
"Luật công", dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh - quyền uy; khác với tài
chính cơng, các quan hệ tài chính tư được điều chỉnh bới các "Luật tư", dựa trên các
quy phạm pháp luật hướng dẫn, thỏa thuận.
Tùy theo các cách tiếp cận khác nhau dựa trên các tiêu thức khác nhau có thể
có các cách phân loại khác nhau về hệ thống tài chính cơng. Theo nội dung quản lý,
có thể phân chia tài chính cơng bao gồm:
- Ngân sách Nhà nước;
- Tín dụng Nhà nước;
- Các quỹ tài chính nhà nước (TCNN) ngồi ngân sách nhà nước.
Trong đó, ngân sách Nhà nước là khâu quan trọng nhất giữ vai trị chủ đạo
trong tài chính cơng.
Điều đáng chú ý là, tài chính của các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và
tài chính của các doanh nghiệp nhà nước mặc dù có nguồn gốc từ NSNN hoặc thuộc
sở hữu nhà nước đều không được xếp vào hệ thống tài chính cơng do khơng có đầy
đủ các đặc trưng cơ bản nêu trên (về chủ thể, mục đích).

5


Các quỹ TCNN ngồi NSNN

Tài chính tư
Tín dụng Nhà nước
Tài chíng cơng
Ngân sách Nhà nước
Hình 1.1: Hệ thống Tài chính quốc dân và phân chia Tài chính cơng
1.1.2 Ngân sách Nhà nước
Thuật ngữ ngân sách (budget) bắt nguồn từ tiếng Anh, dùng để mơ tả cái ví,
cái xắc của nhà vua, trong đó, chứa những khoản tiền cần thiết cho chi tiêu cơng (cho
tồn xã hội) và chi tiêu của hoàng gia. Trong đời sống kinh tế, thuật ngữ này đã thoát
ly ý nghĩa ban đầu và mang nội dung hoàn toàn mới. Cho tới nay, khi bàn luận về
khái niệm ngân sách cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Từ điển thuật ngữ tài chính
tín dụng (1996) của Viện Nghiên cứu Tài chính cho rằng: "Ngân sách được hiểu là
dự toán và thực hiện mọi khoản thu nhập (tiền thu vào) và chi tiêu (tiền xuất ra) của
bất kỳ một cơ quan, xí nghiệp, tổ chức, gia đình hoặc cá nhân trong một khoảng thời
gian nhất định (thường là một năm)".
Từ khái niệm về ngân sách, có thể hiểu ngân sách Nhà nước là dự toán (kế
hoạch) thu - chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là một năm).
Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 2 thơng qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ
năm ngân sách 2004 quy định: "NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước"[29].
Chu trình ngân sách hay cịn gọi là quy trình ngân sách dùng để chỉ tồn bộ
hoạt động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho tới khi kết thúc chuyển

6


sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách gồm 3 khâu nối tiếp nhau, đó là: lập

ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách.
Lập

Chấp hành

NS

NS năm n+1

Quyết toán NS

(n+1)

năm n+1
Lập

Chấp hành

NS

NS năm n+2

(n+2)
Lập
Chấp hành
NS

NS năm n+3

(n+3)


6/n

1/n+1

1/n+2

1/n+3

1/n+4

Quyết tốn NS
năm n+2

Quyết tốn NS
năm n+3

1/n+5 6/n+5

Hình 1.2: Chu trình ngân sách Việt Nam
Chu trình ngân sách thường bắt đầu từ trước năm ngân sách và kết thúc sau
năm ngân sách; trong một năm ngân sách đồng thời diễn ra cả 3 khâu của chu trình
ngân sách (Hình 1.2).
1.1.3 Chi ngân sách nhà nước
1.1.3.1 Khái niệm chi ngân sách nhà nước
Đứng về phương diện pháp lý, chi ngân sách Nhà nước là những khoản chi
tiêu do Chính phủ hay các pháp nhân hành chính thực hiện để đạt được mục tiêu cơng
ích, chẳng hạn như: Bảo vệ an ninh và trật tự, cứu trợ bảo hiểm, trợ giúp kinh tế,
chống thất nghiệp...
Về mặt bản chất, chi ngân sách Nhà nước là hệ thống những quan hệ phân

phối lại các khoản thu nhập phát sinh trong q trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở mang các
sự nghiệp văn hố – xã hội, duy trì hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước và đảm
bảo an ninh Quốc phịng.
Chi ngân sách Nhà nước có quan hệ chặt chẽ với thu ngân sách Nhà nước. Thu
ngân sách Nhà nước là nguồn vốn để đảm bảo nhu cầu chi ngân sách nhà nước,
ngược lại sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để chi cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế
lại là điều kiện để tăng nhanh thu nhập của ngân sách Nhà nước. Do vậy việc sử dụng

7


vốn ngân sách Nhà nước, chi tiêu ngân sách một cách tiết kiệm, có hiệu quả là một bộ
phận khơng thể tách rời của vấn đề nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội và tăng
sản phẩm Quốc gia.
Chi ngân sách Nhà nước gắn liền với việc thực hiện các chính sách kinh tế,
chính trị, xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ. Điều này chứng tỏ các khoản chi
của ngân sách nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
của một Quốc gia [18].
1.1.3.2 Đặc điểm chi ngân sách nhà nước
- Chi ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý kinh tế - xã hội. Chi ngân sách nhà nước gắn liền với các chương
trình mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước đề ra nhằm thực hiện chức năng quản lý
của mình. Do đó, chi ngân sách Nhà nước thường là những khoản chi có tính ổn định
trong một khoảng thời gian dài. Vì vậy, các chương trình kinh tế - xã hội Nhà nước
đảm nhận càng nhiều, phạm vi càng rộng thì các khoản chi càng lớn, phức tạp, đa
dạng và chi ngân sách Nhà nước càng gắn chặt vào tiến trình kinh tế.
- Chi ngân sách Nhà nước có quy mơ lớn, phạm vi rộng, chủng loại chi đa
dạng. Bên cạnh đó sự khác biệt về chủ sở hữu ngân sách người trực tiếp sử dụng tiền
chi và đối tượng phục vụ trực tiếp của chi ngân sách Nhà nước càng làm cho quá tình

này phức tạp hơn, địi hỏi phải có một chế độ quản lý chặt chẽ nhằm hạn chế và ngăn
ngừa các hiện tượng tiêu cực như: lãng phí, tham ơ, biển thủ tiền của ngân sách Nhà
nước.
- Đa phần các khoản chi ngân sách Nhà nước đều mang tính chất khơng hồn
trả. Do đó, việc đánh giá chi ngân sách Nhà nước cần được tiến hành trên góc độ vĩ
mơ của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
1.1.3.3 Vai trò của chi ngân sách nhà nước
- Chi ngân sách Nhà nước là nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo và duy trì sự
hoạt động bình thường của hệ thống chính quyền các cấp từ TW đến địa phương.
Hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp, khơng chỉ nhằm mục đích thống nhất
quản lý các hoạt động của nền kinh tế quốc dân mà còn nhằm đảm bảo sự ổn định về
chính trị: Một trong những nhân tố có vai trị quyết định đến sự thành bại của cơng

8


cuộc cải cách kinh tế. Để có một nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định và vững chắc
cần phải có bộ máy chính quyền có năng lực, trong sạch và có nguồn vật chất đủ
mạnh để chính quyền các cấp có thể thực thi được các nhiệm vụ của mình.
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước, đặc biệt là chi xây
dựng hệ thống cơ sở hạ tầng có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, vì
nó tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của doanh nghiệp
hay nói cách khác, đầu tư của Chính phủ tạo ra sự khởi động ban đầu, kích thích q
trình vận động vốn để hướng tới sự tăng trưởng.
- Trong trường hợp đặc biệt, chi ngân sách nhà nước trợ cấp cho một số doanh
nghiệp cũng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế. Kinh nghiệm của
nhiều nước trên thế giới cho thấy việc thay thế các quy chế ưu đãi bằng các khoản trợ
cấp có tác dụng rất lớn trong việc khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, hơn
nữa nó cịn giảm một số thủ tục rườm rà do quy định miễn, giảm thuế gây ra.
- Một trong những mục tiêu chính sách ngân sách nhà nước là đảm bảo cơng

bằng xã hội. Bên cạnh việc sử dụng thu ngân sách nhà nước để thực hiện công tác này,
chi ngân sách Nhà nước cũng có một vai trị hết sức quan trọng. Cơ chế thị trường tạo ra
sự phân hoá giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp trong
xã hội. Để làm giảm khoảng cách đó, Nhà nước phải sử dụng các hình thức trợ cấp từ
ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó các khoản trợ cấp cho giáo dục, y tế có ý nghĩa lớn
đối với việc nâng cao dân trí và đảm bảo sức khoẻ cho dân cư.
- Chi ngân sách Nhà nước có tác động nhất định đến việc thực hiện mục tiêu
ổn định kinh tế. Trường hợp chi vượt quá thu nhiều sẽ dẫn đến lạm phát. Vì vậy, để
kiềm chế lạm phát phải khống chế tiêu dùng của Chính phủ, đặc biệt đối với những
nước đang phát triển, nơi lạm phát thường ở mức độ cao. Đồng thời, chi ngân sách
Nhà nước có vai trị rất quan trọng đối với q trình phát triển kinh tế thơng qua hỗ
trợ phát triển khả năng sản xuất, cung cấp thích ứng nguồn nhân lực và nghiên cứu
khoa học kỹ thuật.
Như vậy, phát triển kinh tế, xã hội ổn định, công bằng và văn minh, một dân
số thông minh và đầy triển vọng... tất cả những vấn đề này đều có liên hệ mật thiết

9


đến chi tiêu ngân sách nhà nước và phụ thuộc vào mức độ chi tiêu ngân sách Nhà
nước trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
1.1.3.4 Phân loại chi ngân sách nhà nước
Phân loại chi ngân sách nhà nước là sự sắp xếp các khoản chi thành những
nhóm theo những tiêu thức nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của cơng tác nghiên cứu,
phân tích kinh tế, quản lý và định hướng chi ngân sách Nhà nước. Thông thường
phân loại chi ngân sách nhà nước được dựa trên các tiêu thức chủ yếu sau:
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động:
+ Chi đầu tư kinh tế;
+ Chi cho Y tế;
+ Chi cho giáo dục;

+ Chi cho phúc lợi xã hội;
+ Chi cho quản lý hành chính;
+ Chi cho an ninh và quốc phịng.
- Căn cứ vào tính chất sử dụng:
+ Chi cho lĩnh vực sản xuất vật chất;
+ Chi cho lĩnh vực phi sản xuất vật chất.
- Căn cứ vào chức năng quản lý của nhà nước:
+ Chi nghiệp vụ;
+ Chi phát triển.
- Căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội:
+ Chi tích luỹ;
+ Chi tiêu dùng.
- Căn cứ vào các yếu tố thời hạn tác động của các khoản chi:
+ Chi thường xuyên: Là những khoản chi có thời hạn tác động ngắn, bao gồm:
Chi lương và các khoản có tính chất tiền lương, chi bổ sung quỹ hưu trí, chi cơng vụ
phí, chi mua sắm hàng hoá và dịch vụ cho nghiệp vụ và cho sửa chữa thường xuyên,
chi trợ cấp, dự bị phí, chi trợ giá, chi hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội...

10


+ Chi đầu tư phát triển: Là những khoản chi có thời hạn tác động dài, bao
gồm: Chi đầu tư các dự án phát triển, chi chuyển giao vốn đầu tư cho các doanh
nghiệp nhà nước hoặc các địa phương, chi bổ sung dự trữ nhà nước...
+ Chi trả khác: Bao gồm, chi cho vay (như: cho vay cá nhân và các tổ chức
phi lợi nhuận, cho vay các tổ chức nhà nước, cho vay nước ngoài...) trả lãi và nợ gốc
(vay trong nước, vay ngoài nước), chi viện trợ...
1.1.3.5 Cơ cấu chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam
Theo luật pháp về ngân sách nhà nước hiện hành ở nước ta, chi ngân sách nhà
nước ở Việt Nam bao gồm:

a) Chi thường xuyên về
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế xã hội, văn hoá thông tin, văn
học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác:
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
- Quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội;
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
- Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Đồn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam;
- Trợ giá theo chính sách của nhà nước;
- Phần chi thường xuyên của các chương trình mục tiêu (CTMT) quốc gia, dự
án nhà nước;
- Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội;
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
- Trợ cấp cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp;
- Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật;
b) Chi đầu tư phát triển

11


- Đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khơng có khả
năng thu hồi vốn;
- Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước; Góp phần cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước theo quy định của pháp luật;
- Chi bổ sung dự trữ Nhà nước;
- Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước;

- Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
Chi đầu tư phát triển

Chi thường xuyên

Chi CTMT quốc gia

Các khoản chi khác

Hình 1.3: Cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
c) Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
d) Chi viện trợ của NSTW cho các Chính phủ và tổ chức ngồi nước.
đ) Chi cho vay của NSTW.
e) Chi trả gốc và lãi các khoản huy động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
thuộc ngân sách cấp tỉnh theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
g) Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính theo quy định.
h) Chi bổ sung ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
i) Chi chuyển nguồn từ ngân sách năm trước sang ngân sách năm sau (Nghị
định số 60/2003/NĐ-CP [9].
1.2. CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
1.2.1. Chương trình mục tiêu quốc gia

12


a) Bối cảnh
Trọng tâm của quá trình phát triển đang chuyển từ tăng trưởng kinh tế sang
mục tiêu vì con người. Hàng thế kỷ trước đây, trước nạn đói nghèo nghiêm trọng, thế
giới đã phải tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tính cách là cơng cụ cải thiện
mức tiêu dùng của người dân và xóa đói giảm nghèo. Tốc độ tăng trưởng cao cũng

được xem là một tiền đề tốt cho việc huy động nguồn vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài để tiếp tục phát triển đất nước và nâng cao đời sống người dân.
Tuy nhiên, do quá tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nên một chừng mực
nào đó, các chính sách phát triển đã bỏ qua hoặc còn đánh giá thấp vai trò của con
người. Con người thường chỉ được nhìn nhận như nguồn lực cho tăng trưởng hơn là
mục tiêu phát triển thật sự của tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, mặc dù rất cần
thiết, tăng trưởng kinh tế lại không phải là điều kiện đủ cho sự phát triển toàn diện, vì
hai lý do. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chỉ nắm bắt hiệu ứng thu nhập ở cấp độ tổng
thể, trong khi bỏ qua nhiều khía cạnh xã hội của sự phát triển. Nếu khơng có giải
pháp hợp lý, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở cấp độ vi mơ có thể trở nên
nghiêm trọng hơn. Một số lập luận có thể cho rằng tái phân phối là cần thiết nhằm bổ
sung cho tăng trưởng kinh tế; song ngay theo nghĩa đó, tái phân phối hiệu quả phải
được đặt ngang bằng với tăng trưởng kinh tế để tạo cơ hội công bằng cho mọi người
cùng phát triển. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế có thể đạt được nhờ khai thác quá mức
các nguồn tài nguyên (không tái tạo được) như môi trường, tài nguyên thiên nhiên,...
mà người trả giá chính là các thế hệ tương lai [43].
Cách tiếp cận coi con người là trung tâm của sự phát triển mang tính tồn diện
hơn, do đó, cũng thích hợp hơn. Từ những năm 1990, các nhà nghiên cứu, các nhà
hoạch định và tư vấn chính sách, các nhà thực thi chính sách đã có nhận thức tốt hơn
và đồng thuận cao hơn về tầm quan trọng của sự phát triển con người. Như được định
nghĩa trong Báo cáo phát triển con người toàn cầu đầu tiên của Chương trình Phát
triển Liên hiệp Quốc (UNDP) năm 1990, phát triển con người là "quá trình mở rộng
sự lựa chọn của con người. Điều quan trọng nhất của phạm vi lựa chọn rộng lớn đó
là để con người sống một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, được giáo dục và tiếp cận

13


đến các nguồn lực cần thiết cho một mức sống cao"[10]. Xét theo năng lực, phát triển
con người có thể định nghĩa là "quá trình mở rộng khả năng của con người, tập hợp

những lựa chọn sẵn có cho con người, và cuối cùng là quyền tự do con người có
được để xác định hạnh phúc của mình" [23].
Khơng nằm ngồi quy luật đã phân tích ở trên, sau một thời gian dài tập trung
các nguồn lực cho phát triển kinh tế, giữa thập niên 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã
quan tâm hơn đến "tăng trưởng bền vững", vì vậy, đã triển khai thực hiện một số
chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo và các lĩnh vực xã hội khác[. Tuy
nhiên, phải đến năm 2001, các chương trình mục tiêu quốc gia mới được chú ý hơn
và được nâng tầm bằng việc hoàn chỉnh cơ chế, tập trung nguồn lực cho quá trình
thực hiện.
b) Khái niệm về chương trình mục tiêu quốc gia
Chương trình mục tiêu quốc gia là tập hợp các mục tỉêu, nhiệm vụ và giải pháp
đồng bộ về kinh tế, xã hội, khoa học, cơng nghệ, mơi trường, cơ chế, chính sách, tổ
chức để thực hiện một hoặc một số mục tiêu đã được xác định trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước trong một thời gian nhất định [33].
Một chương trình mục tiêu quốc gia gồm nhiều dự án khác nhau để thực hiện
mục tiêu của chương trình. Đối tượng quản lý và kế hoạch hóa được xác định theo
chương trình, việc đầu tư được thực hiện theo dự án. Dự án thuộc chương trình mục
tiêu quốc gia là một tập hợp các hoạt động để tiến hành một công việc nhất định
nhằm đạt được một hay nhiều mục tiêu cụ thể đã được định rõ trong chương trình với
nguồn lực và thời hạn được xác định.
c) Tiêu chuẩn lựa chọn chương trình mục tiêu quốc gia
- Các vấn đề được chọn để giải quyết bằng chương trình mục tiêu quốc gia
phải là những vấn đề có tính cấp bách, liên ngành, liên vùng và có tầm quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, cần phải được tập trung nguồn
lực và sự chỉ đạo của Chính phủ để giải quyết.
- Mục tiêu của chương trình quốc gia phải rõ ràng, lượng hóa được và phải
nằm trong chiến lược chung của quốc gia.

14



- Thời gian thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phải được quy định giới
hạn, thường là 5 năm, hoặc phân kỳ thực hiện cho từng giai đoạn 5 năm.
- Các vấn đề xã hội mà Chính phủ Việt Nam cam kết với quốc tế thực hiện
theo chương trình chung của thế giới hoặc khu vực.
d) Nội dung chương trình mục tiêu quốc gia
- Thực trạng tình hình của lĩnh vực thuộc chương trình mục tiêu quốc gia;
những vấn đề cấp bách cần được giải quyết bằng chương trình mục tiêu quốc gia.
- Phạm vi, quy mô và mục tiêu chung của chương trình; các chỉ tiêu cơ bản
phải đạt được trong từng khoảng thời gian cụ thể; các dự án của chương trình.
- Tổng mức kinh phí của chương trình bao gồm cả kinh phí cho việc xử lý các
vấn đề về khoa học, cơng nghệ (nếu có), mức kinh phí theo từng năm, phương thức
huy động các nguồn vốn.
- Cơ chế, chính sách thực hiện chương trình.
- Yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực thực hiện chương trình.
- Những vấn đề về khoa học, cơng nghệ xử lý (nếu có).
- Hiệu quả kinh tế - xã hội chung của chương trình và của từng dự án.
- Khả năng lồng ghép với các chương trình khác.
- Kế hoạch, tiến độ tổ chức thực hiện chương trình.
- Hợp tác quốc tế (nếu có).
- Kế hoạch và thơng số kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chương trình.
đ) Danh mục chương trình mục tiêu quốc gia
Danh mục chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001-2005 được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001, gồm:
- Xóa đói giảm nghèo và Việc làm;
- Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn;
- Dân số và Kế hoạch hóa gia đình;
- Phịng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS;
- Văn hóa;
- Giáo dục và Đào tạo.


15


1.2.2. Cơ chế tài chính các chương trình mục tiêu quốc gia
Cơ chế tài chính các chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện theo Luật
NSNN, các quy định khác có liên quan của nhà nước về chi NSNN và các văn bản
liên quan đến danh mục, quản lý, điều hành chương trình mục tiêu quốc gia [4], [31],
[33]. Theo đó, việc kế hoạch hóa nguồn lực, phân bổ vốn và giao kế hoạch (thể hiện
tại sơ đồ 1.4 và 1.5), như sau:
- Hàng năm Thủ tướng Chính phủ giao các Bộ, cơ quan Trung ương và UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ tiêu tổng kinh phí của các chương trình mục
tiêu quốc gia; trong đó, gồm có kinh phí xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp.
- Thủ tướng Chính phủ ủy quyền Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao các
Bộ, cơ quan Trung ương và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương các chỉ
tiêu hướng dẫn về các mục tiêu, nhiệm vụ hàng năm của từng chương trình.
- Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính giao dự tốn chi tiết và cấp trực tiếp kinh phí đã
được cân đối trong dự tốn chi ngân sách Trung ương hàng năm cho các Bộ, cơ quan
Trung ương để thực hiện nhiệm vụ của chương trình mục tiêu quốc gia do Trung
ương quản lý.
Bộ Tài chính cấp bổ sung có mục tiêu cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương theo kế hoạch phân bổ kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện trên
địa bàn do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí.
- Hàng năm cơ quan quản lý chương trình mục tiêu quốc gia lập kế hoạch mục
tiêu và nhu cầu kinh phí để thực hiện chương trình, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính. Trên cơ sở tổng mức kinh phí dự kiến bố trí cho các chương trình được
cấp có thẩm quyền thơng báo, cơ quan quản lý chương trình dự kiến phân bổ cho các
Bộ, cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, gửi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xem xét, tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định; cơ quan quản lý chương trình khơng giao kế hoạch và khơng thơng báo

kinh phí của chương trình cho các cơ quan ngành dọc ở tỉnh, thành phố.
16


Cơ quan quản lý chương trình hướng dẫn chun mơn, nghiệp vụ, phối hợp
với Bộ Tài chính hướng dẫn các định mức chi tiêu thống nhất cho các Bộ, cơ quan
Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để chủ động thực hiện; chỉ
đạo, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện chương trình.

Chính phủ
Đề xuất nhiệm vụ, mục tiêu và nhu cầu kinh phí:
Thơng báo dự kiến tổng mức kinh phí: Kế hoạch
Bộ Tài chính
Bộ
Hình 1.4: Sơ đồ kế hoạch hóa và Đầulực
nguồn tư
- Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ triển
khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn; chủ động lồng ghép

Cơ quan quản
lý chương
trình cụ thể; huy động thêm các nguồn vốntrình theo quy định để bổ sung cho việc
khác
các chương trình, bố trí mức kinh phí và kế hoạch phân bổ kinh phí cho từng chương

thực hiện các chương trình; hàng quý, năm báo cáo việc thực hiện các chương trình
cho cơ quan quản lý chương trình, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính; đồng thời
phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.

17



Chính phủ
Dự kiến phân bổ kinh phí:

; Hướng dẫn chuyên mơn:

Giao chỉ tiêu mục tiêu, nhiệm vụ, tổng kinh phí:

Bộ
Giao dự tốn chi tiết: Tài chính

Bộ Kế định mức chi tiêu:
; Hướng dẫn hoạch

và Đầu tư
Giao các chỉ tiêu hướng dẫn về các mục tiêu, nhiệm vụ:
Hình 1.5: Sơ đồ phân bổ vốn và giao kế hoạch
Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT-BKH-BTC ngày 06/01/2003 của liên Bộ:

Cơ quan quản
Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính hướng dẫn thực hiện, gồm 5 phần:
lý chương

- Cơng tác kế hoạch hóa các chương trình mục tiêu quốc gia;
trình
- Cơ chế tài chính các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Phân cơng, phân cấp quản lý và điều hành các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Chế độ báo cáo;


Các Bộ, cơ
- Điều khoản thi hành.
quan TW
thực hiện CT

UBND các
tỉnh, TP
18


1.2.3. Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo
1.2.3.1. Mục tiêu, nội dung, phạm vi và trách nhiệm thực hiện
Theo Quyết định số 26/2003/QĐ-TTg ngày 17/02/2003 của Thủ tướng Chính
phủ, các nội dung chủ yếu của chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo
như sau:
a) Mục tiêu của Chương trình
* Mục tiêu chung:
- Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, đưa nền giáo dục nước ta
thốt khỏi tình trạng tụt hậu so với các nước phát triển trong khu vực, tiếp cận với trình
độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp
học, bậc học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu vừa
tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
- Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt, chú trọng nhân lực khoa học
- cơng nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và cơng nhân kỹ thuật lành
nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh tiến độ
thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
* Các mục tiêu cụ thể:
- Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong cả nước vào năm 2010,

trong đó, đến năm 2005 hồn thành ở 30 tỉnh, thành phố.
- Đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa.
- Nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% tổng số lao động trong độ tuổi quy
định vào năm 2010, trong đó, đạt 30% vào năm 2005; điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhân
lực về bậc đào tạo, ngành nghề và lãnh thổ phù hợp với nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; đẩy mạnh đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường.
b) Nội dung của Chương trình
Chương trình gồm 7 dự án thành phần như sau:
- Dự án Củng cố và phát huy kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù
chữ, thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

19


- Dự án Đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa.
- Dự án Đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường, đẩy mạnh dạy
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Dự án Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất các
trường sư phạm.
- Dự án hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó
khăn.
- Dự án Tăng cường cơ sở vật chất các trường học, các Trung tâm kỹ thuật
tổng hợp - hướng nghiệp; xây dựng một số trường đại học, trung học chuyên nghiệp
trong điểm.
- Dự án tăng cường năng lực đào tạo nghề.
c) Phạm vi triển khai thực hiện Chương trình
Chương trình được triển khai thực hiện trên phạm vi toàn quốc, gồm:
* Trung ương: triển khai thực hiện ở 50 Bộ, ban ngành và đơn vị xuống đến
các trường và các đơn vị trực thuộc trong cả nước. Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo
gồm Văn phòng Bộ, 48 trường và đơn vị trực thuộc trong cả nước; Bộ Lao động

Thương binh và Xã hội gồm Tổng cục dạy nghề, 7 trường và đơn vị trực thuộc; 48
Bộ, ban ngành, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị trung ương cùng tham gia thực hiện.
* Địa phương: triển khai thực hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước
và xuống đến tận cấp huyện, xã.
d) Trách nhiệm thực hiện Chương trình
- Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan có trách nhiệm quản lý, điều hành và
tổng hợp chung tồn bộ tình hình thực hiện chương trình; chủ trì, phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan và các địa phương quản lý, tổ chức thực hiện các dự án từ dự án
1 đến dự án 6.
- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành liên quan và các địa phương tổ chức thực hiện
dự án 7 [34].

20


1.2.3.2 Cơ chế quản lý, điều hành chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào
tạo
Căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu của các dự án thuộc Chương trình, Bộ Giáo
dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đề xuất
mức cân đối ngân sách cho CTMT quốc gia. Kinh phí thực hiện CTMT quốc gia
GD&ĐT được cân đối trong dự toán chi ngân sách trung ương và được sử dụng cho
các nội dung hoạt động của chương trình [4].
Nguồn kinh phí được Bộ Tài chính cấp bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa
phương và được cân đối vào ngân sách địa phương ngay từ đầu năm để tỉnh, thành
phố có kế hoạch phân bổ, thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án trên địa bàn.
Việc cấp phát, quản lý, thanh quyết tốn kinh phí từ ngân sách trung ương cho
CTMT quốc gia GD&ĐT thực hiện theo các quy định hiện hành của Luật Ngân sách
Nhà nước [33].
Việc quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí huy động khác như: nguồn đóng

góp tự nguyện của các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước, bổ
sung từ ngân sách địa phương và kinh phí của các Bộ, ngành để thực hiện các dự án
của CTMT quốc gia GD&ĐT ... được quản lý như đối với nguồn ngân sách trung
ương.
Đối với kinh phí của Chương trình dành cho XDCB, chấp hành theo trình tự,
thủ tục đầu tư XDCB; việc cấp phát vốn, nghiệm thu, thanh quyết toán; lập, thẩm
định và phê duyệt báo cáo quyết tốn cơng trình hồn thành, bàn giao đưa vào sử
dụng theo quy định tại Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu và các
văn bản khác có liên quan.
Nội dung, mức chi và quản lý kinh phí thực hiện theo Thơng tư liên Bộ: Tài
chính, Giáo dục và Đào tạo số 81/2003/TTLT/BTC-BGD&ĐT ngày 14/8/2003.

21


1.3. HIỆU QUẢ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU
QUỐC GIA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.3.1 Quan niệm về hiệu quả quản lý, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc
gia giáo dục và đào tạo
Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước nói chung và vốn chương trình mục tiêu
quốc gia giáo dục và đào tạo nói riêng là khơng hồn trả, vì vậy, rất khó có thể đánh
giá chính xác hiệu quả quản lý, sử dụng vốn.
Hiện nay, công tác đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng vốn chương trình mục
tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo dựa trên nguyên tắc quản lý theo dự tốn (hàng
năm) được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và theo các khoản mục chi (mục lục
ngân sách) do pháp luật quy định; nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả căn cứ theo các tiêu
chuẩn, định mức và hiệu quả được đánh giá thông qua mức độ ảnh hưởng của nó đến
lĩnh vực giáo dục – đào tạo và các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội.
Trên thực tế, công tác đánh giá chỉ được thực hiện dựa trên dự toán, khoản
mục và định mức; việc đánh giá mức độ ảnh hưởng bị vơ hiệu hóa do thiếu các hệ

thống tiêu chí cũng như các quy định về chế độ giám sát, đánh giá, thông tin, báo
cáo.
Phương thức quản lý này được một số nhà khoa học gọi là quản lý ngân sách
truyền thống hay quản lý ngân sách theo khoản mục đầu vào [47], [48] và đã bộc lộ
nhiều yếu kém như sau:
- Không chú trọng đến các đầu ra và kết quả trong việc thực hiện dẫn đến tình
trạng nguồn tài trợ cho chương trình không được quan tâm đúng mức dẫn đến hụt
hẫng về tài chính nên nhiều cơng trình, dự án phải chờ kinh phí, đầu tư dàn trải nên
càng giảm hiệu quả.
Trong q trình dự tốn ngân sách, kiểm sốt các khoản mục đầu vào được coi
trọng hơn cải thiện kết quả hoạt động. Các thông số đầu ra cũng như về kết quả
thường ít được quan tâm nên ngân sách thiếu thực tế, dễ bị điều chỉnh và tạo ra các

22


kết quả ngoài ý muốn. Phân bổ ngân sách theo khoản mục đầu vào đã tạo nên điểm
yếu cơ bản là khơng khuyến khích các đơn vị tiết kiệm ngân sách, vì nó khơng đặt ra
u cầu ràng buộc chặt chẽ giữa số kinh phí được phân bổ với kết quả đạt được ở đầu
ra do sử dụng ngân sách đó.
- Dự tốn ngân sách thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội trung hạn với nguồn lực trong một khuôn khỗ kinh tế vĩ mô được dự báo
nên dẫn đến các kết quả ngân sách nghèo nàn.
Do ngân sách được soạn lập theo chu kỳ hàng năm, nên nó khơng được đánh
giá, xem xét sự phân bổ nguồn lực gắn kết với những chương trình phát triển kinh tế xã hội dài hạn. Nguồn lực của ngân sách phân bổ mang tính dàn trải; thiếu vắng hệ
thống các tiêu chí thích hợp để xác định thứ tự ưu tiên chi tiêu.
Ngân sách lập hàng năm vừa tốn thời gian, nhân lực và tiền bạc, vừa khơng
tiên đốn hết các biến cố trung hạn có thể ảnh hưởng đến dự tốn. Ngân sách năm sau
được lập trên cơ sở năm trước mà ít xét tới thực tế, “công thức ngân sách năm nay
bằng năm trước nhân với một tỷ lệ, như thế là chia ngân sách chứ không phải phân

bổ ngân sách” [52]. Tính minh bạch và trách nhiệm khơng thực hiện nghiêm túc, hạn
chế sự tham gia của xã hội trong quy trình ngân sách.
Cuối cùng, hệ thống chỉ tiêu thực hiện, chế độ thông tin, báo cáo...đi kèm theo
những yếu kém của phương thức quản lý ngân sách truyền thống là những trở ngại
cho cơng tác đánh giá hiệu quả.
Vì vậy, để đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng vốn Chương trình mục tiêu
quốc gia giáo dục và đào tạo một cách có hệ thống và chính xác, đầy đủ nhất, cần
dựa trên nguyên tắc quản lý ngân sách theo đầu ra; trên cơ sở đó, đánh giá theo
các đầu ra, kết quả và các tác động, có thể xây dựng quy trình này dựa trên mơ
hình Giám sát & Đánh giá của Bộ phận Phát triển Xã hội – Ngân hàng Thế giới
[24] như sau:

23


ĐẦU VÀO
Các nguồn lực tài chính, nhân sự,...sử dụng trong các dự án của Chương trình
CÁC HOẠT ĐỘNG
Các hoạt động triển khai thực hiện các dự án của Chương trình
ĐẦU RA
- Số phòng học, thiết bị, tài liệu được đầu tư xây dựng, cung cấp
- Số khóa đào tạo được tổ chức, số cán bộ, giáo viên được đào tạo
KẾT QUẢ
- Mức độ cải thiện quy mô mạng lưới, điều kiện cơ sở vật chất của ngành giáo
dục
- Mức độ cải thiện chất lượng đội ngũ giáo viên
- Mức độ cải thiện về số lượng, chất lượng và các vấn đề liên quan đến học sinh
TÁC ĐỘNG
- Góp phần phát triển con người (HDI), giảm nghèo (HPI) và bình đẳng giới
(GDI)

- Cung cấp nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
Hình 1.6: Quy trình đánh giá cơng tác quản lý, sử dụng vốn
chương trình mục tiêu quốc gia GD&ĐT theo đầu ra
Hiệu quả quản lý, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và
đào tạo được xem xét qua các nội dung sau:
- Dưới góc độ lĩnh vực: xem xét hiệu quả qua việc đầu tư tăng cường cơ sở
vật chất, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, qua đó, nâng cao mọi mặt chất
lượng, hiệu quả giáo dục – đào tạo và được thể hiện qua các tiêu chí liên quan đến
học sinh.
- Dưới góc độ phát triển kinh tế - xã hội: đánh giá tác động của chương trình
thơng đối với xã hội thông qua đánh giá mức độ cải thiện giáo dục, thành phần quan
trọng trong các chỉ số về phát triển con người (HDI, HPI, GDI) và cung cấp nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả quản lý, sử dụng vốn chương trình mục
tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo
24


a) Các chỉ tiêu về ngân sách
Để đánh giá về công tác quản lý ngân sách, các chỉ tiêu thường được sử dụng
là: cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu và tỷ trọng vốn theo các dự án, tỷ lệ thực hiện so với dự
toán. Các chỉ tiêu này được chi tiết theo quy định của pháp luật và các cơ quan quản
lý, thực hiện chương trình như khoản mục, nội dung,...
b) Các chỉ số về giáo dục
Các chỉ số về giáo dục thường xoay quanh các yếu tố: học sinh, giáo viên,
phòng và lớp học. Cụ thể như sau:
- Tỷ lệ phòng, lớp học:
Tỷ lệ phòng học
=
kiên cố


Tổng số phòng học kiên cố
x 100%

(1.1.1)

Tổng số phòng học
Tỷ lệ lớp
học/phòng học

Tổng số lớp học
=

(1.1.2)
Tổng số phòng học

- Tỷ lệ giáo viên:
Tỷ lệ giáo viên/lớp
=
học

Tổng số giáo viên
(1.2.1)
Tổng số lớp học

Tỷ lệ giáo viên đạt
chuẩn
=

Tổng số giáo viên đạt chuẩn

x 100%

(1.2.2)

x 100%

(1.2.3)

Tổng số giáo viên

Tỷ lệ giáo viên
trên chuẩn

Tổng số giáo viên trên chuẩn
=
Tổng số giáo viên

- Tỷ lệ học sinh:
Tỷ lệ học
sinh/giáo viên

Tổng số học sinh

25


×