Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

KỸ NĂNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.05 KB, 14 trang )

KỸ NĂNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
I - Khái luận về thông tin và vai trò của thông tin trong hoạt động của Đại
biểu Quốc hội (ĐBQH)
1.1. Khái niệm thông tin
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà thuật ngữ thông tin đã được dùng
rất phổ biến, mọi nơi, mọi lúc. Tuy nhiên cho đến tận giờ, cũng chưa có một thuật
ngữ hoàn chỉnh bao trùm cho khái niệm này.
Ngay cả những cuốn tự điển lớn như Oxford English Dictionary, Petit Robert
v.v… cũng cho những định nghĩa rất khác nhau, bởi lẽ trong các lĩnh vực khác
nhau như công nghệ, truyền thông, báo chí, viễn thông... thông tin được hiểu theo
cách riêng do tính ứng dụng cụ thể của nó. Ở nước ta, trong khuôn khổ Luật Tiếp
cận thông tin được Quốc hội khóa 13 thông qua năm 2016, theo đó khái niệm thông
tin được hiểu như sau: “Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ
sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ,
băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra”.
Người ta có vẻ tương đối thống nhất hiểu theo một khái niệm thông thường là
“thông tin là tất cả các tin tức, sự việc, sự kiện, hiện tượng, ý tưởng, phán đoán,…
làm tăng thêm sự hiểu biết và phục vụ hoạt động của con người.”.
Thông tin được thể hiện dưới các dạng thức khác nhau, con số, kí hiệu, hình
ảnh, cử chỉ, âm thanh thể hiện dưới mức độ chất lượng khác nhau: từ những thông
tin ban đầu, nguyên thô (brut data) đến những thông tin đã được xử lý có chất
lượng cao hơn (Value added Information) và cao hơn nữa là những thông tin có giá
trị tư vấn, định hướng cho quá trình ra quyết định quản lý (thông tin phục vụ lãnh
đạo).
Trong lĩnh vực này thông tin là cơ sở để hình thành các quyết định, đồng thời
là căn cứ để tổ chức kiểm tra, đánh giá và thực hiện các quyết định quản lý. Thông
tin góp phần quan trọng trong việc phân tích, dự báo giảm thiểu rủi ro trong các
quyết định quản lý và trong lĩnh vực hoạch định chính sách. Như vậy, dù ở mức độ
1



nào thông tin cũng có một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Quyền về
thông tin, quyền được thông tin hay quyền được tiếp cận thông tin là quyền rất
quan trọng của công dân trong xã hội dân chủ bởi đó là quyền cơ bản của con
người, của công dân thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị đã được ghi nhận trong
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc năm 1948, Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là thành viên. Quyền
tiếp cận thông tin tiếp tục được khẳng định trong nhiều điều ước quốc tế khác như
Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng, Tuyên bố Rio về Môi trường
và phát triển, Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi trường.
Đặc điểm của thông tin là: ngày càng đa dạng, phong phú, đa chiều và đến từ
nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh tính khách quan, thông tin cũng mang mang tính
chủ quan từ phía người cung cấp thông tin và thông tin có thể mất giá trị rất nhanh
khi được cung cấp. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 kế thừa quy định của Hiến
pháp năm 1992 về quyền được thông tin của công dân và sửa đổi thành quyền tiếp
cận thông tin của công dân. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định
các nguyên tắc thực hiện quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tiếp
cận thông tin; khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quy định nguyên tắc quyền con người,
quyền công dân “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng”. Với những đặc điểm trên của thông tin, người ta cần
phải có những thao tác có tính nguyên tắc khi tiếp nhận thông tin mà tiện ích của
thông tin dù ở mức nào cũng phải được tôn trọng. Người ta gọi đó là quy trình
thông tin.
1.2 Quy trình thông tin phổ biến
Thông thường quy trình thông tin bao gồm những công đoạn chủ yếu sau:
phân loại đối tượng dùng tin, nhu cầu thông tin, khu vực nguồn, thao tác thu thập
xử lý. Xin trình bày 2 công đoạn quan trọng nhất trong quy trình này:
1.2.1. Thu thập thông tin: Thu thập là hoạt động tìm kiếm, tập hợp tin thông

tin theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những nội dung liên quan đến lĩnh vực
nhất định. Thu thập thông tin có tính đa dạng về phương pháp, là quá trình bổ sung
2


liên tục và kết quả của nó chịu tác động bởi nhiều nhân tố như kĩ năng, phương
pháp áp dụng trong quá trình thu thập thông tin.
Trong sự đa dạng thậm chí là phức tạp của nguồn tin, việc xác định đúng nhu
cầu thông tin sẽ giúp cho việc thu thập thông tin có trọng tâm, bảo đảm thu thập các
thông tin cần thiết, khắc phục tình trạng thu thập thông tin dàn trải, thiếu các thông
tin cần thiết theo yêu cầu công việc cần giải quyết. Việc xác định nhu cầu thông tin
được thể hiện bằng cách thỏa mãn các câu hỏi sau:
- Vấn đề đang giải quyết cần có những thông tin nào?
- So với thông tin đang có còn thiếu những nội dung gì?
- Độ tin cậy và tính chính xác đến đâu?
- Từ đó xác định phương thức tạo nguồn.
Hoạt động thu thập thông tin bao gồm các hình thức:
- Đọc và ghi chép.
- Phương pháp nghe báo cáo;
- Phương pháp sao chụp tài liệu;
- Tra cứu qua các công cụ (hồ sơ lưu, kỷ yếu , mạng xã hội..)
Trên thực tế, nguồn thông tin có thể phân loại theo những cách tiếp cận khác
nhau nhưng tổng thể được chia thành hai loại: thông tin thứ cấp và sơ cấp.
Thông tin thứ cấp là nguồn thông tin sẵn có từ các chủ thể khác cung cấp.
- Là các hồ sơ tài liệu, văn bản Nhà nước, là cơ sở pháp lý phục vụ trực tiếp
cho quá trình ra quyết định.
- Thông tin từ sách báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, internet và các
phương tiện thông tin đại chúng khác.
Với nguồn thông tin này người thu thập tin phải xem xét các yếu tố pháp lý
của các ấn phẩm (được nhà nước thừa nhận, cho phép sử dụng, khai thác? Nội dung

các quan điểm chứa đựng trong tài liệu tham khảo phải phù hợp với chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Thông tin có cập nhật với thực tiễn,
mức độ lạc hậu của thông tin).
3


Thông tin thứ cấp rất đa dạng nên người dùng tin, trên cùng một vấn đề có thể
so sánh đối chiếu và có nhiều lựa chọn. Vì vậy, việc thu thập và xử lý đòi hỏi nhiều
thời gian và chi phí lớn đồng thời giá trị của thông tin có thể hạn chế do dòng tin
này rất nhanh mất đi tính mới dẫn đến việc thông tin không phù hợp với thời điểm
hiện tại.
Thông tin sơ cấp là thông tin do người thu thập thông tin tự tạo dòng tin phù
hợp với mục đích sử dụng; Phương pháp thu thập thông tin được kiểm soát và rõ
ràng đối với chủ thể thu thập; Giải đáp được những vấn đề thông tin thứ cấp không
làm được; Việc thu thập không tốn kém, thường có được từ các xuất bản phẩm - Có
thể thu thập nhanh chóng; Thông tin sơ cấp là thông tin mới, được thu thập thông
qua các phương pháp, kỹ thuật nhất định.
Trong quá trình thu thập cần phải phân định các loại hình thông tin theo kênh
tiếp nhận, nguồn thông tin (đọc được, ghi chép được, nghe báo cáo, phản ánh của
các tổ chức cá nhân, cập nhật từ kết quả các cuộc điều tra xã hội học, dư luận xã
hội, từ khảo sát, trắc nghiệm hay từ các trang mạng để đánh giá giá trị của thông tin
(tính mới, độ chính xác, tính hiệu dụng..) theo tiêu chí sử dụng.
1.2.2 Xử lý thông tin: Xử lý thông tin là hoạt động phân tích, phân loại thông
tin theo các nguyên tắc và phương pháp nhất định nhằm tạo lập ra những thông tin
mới. Chính điều đó làm cho hoạt động xử lý thông tin khác biệt với hoạt động lưu
trữ, thư viện, bảo tàng, mặc dù trong mọi hoạt động này đều tiến hành công tác thu
thập, xử lý, bảo quản và tổ chức sử dụng thông tin.
Kết quả cuối cùng của việc xử lý thông tin phải là:
- Thu lượm những thông tin hữu ích, củng cố tính khoa học và tính khách
quan của các thông tin được cung cấp.

- Tạo lập những thông tin mới.
- Góp phần hình thành chính kiến hoặc tạo cơ sở vững chắc cho quá trình ra
quyết định.
Ngày nay việc xử lý thông tin không chỉ được thực hiện bằng trí tuệ con
người, mà còn được trợ giúp bởi nhiều thiết bị kỹ thuật, quy trình xử lý được thực
hiện nhanh hơn, chính xác hơn, giảm thiểu thời gian và chi phí.
4


II. Những quy định pháp lý về quyền thông tin và các dịch vụ thông tin
phục vụ hoạt động của ĐBQH
2.1. Địa vị pháp lý và quyền được thông tin của ĐBQH
2.1.1.Địa vị pháp lý và chức năng của ĐBQH.
Theo Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội quy định ĐBQH là người đại diện cho
ý chí và nguyên vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho cử tri ở đơn vị bầu cử
ra mình mà còn đại diện cho cử tri cả nước; là người thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước trong Quốc hội.
Như vậy, ĐBQH là một chủ thể rất quan trọng trong các hoạt động quản lý
Nhà nước, theo đó ĐBQH là người trực tiếp tham gia quyết định những vấn đề
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Bên cạnh đó, từ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, đại biểu Quốc hội với tư cách
là những thành viên, những bộ phận hợp thành có quyền tham gia xem xét, quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước trên 4 phương diện cơ bản sau đây:
- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
- Quyết định những chính sách quan trọng liên quan đến các lĩnh vực kinh tế xã hội, dân tộc, văn hoá, giáo dục, an ninh - quốc phòng, đối ngoại;
- Xây dựng, củng cố và phát triển bộ máy Nhà nước;
- Giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước giám sát việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật.
Xuất phát từ địa vị pháp lý quan trọng cũng như những quyền năng đặc biệt
đó, pháp luật cũng trao cho ĐBQH những quyền hạn có tính chất đặc thù, bảo đảm

cho việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu trong đó có quyền được thông tin.
Đối với đại biểu dân cử nói chung và đại biểu Quốc hội nói riêng, nhu cầu
thông tin là nhu cầu xuất phát từ quá trình hoạt động thực hiện nhiệm vụ đại biểu.
Thông tin mà đại biểu yêu cầu sẽ góp phần phục vụ công tác nghiên cứu tham khảo
khi thực hiện các nhiệm vụ đại biểu, làm cơ sở cho việc hình thành chính kiến của
đại biểu khi thảo luận và biểu thị thái độ (biểu quyết) trong quá trình ra quyết định
của Quốc hội và HĐND tại các kỳ họp.
5


2.1.2. Quy định pháp luật lý về quyền được thông tin của ĐBQH
+ Quyền được cung cấp thông tin của đại biểu: Yêu cầu thông tin của đại biểu
dựa trên cơ sở pháp lý về quyền được cung cấp thông tin được quy định bởi Hiến
pháp và các đạo luật. Có thể khái quát quyền đó như sau:
- Quyền được cung cấp thông tin theo yêu cầu đối với các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và những
cá nhân có trách nhiệm.
- Quyền được thu thập thông tin về dân nguyện (qua tiếp dân và tiếp xúc cử
tri)
- Quyền được cung cấp các văn kiện chính thức của kỳ họp Quốc hội; công
báo của nước CHXHCNVN; tạp chí Người đại biểu Nhân dân, các tài liệu mà Chủ
tịch Quốc hội xét thấy cần thiết và những thông tin, tài liệu, văn bản liên quan đến
hoạt động của Quốc hội.
- Quyền được hưởng các dịch vụ thông tin, nghiên cứu, thư viện và dịch vụ
Internet (Điều 37 Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH).
+ Trách nhiệm cung cấp thông tin: để bảo đảm cho ĐBQH thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình thì trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ
chức Nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân được thực hiện qua các hoạt động sau
đây:
- Tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa ĐBQH với cử tri theo đơn vị bầu cử, để

ĐBQH tiếp thu ý kiến của cử tri.
- Cung cấp những thông tin liên quan đến lĩnh vực mà tổ chức, cơ quan đó phụ
trách, theo yêu cầu của ĐBQH.
- Cung cấp các văn kiện chính thức của kỳ họp Quốc hội, công báo của nước
CHXHCNVN; tạp chí Người đại biểu nhân dân, các tài liệu mà Chủ tịch Quốc hội
xét thấy cần thiết và những thông tin, tài liệu văn bản liên quan đến hoạt động của
Quốc hội.
- Các dịch vụ thông tin, nghiên cứu, thư viện và internet khi có yêu cầu (Điều
37 Qui chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH).
6


Cần lưu ý rằng mối quan hệ giữa quyền được cung cấp thông tin của ĐBQH
và trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan tổ chức... phục vụ hoạt động của
ĐBQH không phải là mối quan hệ pháp luật bình quyền (nghĩa là quyền của bên
này là trách nhiệm của bên kia và ngược lại) mà là mối quan hệ một chiều, nó xuất
phát từ địa vị pháp lý đặc biệt của ĐBQH và những đòi hỏi nhằm bảo đảm hiệu quả
chung của Quốc hội.
2.2. Các dịch vụ thông tin phục vụ hoạt động của ĐBQH
Kinh nghiệm cho thấy, việc dự báo nhu cầu thông tin phục vụ một nội dung cụ
thể trong hoạt động của đại biểu Quốc hội là rất quan trọng. Nhìn chung, những
nhu cầu thông tin của đại biểu thông thường được xác định dựa trên các yếu tố sau
đây:
- Chương trình hoạt động, định hướng nội dung của mỗi kì họp, đặc biệt là
chương trình xây dựng luật, bàn thảo và quyết định các vấn đề về kinh tế xã hội .
- Những vấn đề nổi cộm của đời sống xã hội thông qua:
* Phản ánh của báo chí
* Dư luận công chúng
* Báo cáo hoạt động giám sát
* Tiếp xúc cử chi

* Giải quyết khiếu nại, tố cáo
* Kết quả của các cuộc điều tra xã hội học.
Từ những yếu tố trên, có thể tổ chức các loại hình hoạt động sau đây nhằm thu
thập các thông tin cần thiết cho công tác nghiên cứu tham khảo của đại biểu:
- Tổ chức các cuộc tọa đàm trao đổi với chi Hội luật gia, với các tổ chức
nghiên cứu, với các đại diện là đối tượng điều chỉnh của dự luật trên địa bàn về
những vấn đề có liên quan đến các dự thảo luật; với các nhà quản lý, các chuyên
gia nếu dự luật có liên quan đến vấn đề kinh tế xã hội.
- Kết nối với các cơ quan chức năng thu thập các báo cáo bằng văn bản về
những vấn đề đại biểu quan tâm.
7


- Khai thác các dịch vụ thông tin của các cơ quan thông tin - tư liệu của Viện
Nghiên cứu lập pháp, Thư viện Quốc hội, Vụ Thông tin Văn phòng Quốc hội và
nguồn cơ sở dữ liệu hỗ trợ hoạt động bồi dưỡng dành cho đại biểu Quốc hội của
Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử tạo ra dòng tin nghiên cứu tham khảo bổ
sung cho các tài liệu chính thức.
2.2.1. Viện Nghiên cứu lập pháp
- Trung tâm nghiên cứu khoa học sẽ giúp cho đại biểu có thể tham khảo kết
quả các đề tài nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật trong các lĩnh vực kinh tế, tài
chính, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội, những thông tin trong các đề tài
nghiên cứu của đại biểu tham khảo thêm về sáng kiến pháp luật, kiến nghị luật, bối
cảnh hình thành dự luật trong chính sách pháp luật tổng thể cho đến những chế định
cụ thể của dự luật (Liên hệ số ĐT 080.46800).
- Trung tâm Thông tin khoa học của Viện định kỳ biên soạn và phổ biến các
chuyên đề thông tin tổng quan phân tích về pháp luật quốc tế rất bổ ích cho việc
tham chiếu, so sánh. (Liên hệ ĐT 080.46076). Kết quả các đề tài nghiên cứu, các
chuyên đề thông tin pháp luật quốc tế được biên soạn chủ yếu dựa vào định hướng
công tác xây dựng hệ thống pháp luật và chương trình làm luật cụ thể của mỗi khóa

Quốc hội và mỗi kỳ họp Quốc hội. Kết quả nghiên cứu và các thông tin chuyên đề
được đăng tải trên mạng nội bộ và các cổng thông tin trước thời điểm Quốc hội
thảo luận, thông qua các dự luật.
- Ngoài các ấn phẩm trên, Trung tâm thông tin khoa học còn quản trị một hệ
thống phần mềm trả lời theo yêu cầu thông tin của ĐBQH, gọi là dịch vụ thông tin
hỏi đáp PICMS (Parliamentary Information Management System) và Cổng thông
tin điện tử Viện Nghiên cứu lập pháp (link . số ĐT: 080.46386).
Dựa trên các tiện ích của phần mềm quản trị, các chuyên gia thông tin có trách
nhiệm truy xuất các tài liệu tham khảo, biên soạn các chuyên đề tin dựa vào yêu
cầu của các ĐBQH và gửi trực tiếp theo địa điểm, thời gian ĐBQH yêu cầu. Trong
trường hợp xét thấy nội dung thông tin hữu dụng, cơ quan thông tin có thể phổ biến
rộng rãi. ĐBQH có thể tham khảo kết quả các cuộc điều tra dư luận xã hội, bởi kết
quả khảo sát rất hữu ích cho việc đánh giá quá trình thực thi pháp luật, sức sống của
8


một đạo luật, đồng thời cũng gợi mở những khuyến nghị có giá trị trong việc hoạch
định chính sách pháp luật, sửa đổi luật và kiến nghị luật.(số ĐT 080.44563)
- Dịch vụ tư liệu hình và ảnh bao gồm các băng đĩa hình về hoạt động của
Quốc hội và các Đoàn ĐBQH, phục vụ công tác tuyên truyền theo yêu cầu của các
Đoàn ĐBQH.
2.2.2. Văn phòng Quốc hội
Thư viện Quốc hội là nơi lưu trữ hàng vạn bản tài liệu bao trùm mọi lĩnh vực.
Các ấn phẩm và xuất bản phẩm được xử lý dưới dạng chỉ danh thư mục, tóm tắt nội
dung và tổ chức theo chuyên đề. Thư viện Quốc hội định kỳ cung cấp:
- Danh mục các tài liệu mới. Ngoài ra còn phát hành các danh mục tài liệu
dưới dạng chuyên đề không định kì.
- Dịch vụ hỗ trợ tức thì (link ) mới được triển khai trong
những năm gần đây. Về phương thức tổ chức, dịch vụ này có phương thức phục vụ
tương tự như Hệ thống PICMS của Viện nghiên cứu lập pháp. Tuy nhiên, nếu sản

phẩm PICMS là những tài liệu toàn văn, các thông tin tổng luận và đôi khi có tính
tư vấn định hướng, Dịch vụ hỗ trợ tức thì thông thường giới hạn ở các chỉ danh thư
mục tóm tắt, tài liệu nguyên thô và người dùng tin phải tự xử lý, chắt lọc những
thông tin cần thiết cho mình (Liên hệ 080.46502)
Vụ thông tin là nơi phát triển và quản trị Website của Quốc hội, Cổng thông
tin điện tử của Quốc hội (Link ). Đây là môi trường giao tiếp,
cung cấp thông tin bao gói toàn bộ thông tin chung về cơ cấu tổ chức của Quốc hội,
hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ
ban của Quốc hội (Liên hệ 080.43838).
2.2.3.Ban công tác đại biểu - Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử
- Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống
dữ liệu nguồn hỗ trợ hoạt động của đại biểu dân cử nhằm giúp đại biểu trau dồi kĩ
năng hoạt động bồi dưỡng đại biểu dân cử bằng cách đổi mới giao diện tiếng Việt
và phiên bản tiếng Anh trang web ( nâng cao
tiện ích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy cập.
9


- Phát hành các bản tin và hệ thống tài liệu tham khảo hỗ trợ hoạt động
nghiên cứu của đại biểu. Các ấn phẩm và tài liệu này được bao gói dưới dạng sở dữ
liệu hỗ trợ hoạt động bồi dưỡng dành cho đại biểu Quốc hội trên trang web
(tailieu.ttbd.gov.vn ).
- Tổ chức trả lời yêu cầu tin của các ĐBQH về kỹ năng đại biểu thông qua
Phòng nghiệp vụ bồi dưỡng của Trung tâm (Liên hệ 080.46002).
2.3 Kinh nghiệm xử lý nhu cầu thông tin của ĐBQH trong quá trình hoạt
động tại địa phương.
2.3.1. Xác định nhu cầu thông tin
Hầu hết ĐBQH ở nước ta là đại biểu kiêm nhiệm, quỹ thời gian dành cho việc
thực hiện nhiêm vụ đại biểu không nhiều, nên việc xác định nhu cầu thông tin và
nội dung thông tin cần khai thác là điều hết sức cần thiết, đặc biệt trong những lĩnh

vực cụ thể.
Trong hoạt động lập pháp - là hoạt động mà mỗi đại biểu phải có nhiệm vụ
tham gia ý kiến vào chương trình xây dựng xây dựng pháp luật, tham gia ý kiến
vào các dự án luật (dự thảo luật) và “bấm nút” thông qua dự án luật. Do vậy, đại
biểu cần khai thác nội dung thông tin:
- Một trong những yêu cầu trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là luật
ban hành không được trái với Hiến pháp- văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất, và
không được xung đột giữa các văn bản pháp luật, vì vậy để tham gia xây dựng các
dự án luật đại biểu cần phải có thông tin đầy đủ về các văn bản pháp luật có liên
quan.
- Pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà xã hội luôn
luôn vận động, các mối quan hệ xã hội luôn luôn biến đổi nên các đại biểu cần có
thông tin về tình hình kinh tế, xã hội trong nước, tâm tư, nguyện vọng và kiến nghị
chính đáng của nhân dân để khi xây dựng các dự án sẽ sát với thực tế.
- Nước ta đã và đang hội nhập sâu với thế giới, các mối quan hệ song phương,
đa phương ngày càng mở rộng, vì thế luật pháp của chúng ta cũng phải có sự phù
hợp với pháp luật quốc tế và không sung đột với luật pháp các nước mà chúng ta
thiết lập quan hệ ngoại giao nên việc nghiên cứu các văn bản pháp luật tương tự ở
10


các nước trên thế giới cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia là rất
cần thiết.
- Dự báo tác động của văn bản pháp luật sẽ ban hành là một công việc rất khó
bởi thông tin mang tính dự báo phụ thuộc vào năng lực của mỗi đại biểu, có thể
thông qua việc tiếp xúc với các đối tượng trực tiếp chịu tác động của văn bản pháp
luật sẽ ban hành, đại biểu sẽ dự báo được tác động của văn bản pháp luật.
Trong hoạt động giám sát đại biểu thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh giá
các hoạt động của đối tượng giám sát trong việc thực hiện quy định của pháp luật,
nghị quyết của Quốc hội, do đó, đại biểu cần khai thác nội dung thông tin:

- Nội dung nghị quyết của Quốc hội, các văn bản pháp luật liên quan đến vấn
đề giám sát;
- Thông tin về vấn đề giám sát, về đối tượng giám sát, được thu thập từ báo
cáo của đối tượng giám sát, của các cơ quan liên quan;
- Thông tin về ý kiến, kiến nghị của
(cả dư luận xã hội) về đề giám sát, về đối tượng giám sát;

nhân

dân,

cử

tri

- Trong việc tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước - là
hoạt động yêu cầu mỗi đại biểu phải tham gia ý kiến xây dựng chính sách, nhiệm
vụ và quyết định “bấm nút” thông qua.
Theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, những vấn đề quan trọng đại biểu
thường xuyên phải tham gia quyết định gồm:
- Chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hằng năm;
chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia;
- Dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn
quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm;
- Chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách cơ bản về đối ngoại của
Nhà nước;
- Xem xét báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị và việc giải quyết kiến nghị của
cử tri cả nước;
11



Việc khai thác thông tin có sự khác nhau tùy vào từng vấn đề cụ thể, nhưng
tựu chung lại vẫn cần có thông tin đầy đủ về kết quả thực hiện thời gian qua, những
yếu tố tác động đến vấn đề phải quyết định trong thời gian tới (dự báo), tình hình
kinh tế- xã hội đất nước...
Riêng đối với báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri và báo cáo kết quả giải quyết ý
kiến cử tri, đại biểu cần nắm chắc và đầy đủ ý kiến cử tri nơi mình ứng cử, để xem
xét các ý kiến đó đã được tổng hợp, phản ánh chưa và theo dõi kết quả giải quyết ý
kiến cử tri “của mình”.
2.3.2. Kỹ năng khai thác các nguồn thông tin.
Các nguồn thông tin đại biểu có thể tiếp cận để khai thác:
- Từ các nguồn tài liệu do Quốc hội cung cấp; báo cáo của các cơ quan nhà
nước ;
- Từ các tổ chức xã hội (ý kiến, kiến nghị); từ công chúng (nhân dân, cử tri, dư
luận xã hội);
- Từ nguồn Báo chí (kể cả mạng xã hội);
Kỹ năng khai thác các nguồn thông tin:
Với nhu cầu thông tin lớn như vậy, làm thế nào để đại biểu có đủ thông tin,
thông tin đúng (tin cậy)? Trong hoạt động của Quốc hội, đại biểu có thể sử dụng
các kỹ năng cơ bản sau để thu thập thông tin:
Một là, đại biểu tự nghiên cứu tài liệu để thu thập thông tin từ nguồn tài liệu
do Quốc hội cung cấp, từ báo cáo của các cơ quan nhà nước. Tài liệu gửi đến đại
biểu mỗi kỳ họp đã là quá lớn (trung bình mỗi kỳ họp đại biểu sẽ có từ 25-30 kg tài
liệu), do đó đại biểu cần có phương pháp đọc tài liệu và thu thập thông tin:
+ Chọn tài liệu để đọc: sắp xếp tài liệu theo thứ tự ưu tiên, phân nhóm tài liệu
theo lĩnh vực,..
+ Đặt mục tiêu của việc đọc (hỏi trước khi đọc) - đọc tài liệu này để lấy thông
tin gì?

12



+ Rèn luyện kỹ năng đọc nhanh: xem phần tóm tắt, đánh giá chung hoặc mục
lục; đọc lướt- lướt nhanh và bỏ qua (lướt ngang, lướt dọc trang sách); chú ý chọn
không gian phù hợp cho việc đọc,..
+ Ghi chú thông tin cần thiết: ghi vào lề tài liệu hoặc vào sổ nhật ký;
+ Đặt câu hỏi - phản biện;
Hai là, đại biểu có thể thuê chuyên gia theo hợp đồng công việc (đại biểu
được cấp kinh phí cho hoạt động này). Mỗi đại biểu nên lựa chọn cho mình một số
chuyên gia về những lĩnh vực mà mình thấy cần, trao đổi trước với họ để khi cần
đại biểu có thể hợp đồng những công việc cụ thể để họ giúp cho việc thu thập thông
tin hoặc nghiên cứu sâu một số vấn đề nào đó.
Ba là, Sử dụng chuyên viên (thư ký) của văn phòng đoàn Đại biểu Quốc hội.
Khi có nhu cầu thông tin về một vấn đề nào đó, đại biểu có thể chuyển yêu
cầu đến Văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội. Văn phòng đoàn căn cứ yêu cầu về
thông tin của đại biểu sẽ phân công chuyên viên chuẩn bị, thu thập và xử lý, trước
khi chuyển thông tin đến đại biểu phải được kiểm duyệt của lãnh đạo văn phòng;
những thông tin quan trọng cần được xác nhận của Chánh văn phòng để bảo đảm
tính pháp lý (đây chính là việc ràng buộc trách nhiệm của Văn phòng với đại biểu).
Trên thực tế, qua theo dõi hoạt động những năm qua, chúng tôi thấy đại biểu
chủ yếu tự nghiên cứu tài liệu để thu thập thông tin, ít sử dụng chuyên gia hoặc thư
ký văn phòng - đây là một hạn chế, cần thay đổi. Mỗi đại biểu chỉ có thể hiểu biết
sâu ở một vài lĩnh vực, hơn nữa khối lượng công việc của đại biểu là rất lớn, yêu
cầu rất cao, do đó, tùy theo từng loại thông tin mà đại biểu sử dụng các phương
thức thu thập phù hợp, hoặc có thể phải sử dụng cả ba phương thức cùng lúc để có
thông tin nhiều chiều về một vấn đề.
2.3.3 Phân tích và đánh giá chất lượng thông tin được cung cấp trong
từng hoạt động cụ thể:
Khi đại biểu sử dụng nhiều hình thức khai thác thông tin cùng cho một vấn đề
(và nên làm như vậy), cần phải kiểm chứng thông tin giữa các nguồn.


13


Trong các hoạt động: lập pháp, giám sát, và quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước đều cần những thông tin nhiều chiều chứ không chỉ “tin” vào các báo
cáo “một phía”. Báo cáo của các cơ quan gửi cho đại biểu thường phản ảnh những
thông tin tích cực (kết quả, thành tích), nhưng đại biểu lại cần những “góc khuất”
của vấn đề để đưa ra ý kiến phản biện. Các dự án luật hầu hết do các cơ quan của
Chính phủ chuẩn bị và họ thường “làm lợi, làm dễ” cho việc tổ chức thực hiện sau
này, nên hay bị xa rời thực tế hoặc tính khả thi không cao.
Để đại biểu có thể tham gia ý kiến một cách hiệu quả trong hoạt động lập
pháp, để ý kiến thảo luận mang tính phản biện cao trong giám sát cũng như trong
quyết định các vấn đề quan trọng, một mặt thu thập thông tin từ báo cáo của cơ
quan, đơn vị; một mặt thu thập thông tin từ các tổ chức xã hội, từ cử tri, từ báo chí,
từ đó sẽ phát hiện những thông tin không nhất quán với nhau, khi ấy cần yêu cầu cơ
quan nhà nước làm rõ hoặc khảo sát lại ý kiến của các tổ chức xã hội, của cử tri
xem thông tin đó có mang tính đại diện hay chỉ là của số ít. Từ đó, đại biểu sẽ đánh
giá được độ tin cậy của thông tin - đại biểu sẽ đưa ra ý kiến phản biện một cách
hiệu quả, sát, đúng.
Tiêu chí để đánh giá, kiểm chứng thông tin về độ chính xác, tin cậy:
- Thông tin đó được cung cấp từ nguồn nào (chính thống hay dư luận)?
- Thông tin đó có mang tính đại diện (số đông) hay chỉ là thiểu số?
- Thông tin do ai cung cấp (độ tin cậy phụ thuộc vào chức vụ, trình độ, năng
lực của người cung cấp thông tin)?
- Thông tin đã được đối chiếu khi có mâu thuẫn giữa các nguồn tin chưa?
Ngay trong việc thu thập, tổng hợp, phản ánh ý kiến cử tri (là trách niệm của
đại biểu) cũng cần chú ý: có những ý kiến, kiến nghị, nguyện vọng là đúng, không
sai chủ trương, chính sách nhưng chưa, hoặc không phù hợp với thực tế, không có
tính khả thi - cũng được coi như là thông tin không mang tính đại diện. Khi đó,

trong tiếp xúc cử tri, đại biểu cần giải thích để cử tri hiểu, chia sẻ và thôi không
kiến nghị nữa.

14



×