Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận Tâm lý học hoạt động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.72 KB, 20 trang )

VẤN ĐỀ ĐỘNG CƠ TRONG TÂM LÝ HỌC HOẠT ĐỘNG. Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH ĐỘNG CƠ HỌC TẬP ĐÚNG ĐẮN
CHO HỌC VIÊN Ở CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG
QUÂN SỰ HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Vấn đề động cơ là một trong những vấn đề quan trọng và phức tạp nhất
của tâm lý học. Động cơ được nghiên cứu rất sớm trong lịch sử tâm lý học,
đồng thời cũng là một trong những vấn đề phức tạp nhất trong đời sống tâm lý
của con người. Vì vậy, xoay quanh vấn đề này có rất nhiều quan điểm, trường
phái khác nhau, thậm chí trái ngược nhau không chỉ giữa các trường phái mà
ngay cả trong cùng một trường phái tâm lý học. Sự đấu tranh diễn ra rất quyết
liệt trên nhiều mặt như: quan niệm về động cơ, nguồn gốc và sự hình thành
động cơ.... Tuy nhiên, hầu hết các nhà tâm lý học đều cho rằng, nghiên cứu
hoạt động của con người không thể không nghiên cứu động cơ, động cơ là
phạm trù không thể thiếu của tâm lý học. Song do cách thức tiếp cận, lập
trường và phương pháp luận khác nhau nên các trường phái tâm lý học đều
có sự lý giải khác nhau về động cơ. Đến khi tâm lý học hoạt động ra đời,
dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của triết học Mác và phương pháp
tiếp cận hoạt động thì hiện tượng tâm lý phức tạp này mới từng bước được
làm sáng tỏ. Nhưng đây là một vấn đề hết sức phức tạp cả về lý luận và
thực tiễn nên hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cần phải tiếp tục đi sâu
nghiên cứu làm rõ. Chính vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu những quan điểm
khác nhau về động cơ của các nhà tâm lý học nói chung, các nhà tâm lý học
hoạt động nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đó là cơ sở khoa học để
nhận thức và đề xuất biện pháp phù hợp hình thành động cơ hoạt động
quân sự đúng đắn cho quân nhân trong giai đoạn hiện nay.


I. Những quan điểm về động cơ trong tâm lý học phương Tây
1. Trường phái Phân tâm học
Đại diện tiêu biểu là S.Freud (1856 - 1939), ông đã tuyệt đối hoá vai


trò của bản năng, coi đó là động lực cơ bản của hành vi con người. Trong tác
phẩm “Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục”, ông đã khẳng định năng lượng
“libido” là căn nguyên, cội nguồn của mọi hành vi con người. Freud đã xem
xét con người nói chung và vấn đề động cơ nói riêng dưới góc độ sinh vật
thuần tuý mà chưa chú ý đến bản chất xã hội của nó.
A.Adler (1870 - 1937) đã đưa ra ý kiến thay yếu tố bản năng tình dục
bằng yếu tố quyền lực. Theo ông, động lực cơ bản của hành vi con người là ý
chí quyền lực, ý chí hùng mạnh.
Một số nhà tâm lý học trong trường phái Phân tâm mới như R.Horney,
E.Fromm đã bắt đầu chú ý đến sự ảnh hưởng của xã hội tới hành vi của con
người. Tuy nhiên, trong cách giải thích của họ thì yếu tố bản năng vẫn còn
bộc lộ vai trò chủ đạo đối với việc thúc đẩy hành vi con người.
2. Trường phái tâm lý học hành vi
Đại diện là J.Watson (1878 - 1958) cho rằng: phải lấy hành vi làm đối
tượng nghiên cứu của mình. Ông chủ trương đi tìm mô hình động cơ và
những quy luật của nó trong việc nghiên cứu động vật và sử dụng những kết
quả thu được để giải thích hành vi con người, đưa đến lý do giải thích hành vi
con người theo công thức S – R (kích thích – phản ứng). Đồng thời, tính tích
cực, tính chủ thể của con người sống thực đã bị tước bỏ. Điều này dẫn đến kết
luận: không cần thiết phải nghiên cứu động cơ. Có thể nói thuyết hành vi cổ
điển chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề động cơ.
Chủ nghĩa hành vi mới (E.Tolman, K.Hull, B.F.Skinner) muốn nghiên
cứu khâu trung gian giữa S và R mà chủ nghĩa hành vi cổ điển bỏ qua. Các tác
giả này cho rằng, yếu tố trung gian bao gồm ý định, chương trình, hình ảnh,
tri thức, kỹ xảo. Tuy nhiên, cái quy định động cơ vẫn là những kích thích vật
lý từ bên ngoài và những nhu cầu của cơ thể lúc tiếp nhận kích thích đó. Chủ
2


nghĩa hành vi mới tuy chưa giải thích thấu đáo về động cơ, nhưng đã để lại

một bước tiến trong lịch sử tâm lý học khi nghiên cứu hiện tượng tâm lý này.
3. Tâm lý học Ghestal
Tâm lý học Ghestalt ra đời vào 1913 do M.Wertheimer (1880 - 1943),
V.Kohler(1887 - 1967) và K.Koffka (1886 - 1941) xây dựng nên. Trường phái
này chủ yếu nghiên cứu về tri giác và các quy luật của nó, ngoài ra còn nghiên
cứu một phần về tư duy. K.Lewin - mét trong những đại diện của trường phái
này đã chú ý nhiều hơn đến vấn đề nhân cách, vấn đề động cơ. Ông và các
cộng sự đã lấy khái niệm“trường tâm lý” để làm cơ sở nghiên cứu tâm lý
người, trong đó có vấn đề về động cơ.
4. Dòng phái tâm lý học nhân văn
Đại diện tiêu biểu như A.Maslow, C.Rogers, lấy nhân cách làm đối
tượng nghiên cứu của mình, điểm xuất phát là xem nhân cách như là hệ thống
trọn vẹn, với cái tôi vốn có, bẩm sinh. Trong thuyết “Tự khẳng định”,
A.Maslow đã cho rằng: Động lực chính của nhân cách là mong muốn trở
thành cái nó có thể thực hiện bằng tất cả khả năng, ý chí của mình. A.Maslow
cho rằng nhu cầu với hệ thống thứ bậc của nó là cơ sở tiền đề, là động lực của
sự định hướng, phát triển nhân cách. Đây là một quan niệm đúng đắn vì nó đã
đề cập đến nhu cầu với tư cách là nguồn gốc của động cơ nhưng ông đã quá
đề cao nhu cầu “tự khẳng định” đối với sự phát triển của nhân cách dẫn đến
không lý giải một cách khách quan về động cơ hoạt động của con người.
Khác với Maslow, trong thuyết hai yếu tố của mình, F.Heizberg cho
rằng không phải nhu cầu nào cũng đóng vai trò là động cơ thúc đẩy. Những
nhu cầu khi được đáp ứng chỉ tạo ra cảm giác hài lòng, không phải là động cơ
thúc đẩy, mà chỉ là những yếu tố duy trì. Chỉ những nhu cầu nào khi đáp ứng
tạo ra cảm giác thoả mãn thì mới là động cơ thúc đẩy. Theo Heizberg: những
yếu tố duy trì bao gồm: chính sách của tổ chức, sự giám sát công việc, điều
kiện làm việc, các mối quan hệ công việc, lương, chức vụ và sự an toàn;
3



những yếu tố tạo động cơ thúc đẩy gồm: sự thành đạt, sự công nhận và thừa
nhận thành tích, sự thăng tiến và tính hấp dẫn của công việc…
Mặc dù có những cách luận giải khác nhau, nhưng các quan niệm trên
đều thống nhất cho rằng: hoạt động của con người phải do những động lực
thúc đẩy và hướng tới những mục đích nhất định. Đây là những đóng góp
quan trọng vào việc làm rõ nguồn gốc tính tích cực hoạt động của con người.
Nhưng sai lầm quan trọng nhất của các nhà tâm lý học phương Tây là khi
xác định bản chất của động cơ họ đều nghiêng về bản năng sinh vật, hay còn
bó hẹp trong năng lượng thuần tuý nằm bên trong cơ thể của mỗi cá nhân.
Từ đó đi đến phủ nhận vai trò của ý thức con người và đồng nhất cái tâm lý
với cái bản năng sinh lý, không nhận thức được vai trò của xã hội và hoạt
động thực tiễn của con người là nguồn gốc trực tiếp, động lực thúc đẩy sự
phát triển tâm lý - ý thức và nhân cách.
II. Vấn đề động cơ trong tâm lý học Mác-xít
Kế thừa những thành tựu đã đạt được, các nhà tâm lý học Mác-xít đã
đứng trên lập trường duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng để
nghiên cứu về động cơ. Xuất phát điểm khi nghiên cứu về vấn đề này là từ
quan niệm về con người và bản chất xã hội của con người. Các nhà tâm lý học
hoạt động coi con người với tư cách là một thực thể tự nhiên, đồng thời là một
thực thể xã hội; con người vừa là sản phẩm của quá trình phát triển của tự
nhiên, và sự phát triển của xã hội; nhưng đó không phải là sản phẩm thụ động
mà là chủ thể tích cực tác động trở lại quá trình phát triển của xã hội - lịch sử.
Từ luận điểm của C.Mác: “…bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” (1); chúng ta nhận thấy rằng: Con
người Mác nêu ra trong luận điểm này là một cá nhân (con người hiện thựccó thực), đang sống và hoạt động trong những điều kiện xã hội - lịch sử cụ
thể; con người đó thực chất tồn tại với tư cách là một nhân cách. Điều này đã
1

Các Mác và Ph. Ăng ghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật H. 1980, tr 257.


4


chỉ ra cho chúng ta một phương pháp tiếp cận khi nghiên cứu về động cơ là
phải gắn với con người, gắn với nhân cách cụ thể và gắn với những hành vi,
hoạt động cụ thể của mỗi cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy, mà nhiều nhà
tâm lý học hoạt động đã đi đến khẳng định rằng: “Động cơ có liên quan đến
tất cả những cái gì thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người để hướng
tới đối tượng chiếm lĩnh nó, nhằm thoả mãn nhu cầu sống và hoạt động của
họ”(2). Như vậy động cơ hoạt động của con người là những cái gì đó mà nhằm
đáp ứng hay thoả mãn một hay nhiều nhu cầu nào đó của họ khi họ với tư
cách là chủ thể của hoạt động và cảm thấy nó thúc đẩy chính hoạt động của
mình. Đối với một chủ thể nhất định, động cơ là lực đẩy trực tiếp, là nguyên
nhân trực tiếp của hành vi hoạt động; mặt khác, động cơ không chỉ thúc đẩy
mà còn định hướng cho hoạt động, tạo cho hoạt động mang một ý nghĩa cá
nhân nào đó. Do vậy cùng thực hiện một hành động như nhau nhưng ở mỗi
chủ thể hoạt động khác nhau lại mang những động cơ khác nhau. Nguồn gốc
của động cơ không phải bắt nguồn từ sự tư biện của tư duy cá nhân hay ý thức
con người mà nó được bắt nguồn từ những nhu cầu được ý thức mà nguồn
gốc của nó là từ bên ngoài. Động cơ hoạt động của con người là sự cụ thể hoá
những nhu cầu (cá nhân và xã hội) thành động lực thúc đẩy, định hướng hoạt
động của họ trong đời sống xã hội. Bởi vậy, nội dung và tính bức thiết của các
nhu cầu chi phối rất sâu sắc tới hệ thống động cơ hoạt động của con người. Vì
vậy, để hiểu được động cơ trước hết cần hiểu một cách sâu sắc về nhu cầu,
nhu cầu là nguồn gốc làm nảy sinh động cơ.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học Mác-xít thì: “Nhu cầu là những
đòi hỏi tất yếu khách quan, biểu hiện sự cần thiết về một cái gì đó cần được
thoả mãn của con người trong cuộc sống và hoạt động” (3). Hiểu nhu cầu cần
phải hiểu vấn đề mấu chốt nhất đó là: tính khách quan; tính khách quan của

nhu cầu được biểu hiện trên hai mặt: mặt thứ nhất là sự cần thiết của chủ thể
2

A.N Lêonchiev, Những vấn đề phát triển tâm lý , Nxb Tư tưởng M.1965, tr 273 (Tiếng Nga).

33

Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H.1998, tr 248.

5


phải được thoả mãn các nhu cầu để đảm bảo sự sống và tồn tại (như ăn, mặc,
ở, đi lại, vui chơi - giải trí...); mặt thứ hai của việc thoả mãn các nhu cầu đó
của con người phải được thực hiện bằng các đối tượng của hoạt động thực
tiễn - tức là tính thực tiễn, khách quan của đối tượng. Điều đó cho thấy nhu
cầu được nảy sinh bởi mối quan hệ biện chứng giữa hoàn cảnh bên ngoài với
điều kiện bên trong của con người, nó biểu hiện sự phụ thuộc của con người
vào hoàn cảnh sống cụ thể, nhưng đó không phải là sự lệ thuộc một cách máy
móc vào điều kiện hoàn cảnh, mà đó là sự thể hiện mối tác động tích cực trở
lài điều kiện hoàn cảnh, cải tạo chính hoàn cảnh đó. Như vậy, nhu cầu có
nguồn gốc từ hiện thực khách quan và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn
mà nó được nảy sinh. Vì vậy, nhu cầu không tách rời hoạt động, nhờ hoạt
động mà sự cần thiết trừu tượng nào đó được vật chất hoá và trở thành nhân tố
kích thích trực tiếp đối với hoạt động sống của con người; mặt khác, nhu cầu
không chỉ là sự đòi hỏi, sự cần thiết phải được thoả mãn trong hoạt động mà
còn là điều kiện, là tiền đề của hoạt động, đóng vai trò hướng dẫn điều chỉnh
hoạt động. Nói về vấn đề này, A.N.Leonchiev viết: “Nhu cầu với tư cách là
điều kiện bên trong, là tiền đề bắt buộc của hoạt động và nhu cầu với tư cách
là cái hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động cụ thể của chủ thể trong môi trường

đối tượng”(4). Với quan niệm như vậy, xét trong mối quan hệ gắn bó mật thiết
với môi trường xung quanh, con người không chỉ phụ thuộc một cách thụ
động, mà nhờ có nhu cầu, hoạt động của con người trở nên tích cực, chủ động
và sáng tạo; điều này thể hiện rất rõ tính chất chủ thể trong quá trình hoạt
động. Tuy nhiên, tính tích cực của nhu cầu đó chỉ tồn tại ở dạng tiềm tàng,
chứ chưa phải đã thúc đẩy hành vi và hoạt động đạt hiệu quả, mà muốn biến
thành những hành động cụ thể, nhu cầu đó phải được chuyển hoá thành động
cơ - khi đó nhu cầu với tư cách là động lực thúc đẩy hành vi và hoạt động của
con người một cách tự giác, tích cực, đạt hiệu quả cao.
44

A.N. Lêonchiép, Hoạt động - Ý thức - Nhân cách, Nxb Giáo Dục, H.1989, tr 99, tr 4.

6


Quá trình chuyển hoá nhu cầu thành động cơ được diễn ra trong quá
trình đạt đến sự thoả mãn nhu cầu của cá nhân; ở quá trình này, lúc đầu nhu
cầu chỉ là trạng thái thiếu thốn, cần thiết phải thoả mãn một cái gì đó, về
phương hướng để đạt tới nhưng chưa được hình thành một cách rõ rệt, chỉ đến
khi chủ thể gặp được đối tượng đáp ứng được nhu cầu (quá trình đối tượng
hoá nhu cầu), thì nhu cầu mới trở thành động cơ trực tiếp thúc đẩy hoạt động.
A.N.Leonchiev mô tả quá trình này là: “Trước khi được thoả mãn, lần đầu
tiên thì nhu cầu “chưa biết đến” đối tượng của nó, đối tượng này còn cần phải
được phát lộ ra. Chỉ nhờ kết quả của sự phát lộ như vậy, nhu cầu mới có được
tính vật thể (đối tượng) của nó, còn cái vật được nhận biết (được hình dung,
được tư duy ra) ấy thì có được chức năng thúc đẩy, chức năng hướng dẫn hoạt
động, tức là trở thành động cơ”. Tuy nhiên, sự hình thành động cơ hoạt động
của con người không phải là sự dịch chuyển máy móc, cơ học của điều kiện
khách quan có tính áp đặt từ bên ngoài vào bên trong con người, mà đó là một

quá trình được chủ thể ý thức hoá đối tượng với những mức độ nông sâu khác
nhau là do tri thức, kinh nghiêm, vốn sống, thái độ, tình cảm...của chính chủ
thể. Vì vậy, trước khi trở thành đối tượng để con người chiếm lĩnh, thoả mãn
nhu cầu của mình, những yêu cầu khách quan phải được ý thức - tức là “cái
vật được nhận biết (được hình dung, được tư duy ra)” thì động cơ hoạt động
của con người mới được hình thành. Từ sự phân tích trên đây cho thấy: động
cơ của con người mang đặc trưng bởi tính lịch sử - xã hội rất rõ nét, phản ánh
sâu sắc đặc điểm xã hội - lịch sử. Luận điểm này có ý nghĩa phương pháp
luận rất sâu sắc trong việc giáo dục nhân cách theo những yêu cầu khác nhau
của xã hội. Bản chất của động cơ được thể hiện trước hết ở bản chất xã hội và
hoạt động là cơ sở của động cơ. Như vậy, các động cơ đặc trưng của con
người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát triển cá thể thông qua quá
trình hoạt động và giao tiếp xã hội mà có, chứ không phải là một cái gì đó sẵn
có từ lúc con người mới sinh ra đã sẵn có. Như vậy, vấn đề có ý nghĩa thực
tiễn trong giáo dục là phải nghiên cứu các cơ sở qui định, chi phối đến quá
7


trình hình thành các động cơ đặc trưng của con người; đồng thời nghiên cứu
các cơ chế của quá trình đó. Cho đến nay, mặc dù còn có nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề này, song phần lớn các nhà tâm lý học hoạt động đều
thừa nhận rằng: hệ thống động cơ của con người được hình thành trên cơ sở
quá trình hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong hệ thống các quan hệ xã
hội, các nhóm xã hội nhất định mà cá nhân đó chiếm giữ các vị trí xã hội và
thực hiện vai trò của mình. Bản chất xã hội của nhân cách được thể hiện rõ
nét tính chất lịch sử - xã hội; tính lịch sử - xã hội của động cơ con người biểu
hiện ở chỗ: đối tượng thoả mãn các nhu cầu của con người là những sản phẩm
của quá trình sản xuất xã hội - lịch sử do các thế hệ người đi trước để lại và
tác động vào chủ thể làm xuất hiện các nhu cầu ngày càng cao trong quá trình
sống và hoạt động. Với tư cách là kết quả phản ánh tâm lý về các đối tượng

đó, nên các động cơ đặc trưng của con người có nguồn gốc xã hội- lịch sử,
mang đặc điểm của điều kiện xã hội lịch sử. Ngay cả đối với những động cơ
có nguồn gốc sinh vật thì việc đáp ứng chúng cũng mang tính xã hội chứ
không phải thuần tuý đáp ứng nhu cầu về mặt sinh lý, phụ thuộc vào điều kiện
sống cụ thể, đặc biệt là vào văn hoá - lối sống đặc trưng cho mỗi nhóm người,
mỗi dân tộc. Việc khẳng định tính lịch sử - xã hội của các động cơ đặc trưng
của con người cũng chính là sự khẳng định vị trí, tầm quan trọng của giáo dục
đối với quá trình hình thành nhu cầu - động cơ của nhân cách.
Để hiểu động cơ phải nghiên cứu cấu trúc của nó; cấu trúc của động cơ,
theo quan điểm của nhiều nhà tâm lý học thì có thể phân biệt hai loại cấu trúc:
cấu trúc của hệ động cơ (chuỗi động cơ liên tục nối tiếp nhau xuyên suốt một
quá trình hoạt động nhất định của con người) và cấu trúc của động cơ hoạt
động (một hoạt động cụ thể) như là một tiểu hệ thống trong hệ thống động cơ
của con người. Khi nghiên cứu động cơ như một hiện tượng tâm lý, các nhà
tâm lý học đã đề cập đến tính hệ thống, chỉnh thể trong hệ động cơ của con
người và đi đến khẳng định rằng, các động cơ của con người có tính hệ thống
(chỉnh thể thống nhất). Điều này có nghĩa là các động cơ khác nhau của con
8


người không tách biệt nhau mà chúng nằm trong các mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tạo nên một hệ thống trọn vẹn. Trong mỗi giai đoạn phát triển của cá thể
hay mỗi thời điểm khác nhau của cuộc sống, thì có những động cơ giữ vai trò
chủ đạo, định hướng, chi phối các động cơ khác và ngược lại. Vai trò của các
động cơ trong hệ thống là không ngang bằng nhau, mà chúng thay đổi tuỳ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cũng như vào các hoạt động sống cụ thể của
mỗi người. Tính hệ thống của động cơ đã làm cho các hoạt động của con
người mang tính đa phong phú, nhiều vẻ. Một hoạt động có thể được thực
hiện do sự thôi thúc của nhiều động cơ khác nhau; song một động cơ cũng có
thể được thoả mãn bởi nhiều dạng hoạt động khác nhau của chủ thể. Sự thay

đổi mối quan hệ và vai trò của các động cơ khác nhau trong hệ thống động cơ
theo thời gian, theo điều kiện sống hay theo hoạt động của con người cho
phép chúng ta khẳng định rằng: bất kỳ một đối tượng nào cũng chứa đựng
trong nó “lực động cơ tiềm năng” đối với hoạt động của con người. Điều này
phản ánh tính chất liên tục, kế tiếp nhau của hoạt động của con người được
tạo lập bởi những động cơ bên trong của họ.
Đối với động cơ của hoạt động cụ thể nào đó, về cấu trúc khía cạnh lực
và khía cạnh nội dung trong của động cơ. Khía cạnh nội dung của động cơ
phản ánh cái mà con người muốn vươn tới, muốn đạt được, liên quan đến quá
trình hoạt động của con người mà nó có nguồn gốc từ hiện thực khách quan.
Khía cạnh nội dung của động cơ vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể; tuy
nhiên, điều đó còn tuỳ thuộc vào các điều kiện khách quan với tư cách là môi
trường mà con người đang sống hay đang thực hiện hoạt động. Khía cạnh lực
của động cơ phản ánh độ mạnh của động cơ, nó thể hiện ở chỗ, một động cơ
nhất định có khả năng thúc đẩy chủ thể thực hiện những hoạt động khác nhau
nhằm thoả mãn động cơ đó hay không ? nếu có thì nó có thể duy trì hoạt động
đó một cách tích cực, mạnh mẽ, lâu dài; ngược lại, nó làm cho hoạt động đó
của con người thiếu quyết tâm hay cầm chừng, nửa vời. Trong tương quan
giữa khía cạnh nội dung và khía cạnh lực của động cơ con người luôn thay
9


đổi và chuyển hoá cho nhau. Sự thay đổi này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau. Khía cạnh lực của một động cơ nào đó có thể lúc này tồn tại dưới dạng
là lực tiềm năng, nhưng lúc khác lại trở thành lực thúc đẩy có hiệu lực hoạt
động của họ. Nếu như lực tiềm năng chỉ bao gồm các yếu tố xúc cảm thì
ngoài các yếu tố đó, thì lực thúc đẩy có hiệu lực còn chứa đựng nhiều yếu tố
hành động tích cực. Độ mạnh của khía cạnh lực được xác định bằng cường độ
các trải nghiệm xúc cảm và mức độ tham gia của yếu tố hành động tích cực
vào quá trình thoả mãn động cơ cũng như số lượng các hao phí về mặt năng

lượng - chức năng, mức độ nỗ lực ý chí con người.
Quá trình hình thành động cơ diễn ra tuân theo một quy trình có sự
kiểm soát và chỉ đạo của ý thức. Động cơ và ý thức có mối quan hệ thống
nhất biện chứng với nhau. Tâm lý học hoạt động khẳng định rằng: cũng như
các hiện tượng tâm lý khác, động cơ hoạt động của con người là sự phản ánh
chủ quan các giá trị xã hội - lịch sử một cách khách quan. Trong quá trình
phát triển cá thể, hệ thống động cơ - nhu cầu đặc trưng của con người được
hình thành trên cơ sở cá nhân lĩnh hội các giá trị xã hội - lịch sử khác nhau dần dần thẩm thấu và tiếp nhận chúng như những giá trị của bản thân, đem
lại cho chúng những ý nghĩa nhân cách riêng. Đây là một quá trình tích cực
hoá, được thực hiện trên cơ sở cá nhân nhận thức sâu sắc ý nghĩa của hoạt
động của bản thân từ đó tích cực tham gia vào các dạng hoạt động xã hội
khác nhau, giao tiếp với những người xung quanh, tham gia vào các quan hệ
xã hội; từ đó khẳng định vị trí, vai trò của mình trong các quan hệ đó. Đó là
một quá trình lĩnh hội có sự chọn lựa các giá trị phù hợp với vị trí và vai trò
của mỗi chủ thể trong hệ thống các quan hệ xã hội. Do đó, hệ thống động cơ
của mỗi cá nhân với những quan hệ thứ bậc của các động cơ cấu thành nên
hệ thống đó không hoàn toàn trùng khớp với hệ thống các giá trị xã hội - đây
chính là cơ sở hình thành nên các nhân cách khác nhau. Như vậy, xét về quá
trình hình thành, các động cơ đặc trưng của con người không tách rời ý thức,
10


mà nó được ý thức hoá trong toàn bộ đời sống và hoạt động của mỗi cá
nhân. Điều này cũng không loại trừ với những động cơ được xem là có tính
sinh lý của con người như các động cơ nhằm đáp ứng các nhu cầu ăn uống
hay nhu cầu tình dục. Với cách nhìn nhận như vậy, cho chúng ta nhận thức
về cách thức thoả mãn các nhu cầu của con người có sự phụ thuộc rất nhiều
vào quá trình giáo dục nhân cách, vào các đặc điểm lối sống - văn hoá đặc
trưng cho mỗi nhóm người, mỗi dân tộc, vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội. Nghĩa là quá trình hình thành và phát triển các động cơ cũng tuân theo

quy luật của sự hình thành và phát triển của bất kỳ một hiện tượng tâm lý - ý
thức nào của con người đó là: mang tính xã hội và không tách rời ý thức.
Giữa động cơ hoạt động và ý thức của con người thể hiện sự quan hệ gắn bó
mật thiết ngay cả trong quá trình động cơ thực hiện chức năng định hướng,
điều chỉnh hành vi. Tuy nhiên, sự tham gia đó của ý thức không có nghĩa là
trong cuộc sống hàng ngày, lúc nào con người cũng có ý thức một cách rõ
ràng những gì thôi thúc mình thực hiện hoạt động này hay hoạt động khác.
Trong những hoàn cảnh buộc con người phải lựa chọn, nghĩa là buộc con
người phải đấu tranh động cơ và chủ thể sẽ nhận thức rõ mình hành động vì
điều gì; song cũng không ít trường hợp, con người không chủ động đặt ra câu
hỏi về những điều thôi thúc anh ta hoạt động và không kiểm soát một cách có
ý thức hoạt động đó. Trong trường hợp này khi các động cơ đã có tính bền
vững hình thành nên xu hướng của nhân cách và được thể hiện trong cuộc
sống thực tiễn, chủ thể có khuynh hướng sẵn sàng thực hiện xu hướng đó như
một thói quen. Động cơ hoạt động của con người không tách rời ý thức,
nhưng chúng được phản ánh ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào thái độ
chủ quan của chủ thể và đối tượng khách quan. Về mặt chủ quan, động cơ
hoạt động được phản ánh gián tiếp thông qua sự cảm nhận của chủ thể về các
trạng thái xúc cảm có liên quan đến động cơ. Về mặt khách quan, chúng có
thể được chủ thể ý thức nhờ vào việc phân tích hoạt động của họ. Vì vậy,
11


động cơ hoạt động của con người được gián tiếp hoá bởi các quá trình nhận
thức như: tư duy, ngôn ngữ, các quá trình ý chí. Chúng tương đối bền vững,
không hoàn toàn phụ thuộc vào những thay đổi của hoàn cảnh hay trạng thái
của cơ thể.
Từ sự phân tích bản chất và cấu trúc của hiện tượng động cơ có nghĩa
rất lớn trong việc giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách. Việc
hình thành có định hướng những động cơ ở nhân cách phải xuất phát từ tính

lịch sử - xã hội của động cơ con người. Quan điểm về tính lịch sử - xã hội
của động cơ cũng như về lực thúc đẩy, về nguồn gốc và điều kiện kiện phát
triển tâm lý người khẳng định vai trò to lớn của điều kiện xã hội- lịch sử đã
chỉ ra rằng: muốn hình thành có định hướng hệ thống động cơ ở con người,
cần phải bắt đầu từ việc xây dựng môi trường xã hội với đầy đủ hệ thống các
thiết chế tương ứng đảm bảo điều kiện cần và đủ cho việc xác lập các quan
hệ xã hội. Do vậy để phát triển nhân cách vấn đề quan trọng hàng đầu là phải
giáo dục xây dựng động cơ đúng đắn cho mỗi chủ thể trong quá trình hoạt
động của họ. Mặt khác, mỗi chủ thể hoạt động có những nhu cầu, nhận thức,
kinh nghiệm, vốn sống...khác nhau nên phải định hướng và khơi dậy trong họ
tính tích cực, tự giác tự giáo dục và rèn luyện động cơ đúng đắn cho mình.
Đây chính là cơ sở bền vững để hình thành những động cơ mới, có ý nghĩa
nhân cách đối với con người.
III. Ý nghĩa của vấn đề trong hình thành động cơ học tập đúng đắn
cho học viên ở các học viện, nhà trường quân sự hiện nay
Nghiên cứu về động nói chung và động cơ với quá trình hoạt động, ta
thấy động cơ là thành phần quan trọng nhất thúc đẩy, định hướng hoạt động
của con người đồng thời tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành, phát
triển, hoàn thiện nhân cách con người. Do đó, để để hoạt động của con người
đạt hiệu quả và góp phần xây dựng, hoàn thiện nhân cách, trước hết phải quan
tâm đến việc xây dựng, củng cố hệ thống động cơ hoạt động tích cực cho họ.
Trong hệ thống động cơ hoạt động của người học viên thì động cơ học tập,
12


rèn luyện, phấn đấu trở thành đảng viên giữ vai trò to lớn, quyết định đến tính
tích cực, hoạt động huấn luyện, rèn luyện của họ.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng nhìn nhận
nhân cách trong mối quan hệ chặt chẽ với các quan hệ xã hội của cá nhân, gắn
giá trị của nhân cách với hệ thống giá trị của xã hội - nơi mỗi nhân cách cụ

thể đã hình thành và phát triển. Do vậy, động cơ hoạt động của học viên, đặc
biệt là những động cơ đặc trưng của học viên như là biểu hiện hệ thống giá trị
của từng cá nhân. Hệ thống động cơ và các hoạt động đã được định hướng
được xem là các tham số quan trọng nhất của học viên. Động cơ là hạt nhân là
thành phần cơ bản cấu thành xu hướng là mắt xích khởi đầu, mắt xích nền
tảng của nhân cách. Bởi vậy trong cuộc sống và hoạt động học viên luôn
hướng vào nhận thức những gì với họ là có giá trị để định hướng cho cuộc
sống và hoạt động của mình
Hoạt động quân sự là một lĩnh vực hoạt động mang tính đặc thù mà chủ
thể hoạt động chính là đội ngũ cán bộ chiến sĩ. Họ là những người được giác
ngộ về nhiệm vụ chính trị, được vũ trang bảo vệ tổ quốc, về chuyên môn
nghiệp vụ quân sự, họ có đủ kiến thức và năng lực để sử dụng các loại vũ khí
trang bị kỹ thuật, phương tiện hoạt động quân sự, thực hiện hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao, mà nhiệm vụ chính là bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh
quốc gia, bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nền văn
hoá - xã hội, bảo vệ thành quả lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
hoạt động lao động khác của nhân dân. Đó là một lĩnh vực hoạt động lao động
đặc biệt đòi hỏi mỗi quân nhân phải có ý thức chính trị xã hội rất cao, sẵn
sàng hy sinh đổ máu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy,
những đối tượng hoạt động quân sự xuất hiện dưới hình thức là những yêu
cầu khách quan về lĩnh vực hoạt động mà học viên phản ánh và ý thức phải
nhận thức, phải chiếm lĩnh. Những yêu cầu đó được cụ thể hoá thành những
nội dung học tập, rèn luyện, huấn luyện chiến đấu và chuyển hoá thành động
cơ cao cả.
13


Như vậy, xây dựng hệ thống động cơ hoạt động học tập, rèn luyện,
huấn luyện chiến đấu của học viên là cơ sở quan trọng nâng cao chất lượng
xây dựng đơn vị chính qui, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính

qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới. Để xây dựng động cơ hoạt động quân sự cho học viên
trong giai đoạn hiện nay cần tập trung làm tốt một số nội dung cơ bản như
sau:
Một là, giáo dục nâng cao nhận thức cho học viên về nhiệm vụ học tập.
Đối với học viên ở các học viện, nhà trường nhiệm vụ chính trị trung tâm là
học tập huấn luyện trở thành người cán bộ sĩ quan của quân đội. Để học viên
có được động cơ học tập đúng đắn, tích cực chủ động trong học tập thì yêu
cầu đầu tiên là phải giáo dục nâng cao nhận thức cho họ. Nhận thức đúng mới
có hành động đúng, cũng chính việc nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ mà
người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập phấn đấu, tích cực chủ động
trong mọi khâu, trau rồi kiến thức, tìm tòi, khám phá, sáng tạo trong học tập.
Việc giáo dục nâng cao nhận thức cho học viên phải được tiến hành thường
xuyên liên tục ngay từ khi nhập ngũ cho tới khi ra trường, tập trung giáo dục
đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước, giáo
dục nhiệm vụ của quân đội, đơn vị, chức trách nhiệm vụ mà quân nhân sẽ
đảm nhiệm, giáo dục lòng yêu nước tinh thần cách mạng, niềm tự hào dân tộc
để học viên thấm nhuần, phấn đấu vươn lên trong học tập. Trách nhiệm đó
thuộc về lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị nhưng
trước hết và trên hết là thuộc về các học viện nhà trường, tích cực giáo dục
biến quá trình học tập thành quá trình tự học tập cho học viên để người học
tích cực học tập đạt kết quả cao.
Mục đích giáo dục nâng cao nhận thức cho học viên chính là làm cho
hệ thống giá trị của lĩnh vực hoạt động quân sự, yêu cầu về phẩm chất và
14


năng lực hoạt động của học viên cách mạng mà Đảng, nhà nước, quân đội,
nhân dân tin tưởng, được chuyển thành hệ thống giá trị trong mỗi người học
viên. Thực hiện được mục đích đó sẽ làm cho mỗi người học viên thấy mình

có giá trị với xã hội, với quân đội, đồng thời họ sẽ đáp ứng được mục tiêu,
yêu cầu đào tạo trong hiện tại và hoạt động nghề nghiệp quân sự trong tương
lai.
Hai là, xây dựng động cơ nghề nghiệp đúng đắn, thái độ ý thức trách
nhiệm cao cho đội ngũ học viên.
Động cơ, thái độ trách nhiệm là nguồn gốc nảy sinh tính tích cực, tự giác
hoạt động. Người cán bộ có động cơ nghề nghiệp đúng đắn, có ý thức trách
nhiệm cao họ sẽ có sự giác ngộ sâu sắc về nhiệm vụ, tích cực, chủ động trong
công việc, nhiệt tình trách nhiệm sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để
nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao và ngược lại. Động cơ chính trị
xã hội, động cơ nghề nghiệp quân sự, động cơ tự khẳng định mình hay động cơ
lợi ích cá nhân sẽ là lực thúc đẩy người cán bộ tích cực, chủ động trong công
việc, tích cực tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tự tu dưỡng
rèn luyện phẩm chất nhân cách, đạo đức lối sống, tác phong công tác, biết quan
tâm chia sẻ với nhau về tâm tư tình cảm. Tính tích cực và chủ động trong công
việc của người học viên là yêu cầu tiền đề đảm bảo cho sự thành công trong mọi
hoạt động. Mọi chủ trương, kế hoạch của cấp trên, của Nhà trường đội ngũ học
viên sẽ chủ động lĩnh hội, cụ thể hóa trong kế hoạch bằng các hoạt động cụ thể
và chuẩn hóa nội dung, hình thức và giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho
phù hợp với đặc điểm tình hình đơn vị.
Xây dựng động cơ nghề nghiệp đúng đắn, thái độ ý thức trách nhiệm cao
là phải hướng vào việc giáo dục mục tiêu lý tưởng cách mạng, niềm tin cộng
sản, chuẩn mực đạo đức lối sống của người cán bộ, giáo dục nhu cầu chính đáng,
mong muốn tiến bộ trưởng thành, mong muốn phát triển và hoàn thiện nhân
cách người sĩ quan, nhu cầu sống chiến đấu phục vụ sự nghiệp xây dựng quân
15


đội, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Giáo dục nâng cao nhận thức khoa
học, hứng thú, khát khao khám phá tri thức mới, tinh thần ham học hỏi, cầu tiến

bộ, óc tò mò khoa học, với những khát vọng vươn lên làm chủ tri thức, kỹ xảo,
kỹ năng, làm chủ nghề nghiệp quân sự, khát vọng phấn đấu phát triển trở thành
những nhà lãnh đạo quản lý được cấp trên tín nhiệm, đồng chí đồng đội khâm
phục, ngưỡng mộ, gia đình người thân tự hào, xứng đáng là người cán bộ - sĩ
quan Quân độ nhân dân Việt Nam có đủ “ tâm, tầm, trí”, sẵn sàng nhận và hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao.
Ba là, kết hợp đổi mới nội dung, chương trình đào tạo với giải quyết
hợp lý các nhu cầu cá nhân của người học viên
Nội dung chương trình, phương pháp huấn luyện là cơ sở quan trọng
tác động đến việc hình thành động cơ hoạt động quân sự của quân nhân. Nội
dung, chương trình được xây dựng phải đáp ứng phương châm huấn luyện (cơ
bản, hệ thống, thống nhất và chuyên sâu). Tuy nhiên chất lượng cao hay thấp
của quá trình huấn luyện còn phụ thuộc vào các yếu tố như đặc biệt là nhu cầu
nhận thức và đặc điểm nhận thức của quân nhân. Vì vậy, phải thường xuyên
đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện; giáo dục, tổ chức
tốt các tác động sư phạm nhằm gây dựng hứng thú, say mê, tin tưởng của mỗi
quân nhân trong học tập, huấn luyện. Bên cạnh đó cần giải quyết các nhu cầu
của cá nhân mỗi quân nhân trong quá trình huấn luyện thông qua việc tổ chức
tốt đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng bầu không khí dân chủ, thực hiện kỷ
luật nghiêm minh, thưởng phạt công bằng, định hướng dư luận tích cực, loại
bỏ những tư tưởng, lối sống tiêu cực, không phù hợp với hoạt động quân sự.
Việc thoả mãn các nhu cầu về nhận thức, nhu cầu về tinh thần, nhu cầu vật
chất, sinh hoạt một cách hợp lý trong quá trình đào tạo là cơ sở hình thành
động cơ hoạt động quân sự tích cực ở mỗi học viên.
Bốn là, phát huy tính tích cực tự giác học tập, rèn luyện của học viên.
Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng hiệu quả hoạt động của
quân nhân. Phải đặt yếu tố tích cực, tự giác vào vị trí trung tâm, vì việc tự học
16



tập, rèn luyện là một quá trình xuyên suốt cả thời gian trong quân ngũ. Do
vậy, yêu cầu tất yếu đối với mọi quân nhân là phải tự học, tự rèn, trau dồi kiến
thức, chủ động tiếp thu hệ thống các giá trị xã hội, nắm bắt và làm chủ trang
thiết bị, phục vụ cho nghề nghiệp chuyên môn, cho việc đấu tranh bảo vệ
đường lối, quan điểm của Đảng và đấu tranh chống lại các quan điểm thù
địch, nhận thức sai trái nhất là trong tình hình hiện nay. Từ nhận thức vấn đề
trên, cùng với việc phát tính tích cực tự giác học tập, rèn luyện của mỗi quân
nhân cần tạo điều kiện để cho họ tham gia vào thực tế hoạt động quân sự
trong mọi điều kiện hoàn cảnh để rèn luyện đức tính khắc phục khó khăn,
chịu đựng gian khổ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh chủ quyền Tổ quốc, vì cuộc
sống bình yên của nhân dân. Rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng
trong mọi tình huống, có ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ, hình thành kỹ xảo,
kỹ năng hoạt động quân sự, sức khoẻ bền bỉ dẻo dai, hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao. Nhân cách không phải là bản sao thụ động của các điều
kiện xã hội - lịch sử. Con người với bản chất năng động, sáng tạo có khả năng
cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Ở giai đoạn nhân cách đang trưởng thành khả năng này biểu hiện khá mạnh mẽ. Vì vậy, trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách quân nhân, chúng ta cần đặc biệt khuyến khích
mỗi người tích cực tự hoàn thiện mình. Để nâng cao tính tích cực tự hoàn
thiện nhân cách của quân nhân, người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cần thực hiện
những biện pháp thích hợp tác động tới động cơ tự giáo dục của những quân
nhân thuộc quyền. Nhân cách học viên là một cấu tạo tâm lý mới được hình
thành dưới sự tác động của giáo dục và hoạt động trong lĩnh vực quân sự. Quá
trình hình thành và phát triển nhân cách học viên chỉ có thể đạt hiệu quả cao
khi người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị đề cao trách nhiệm và có kỹ năng
tác động phù hợp với bản chất, cấu trúc nhân cách con người trong đó động
cơ là hạt nhân cơ bản của quá trình hình thành và phát triển nhân cách. làm cơ
sở cho xây dựng và phát triển toàn diện nhân cách quân nhân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
17



Năm là, thường xuyên kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm hoạt động học
tập của học viên. Đây là một trong những biện pháp quan trọng, là cơ sở để lãnh
đạo, chỉ huy đơn vị nhìn lại những kết quả đã đạt được, từ đó kịp thời rút kinh
nghiệm và có chủ trương cách thức tổ chức hoạt động học tập cho học viên đạt kết
quả cao hơn.
Kiểm tra và đánh giá là một chức năng cơ bản trong hoạt động học tập,
nhằm đảm bảo sự lãnh đạo và đánh giá chính xác kết quả đạt được của học viên.
Có kiểm tra, đánh giá mới biết được việc học tập của học viên đạt được đến đâu,
từ đó có quyết định điều chỉnh mục tiêu hoạt động. Do quá trình chỉ đạo không tổ
chức tốt khâu kiểm tra và đánh giá cho nên một số học viên không biết được thành
tích của mình đạt được đến đâu, cũng như chẳng biết bản thân mình chỉ đạo sai ở
khâu nào. Chính vì vậy kiểm tra và đánh giá là một hoạt động không thể thiếu
được của người cán bộ quản lý. Trong thực tế nếu không kiểm tra, đánh giá tốt và
không đúng thực trạng thì kết quả đạt được sẽ bị lệch lạc và sai định hướng.
Đánh giá học viên trong hoạt động học tập và tự học. Đây là khâu hết
sức quan trọng trong công tác cán bộ, có đánh giá đúng phẩm chất, năng lực
của từng học viên mới có biện pháp để nâng cao chất lượng và có cơ sở để
tiến hành các biện pháp cho phù hợp. Thực tế cho thấy việc kiểm tra, đánh giá,
rút kinh nghiệm hoạt động của học viên ở các học viện nhà trường trong thời
gian qua còn có những hạn chế nhất định như: kiểm tra, đánh giá, rút kinh
nghiệm hoạt động học tập của học viên có lúc còn chưa kịp thời, đánh giá chưa
thật sự sát đúng chất lượng học tập của học viên. Vì vậy thường xuyên kiểm tra
đánh giá, rút kinh nghiệm hoạt động học tập của học viên là yêu cầu quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng hoạt động học tập của học viên ở các học viện,
nhà trường quân đội.
KẾT LUẬN
Động cơ là vấn đề được nghiên cứu rất sớm trong lịch sử tâm lý học,
đồng thời cũng là một trong những vấn đề phức tạp nhất trong đời sống tâm lý
18



của con người. Vì vậy, xoay quanh vấn đề này có rất nhiều quan điểm, trường
phái khác nhau. Các nhà tâm lý học phương Tây có xu hướng nghiên cứu
động cơ với tư cách là động lực của hành vi, gắn liền với bản năng sinh vật,
bản năng vô thức và những năng lượng bên trong cơ thể. Trong khi đó, dự
trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của triết học Mác, với cách tiếp cận
hoạt động, các nhà tâm lý học hoạt động đã từng bước lý giải và khám phá
hiện tượng tâm lý phức tạp này cả về lý luận và thực tiễn. Những vấn đề về
khái niệm, cấu trúc, nguồn gốc, cơ chế hình thành động cơ được nghiên cứu
và làm rõ trong các lý thuyết của A.N.Leonchiev, B.Ph.Lomov… Đó chính là
cơ sở khoa học để chúng ta xem xét, đánh giá động cơ hoạt động quân sự của
quân nhân hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, dưới tác động của kinh tế thị
trường, hệ thống động cơ của quân nhân đang có những biến đổi mạnh mẽ
gắn liền với sự biến đổi về giá trị và định hướng giá trị xã hội. Vì vậy, cần
nắm được tính quy luật trong quá trình biến đổi đó để có những biện pháp
thích hợp nhằm hình thành động cơ hoạt động quân sự đúng đắn cho quân
nhân, điều kiện tiên quyết để phát triển nhân cách học viên cách mạng và
nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện ở các đơn vị hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. L.X.Vưgôtxki, Tuyển tập tâm lý học, Nxb ĐHQG, H. 1997.
2. Tâm lý học, Những cơ sở lý luận và phương pháp luận, HVCTQS, 1984.
19


3. Những vấn đề của tâm lý học đại cương, Nxb Matxcơva, 1973.
4. Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 2003.
5. Lịch sử tâm lý học, Nxb ĐHQG, H 2004.
6. Phan Trọng Ngọ (chủ biên), Các lý thuyết phát triển tâm lý người,

Nxb ĐHSP, H 2003.
7. Tuyển tập Phạm Minh Hạc, Nxb CTQG, H 2006.
8. Bản thảo kinh tế - triết học, Nxb Sự thật, H 1962.
9. Tâm lý học Liên Xô, Nxb Tiến bộ, H 1978.
10. Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác, HVCTQS, 1984
11. A.N. Leonchiev, Một số công trình Tâm lý học, Nxb Giáo dục, H 2003.
12. B. Ph. Lomov, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý
học (sách dịch), Nxb ĐHQG, H 2000.
13. A.N. Leonchiev, Hoạt động – ý thức – nhân cách (sách dịch), Nxb
Giáo dục, H 1989.
14. Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 1998.

20



×